Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong những năm gần đây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.56 KB, 32 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Góp phần quan trọng vào thành tựu chung của đất nước, hoạt động thương
mại nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng đã giải quyết được những vấn đề
kinh tế, khai thác được nội lực và phát huy được tiềm năng, lợi thế so sánh
của đất nước. Tuy nhiên xuất nhập khẩu của nước ta còn nhiều tồn tại như quy
mô, khối lượng xuất khẩu thì nhiều nhưng trị giá thấp, dễ gặp rủi ro. Thị
trường xuất khẩu của ta chưa ổn định một trong những nguyên nhân là chất
lượng hàng hoá chưa cao, mẫu mã còn nghèo nàn, giá thành cao, nhiều trường
hợp phải buôn bán qua trung gian.Về cơ cấu hàng xuất khẩu có những thay
đổi rõ nét nhưng tỷ trọng hàng chế biến còn thấp hơn hàng thô. Về nhập khẩu,
thì tình trạng nhập siêu lớn .
Trong thời gian tới, cùng với lộ trình tham gia AFTA và trở thành thành viên
của WTO, chính phủ Việt Nam cần có những chính sách thương mại quốc tế
phù hợp và hữu hiệu để mở rộng thị trường và tăng kim ngạch xuất khẩu hàng
hoá, đa dạng hoá sản phẩm, giảm bớt nhập siêu. Do vậy việc đánh giá hoạt
động xuất nhập khẩu của Việt Nam, tìm ra nguyên nhân của vấn đề để đề xuất
nhữnh giải pháp đổi mới và hoàn thiện chính sách nhằm thúc đẩy phát triển
kinh tế trong nước, đặc biệt là giai đoạn hiện nay- giai đoạn đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, có ý nghĩa quan trọng cả mặt lý luận và
thực tiễn vì vậy nghiên cứu hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong
những năm gần đây là hết sức cần thiết .
Đề án môn học bao gồm những nội dung chính sau:
- Thực trạng xuất nhập khẩu của Việt Nam trong những năm gần đây.
- Những nhân tố ảnh hưởng tới xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2000
tới nay.
- Một số đề xuất và kiến nghị.
Do quá trình nghiên cứu còn nhiều hạn chế, nên không thể tránh khỏi những
sai sót, mong thầy giáo và bạn đọc đóng góp thêm ý kiến để bài viết này đươc
hoàn chỉnh hơn.
Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42


3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Em xin cảm ơn thầy giáo Nguyễn Như Bình đã tận tình giúp đỡ em trong quá
trình nghiên cứu.
1. Thực trạng xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2000 tới nay
1.1 Xuất khẩu
* Kim ngạch
Kim ngạch xuất khẩu từ năm 2000 tới nay đều tăng lên cả về tốc độ và giá trị
tuyệt đối. Năm 2000 tổng kim ngạch đạt 14,45 tỷ USD tăng 24% so với năm
1999, tức là tăng 3,76 tỷ USD. So với chỉ tiêu tăng trưởng Quốc hội đặt ra từ
đầu năm thì chúng ta đã thực hiện gấp 2 lần, và như vậy ngành thương mại đã
về đích so với kế hoạch từ cuối tháng 11. Mặt khác, 3,76 tỷ USD tăng thêm đã
gấp 1,8 lần tổng kim ngạch năm 1991-năm đầu tiên thực hiện chiến lược phát
triển kinh tế 1991-2000; và bằng 51,83% tổng kim ngạch năm 1996-năm đầu
tiên thực hiện kế hoạch 5 năm 1996-2000. Một chút so sánh như vậy để thấy
rằng ngành thương mại đạt kim ngạch xuất khẩu 14,45 tỷ USD là một thành
tích rất đáng tự hào, một sự cố gắng rất lớn góp phần cùng cả nước đưa tốc độ
tăng GDP năm 2000 lên 6,7% .
Kim ngạch xuất khẩu năm 2001 đạt 15,1 tỷ USD, bằng 90,1% kế hoạch, tăng
4,5% so với năm 2000. Kim ngạch xuất khẩu đạt được thấp hơn nhiều so với
mục tiêu đặt ra từ đầu năm, chủ yếu là do tình hình kinh tế thương mại thế
giới diễn biến không thuận lợi, nhất là vào những tháng cuối năm giá giảm
quá mạnh trên thị trường thế giới , đặc biệt là giá giầu thô.
Kim ngạch xuất khẩu năm 2002 đạt 16,706 tỷ USD, tăng 11,2% so với năm
2001. Khác với đồ thị giảm dần của năm 2001, tốc độ tăng trưởng luỹ kế trong
năm 2002 có diễn biến tăng dần (sau 3 tháng –12%, 6 tháng –4,9%, 9 tháng
+3,2%, 12

tháng +11,2%).
Kim ngạch hàng hoá xuất khẩu 10 tháng đầu năm 2003 đạt khoảng 16,55 tỷ

USD, bằng 93% kế hoạch cả năm và tăng 22,7% so với cùng kỳ năm 2002.
Tuy tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu 10 tháng có thấp hơn so với kết quả của
các tháng đầu năm nhưng đã vượt khá xa so với mục tiêu tăng 7-8% đề ra cho
cả năm 2003. Xuất khẩu tăng một phần là nhờ được lợi về giá và quan trọng
Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hơn là do tăng nhanh khối lượng xuất khẩu. Số liệu thống kê cho thấy giá cả
hàng hoá xuất khẩu tăng góp phần làm cho kim ngạch xuất khẩu chung tăng
hơn 700 triệu USD. Trong khi đó, khối lượng hàng hoá xuất khẩu tăng cũng
giúp cho kim ngạch chung tăng 2,3 tỉ USD .
Như vậy kim ngạch xuất khẩu từ năm 2000 tới nay liên tục tăng trưởng với
tốc độ cao, một trong những yếu tố góp phần làm kim ngạch tăng trưởng cao
như vậy là thị trường .
* Thị trường
Tỷ trọng thị trường xuất khẩu của Việt Nam (%)
Thị trường 2000 2001 2002 6 tháng đầu
năm 2003
Tổng số 100 100 100 100
1.Châu Á 60,0 57,3 52,1 47,6
ASEAN 18,1 17,0 14,5 15,8
Trung Quốc 10,6 9,4 8,9 7,3
Nhật Bản 17,8 16,7 14,6 14,0
Hàn Quốc 2,4 2,7 2,8 2,2
2.Châu Âu 23,0 23,4 23,5 21,7
EU 19,6 20.0 18,9 19,1
Đông Âu 1,9 2,6 2,0 1,5
3.Châu Mỹ 6,6 8,9 16,3 22,9
Mỹ 5,1 7,1 14,5 20,2
4.Châu Đại

Dương
9,0 7,1 8,1 6,8
Australia 8,8 6,9 8,0 6,6
5.Châu Phi 1,0 1,1 0,8 1,1
(Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam số 166 – thứ 6 – 17/10/2003 –trang 6 –
tác giả Dương Ngọc)
Kim ngạch xuất khẩu từ năm 2000 tới nay đều tăng lên trước hết là do Việt
Nam thực hiện phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá thị trường xuất
khẩu cho tới nay Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với 200 nước và vùng
lãnh thổ.
Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trong các châu lục, Châu Á-một thị trường gần với nhiều điểm tương đồng về
thị hiếu, nhu cầu, về chất lượng, chủng loại, mẫu mã-đã chiếm tỷ trọng lớn
nhất; Châu Âu vẫn duy trì được tốc độ tăng và tỷ trọng khá; Châu Mỹ đã vượt
lên chiếm vị trí lớn thứ 2; Châu Đại Dương vẫn là một thị trường lớn và Châu
Phi bước đầu được mở mang, được coi là thị trường tiềm năng .
Trong các nước và vùng lãnh thổ có 10 thị trường lớn nhất. Nhật Bản liên tục
dẫn đầu, chỉ nhường vị trí này cho Mỹ từ năm 2003; Mỹ đã vươn lên đứng
đầu, khả năng năm 2003 sẽ đạt trên dưới 4 tỷ USD; Trung Quốc-một thị
trường rất gần, rất rộng lớn- duy trì ở vị trí thứ 3; Australia đứng thứ 4;
Singapore đứng thứ 5; Đài Loan đứng thứ 6; Đức đứng thứ 7; Anh đứng thứ
8; Hàn Quốc đứng thứ 9; Pháp đứng thứ 10.
Diễn biến thị trường từng năm :
- Năm 2000: Việt Nam vẫn tiếp tục duy trì thị trường cũ đồng thời mở thêm
nhiều thị mới: xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường Đông Á và
Đông Nam Á tăng mạnh cụ thể là xuất khẩu sang Nhật Bản tăng 60%,
Trung Quốc tăng 87%, Australia tăng 75%, Malaysia tăng 54%, Hồng
Kông tăng 46%, hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Châu Á

chiếm trên dưới 60% trong tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó thị trường
Nhật Bản và ASEAN chiếm tỷ trọng lớn. Tỷ trọng hàng xuất khẩu sang
Châu Âu tới nay đã đạt 23% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Đối với khu
vực Bắc Mỹ mà chủ yếu là Mỹ, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam cũng
có bước tăng trưởng khá, chiếm trên dưới 5% trong tổng kim ngạch xuất
khẩu, mặc dù Việt Nam chưa được Mỹ cho hưởng quy chế thương mại
bình thường với quốc gia này. Tuy vậy hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ vẫn
chưa có chỗ đứng vững chắc ở thị trường này bằng chứng là kim ngạch
xuất khẩu vào Mỹ bằng 28% so với kim ngạch xuất khẩu hàng hoá sang
Nhật Bản và 20% sang EU. Hàng hoá xuất khẩu vào các khu vực thị
trường khác như Liên Bang Nga, các nước khác trong cộng đồng các quốc
gia độc lập (SNG) và Đông Âu chiếm trên 3%, Australia chiếm trên 5%,
Châu Phi và Nam Phi hơn 1% trong tổng kim ngạch xuất khẩu.
Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Việt Nam đã hình thành một số thị trường chủ lực xuất khẩu hàng hoá,
hiện có 40 thị trường nhập khẩu hàng Việt Nam có giá trị từ 8 triệu USD
trở lên, trong đó 23 thị trường trên 100 triệu USD, đặc biệt là 8 thị trường
nhập khẩu hàng Việt Nam trên 500 triệu USD trong đó 3 nước đạt trên 1 tỷ
USD là Nhật Bản, Trung Quốc và Australia. Với Trung Quốc đây là năm
đầu tiên kim ngạch 2 chiều đạt gần 3 tỷ USD trong đó Việt Nam xuất khẩu
là 1,6 tỷ USD , còn Nhật Bản vẫn đứng vị trí hàng đầu với việc nhập khẩu
hàng Việt Nam trong năm 2000 đã lên tới 2,621 tỷ USD tăng 46,77% so
với năm 1999.
Hoạt động thương mại năm 2000 đã góp phần nâng tầm Việt Nam trên thế
giớI, đó là chúng ta đã ký hiệp định thương mại Việt – Mỹ tháng 7/2000
mở ra thời kỳ mới trong quan hệ buôn bán với một cường quốc kinh tế
mạnh. Hiệp định thương mại Việt- Mỹ có hiệu lực từ ngày 10/12/2001 vì
vậy quan hệ thương mại giữa Việt và Mỹ bắt đầu phát triển .

- Năm 2002 nổi bật là xuất khẩu vào Hoa Kỳ tăng mạnh, cả năm ước đạt
2,42 tỷ USD, bằng hơn 2 lần so với năm 2001. Tỷ trọng của Hoa Kỳ trong
tổng kim ngạch đã tăng từ 7,1% lên 14,5% và riêng phần đóng góp đối với
tốc độ tăng trưởng chung năm 2002 là 9% .
Xuất khẩu vào Hoa Kỳ tăng nhanh nhưng xuất khẩu sang Nhật Bản và
ASEAN lại giảm, xuất khẩu vào EU và Trung Quốc tăng chậm. Xuất khẩu
vào Nhật Bản giảm 3%, chủ yếu do giảm kim ngạch dầu thô và hàng dệt
may. Thị trường ASEAN vẫn trì trệ do giảm kim ngạch linh kiện vi tính và
sự chuyển hướng xuất khẩu dầu thô sang khu vực khác. Xuất khẩu vào EU
tăng 4,5 % nhưng trong đó xuất khẩu hàng dệt may giảm 9% do sức mua
năm nay yếu, Trung Quốc lại được EU bãi bỏ hạn ngạch đối với một số
Cat hàng dệt may mà ta có hạn ngạch nên cạnh tranh gay gắt hơn.
- 10 tháng đầu năm 2003 kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ tăng
gấp đôi so với năm 2002, trong khi đó các thị trường khác cũng có chuyển
biến tích cực. 20/40 thị trường xuất khẩu chủ lực có tăng trưởng cao, thị
trường đang dẫn đầu tốc độ tăng trưởng là Bồ Đào Nha (105%), các Tiểu
Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất là (43,5%), Myanma (78,7%),
campuchia (52,8%), Thái Lan (41%).Tuy nhiên vẫn có 6/40 thị trường
không có tăng trưởng so với cùng kỳ năm 2002, một số thị trường giảm là
Nga (25%), Ailen(20%), Đài Loan (13%), Lào (9%), Irăc (59%).
Trong khi tập trung xuất khẩu vào thị trường Mỹ tăng mạnh, thì ở các thị
trường truyền thống khác lại sụt giảm như Hàn Quốc, Đài Loan …đặc biệt
là thị trường EU giảm 31% so với cùng kỳ năm 2002, riêng mặt hàng dệt
may 10 tháng đầu năm đạt khoảng 2 tỷ USD chủ yếu do tăng xuất khẩu
sang thị trường Mỹ, EU khoảng trên 200 triệu USD và Nhật Bản khoảng
270 triệu USD, từ nay đến cuối năm 2003 có thể khó thay đổi tình thế này.
Có thể nói yếu tố thị trường có nguyên nhân khách quan và chủ quan, một mặt

nếu không có thị trường Mỹ với kim ngạch xuất khẩu tăng thêm con số hơn 1
tỷ USD so với năm 2002 thì cũng khó có tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu cao trong
năm 2003; mặt khác nếu không có sự chuẩn bị tốt thực hiện hiệp định thương
mại Việt –Mỹ sẽ bỏ qua thời cơ khách quan đem lại.
Về thị trường xuất khẩu của Việt Nam cũng có một số điểm lưu ý :
Châu Á - một châu lục duy nhất mà nước ta nhập siêu – thì tỷ trọng xuất khẩu
vào châu lục này liên tục giảm xuống, trong đó giảm mạnh là Nhật Bản và
Trung Quốc. Cần phải tận dụng cơ hội giảm thuế suất nhập khẩu vào ASEAN,
tranh thủ thị trường gần là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc để cải thiện cán
cân thương mại với nước này.
Đông Âu vốn là thị trường truyền thống, nhưng hiện tỷ trọng còn ở mức rất
thấp và giảm trong 3 năm liền. Tới đây, 10 nước ở khu vực này gia nhập EU
sẽ vừa tạo thuận lợI, đồng thời cũng xuất hiện những khó khăn nhất định, cần
khai thác mặt thuận và hạn chế mặt nghịch .
Châu Phi là thị trường rộng lớn, nhất là đối với hàng nông sản và các loại
hàng chưa đòi hỏi cao về chất lượng, nhưng quy mô xuất khẩu vào thị trường
này còn nhỏ bé.
* Mặt hàng
Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chủ yếu (triệu USD)
Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Mặt hàng chủ yếu 2000 2001 2002 10 tháng đầu
2003
1.Dệt may 1.892 1.978 2.756 3.155
2.Dầu thô 3.496 3.140 3.274 3.110
3.Giầy dép 1.402 1.600 1.871 1.847
4.Thuỷ sản 1.473 1.827 2.021 1.808
5.Gạo 664 619 718 679
6.Điện tử,mt 780 709 484 550

7.SP gỗ 289 332 434 446
8. Cà phê 505 392 317 374
9.TC,MN 289 317 334 285
10.Cao su 158 166 267 273
11.Dây,CĐ 0 181 183 233
12.Hạt điều 173 151 217 221
13.SPnhựa 101 120 150 149
14.Than đá 86 120 150 147
15.Rau quả 216 347 200 127
16.XĐ $ PT 0 0 150 121
17.Hạt tiêu 144 90 100 89
(Nguồn: Bộ thương mại; Tính toán dựa trên số liệu trong thời báo kinh tế Việt Nam số 66
–thứ 6 - 17/10/2003 trang 6 tác giả Dương Ngọc )
Nhìn chung số loại mặt hàng và kim ngạch xuất khẩu đã gia tăng qua các năm.
Đến năm 2002 Việt Nam đã có 17 mặt hàng đạt kim ngạch trên 100 triệu USD
và 3 mặt hàng đạt kim ngạch trên 2 tỷ USD ( dệt may, dầu thô, thuỷ sản) trong
đó Dầu thô đạt trên 3 tỷ USD; Khả năng năm 2003 này sẽ có thêm mặt hàng
nữa là giầy dép đạt trên 2 tỷ USD và 2 mặt hàng có khả năng vượt 3,5 tỷ USD
Trong 4 mặt hàng trên cũng đang có sự rượt đuổi để thay đổi ngôi thứ, hàng
dệt may đang vị trí thứ 2 đã vượt lên vị trí thứ nhất vào đầu năm 2003. Hàng
dệt may Việt Nam đã có mặt ở trên 170 nước và vùng lãnh thổ, trong đó có
những thị trường lớn sau.
Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu dệt may vào các thị trườngchính(%)
Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42
1 . Mỹ 2,6 2,4 35,5
2 . EU 33 31 20
3 . Nhật Bản 32,4 29,9 17,84
4 . Đài Loan 13,8 13,3 8,5
5. Hàn Quốc 3,6 4,1 3,4
9

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
(Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam số 166-17/10/2003-trang 6- Dương Ngọc)
Trong khi tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sút giảm mạnh ở các
thị trường khác thì thị trường Mỹ lại tăng vọt qua các thị trường đứng trên để
vươn lên đứng thứ nhất, vượt xa thị trường đứng thứ 2 và xu hướng này còn
tiếp tục vào 10 tháng đầu năm 2003 này.
Dầu thô trong nhiều năm qua đứng vị trí số một về kim ngạch xuất khẩu, chỉ
nhường vị trí này trong 10 tháng đầu năm 2003 cho đệt may. Trong 11 nước
và vùng lãnh thổ nhập khẩu dầu thô của Việt Nam thì 5 thị trường sau đây là
lớn nhất.
Tỷ trọng thị trường nhập khẩu dầu thô lớn nhất của Việt Nam (%)
(Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam số 166-17/10/2003-tác giả Dương Ngọc)
Giầy dép Việt Nam đã có mặt ở 160 nước và vùng lãnh thổ, trong đó lớn
nhất là EU (70%), tiếp đến là Mỹ (11%) , Nhật Bản (3%) .
Hàng thuỷ sản đã có mặt ở 90 nước và vùng lãnh thổ, trong đó Mỹ là thị
trường tăng nhanh nhất, hiện chiếm tỷ trọng lớn nhất (tăng từ 26% năm 2001
lên 33% năm 2002 và 36% trong 6 tháng đầu năm 2003);tiếp đến là EU, Nhật
Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan .
Ngoài 17 mặt hàng vượt trội trên, còn có 13 mặt hàng khác, trong đó có 4 mặt
hàng mới tham gia vào danh sách các mặt hàng chủ lực, đó là sản phẩm gỗ,
dây và cáp điện, sản phẩm nhựa, xe đạp và phụ tùng xe đạp .
Diễn biến mặt hàng xuất khẩu qua các năm :
* Năm 2000: đi qua để lại nhiều dấu ấn tốt đẹp về một nền kinh tế Việt Nam
đã bước đầu khởi sắc, vượt qua cơn khốn khó từ sau cuộc khủng khoảng tài
chính tiền tệ khu vực. Đặc biệt trong lĩnh vực thương mại quốc tế, kim ngạch
Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42
Các nước 2000 2001 2002
1. Au stralia 31,5 28,4 34,6
2 .Trung Quốc 22,2 17,9 21,0
3. singapore 15,4 23,0 19,8

4. Nhật Bản 15 12,3 7,6
5. Indonêsia 4,8 4,8 3,6
Cộng 5 thị trường 88,9 86,4 86,8
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
xuất khẩu năm 2000 đạt 14,308 tỷ USD, tăng 52,8% so với năm 1998, 24% so
với năm 1999 và vượt mức kế hoạch trên 1 tỷ USD. Với mức xuất khẩu như
hiện nay, tính bình quân đầu người là 180 USD, Việt Nam đã vượt qua
ngưỡng tối thiểu của một nước đang phát triển (quy định là 170 USD). Sở dĩ
xuất khẩu của Việt Nam tăng mạnh trong năm qua nhờ vào việc gia tăng đáng
kể kim ngạch xuất khẩu ở một số mặt hàng như dầu thô, thuỷ sản, rau quả …
Hiện có 4 mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD.
Trước hết nói về dầu thô, chủ yếu là do giá dầu thế giới tăng (tới 88%) chứ
còn lượng dầu xuất khẩu chỉ tăng 1,4% so với năm 1999, nhờ đó giá trị xuất
khẩu mặt hàng này đã đạt tới 3,496 tỷ USD, tăng 71,5% so với năm 1999,
điều này chưa thực đáng mừng vì rằng hoàn toàn do yếu tố khách quan mang
lại.
Lĩnh vực xuất khẩu thuỷ sản, kim ngạch xuất khẩu đạt ngoài dự kiến là 1,473
tỷ USD, tăng 51,9% so với năm 1999, vượt mức kế hoạch 34,1%, có được
thành công là do thời gian qua ta đã chuẩn bị tốt được nguồn hàng xuất khẩu
từ đánh bắt, nuôi trồng đến chế biến bảo quản, hiện nay hải sản Việt Nam đã
có mặt trên 40 nước và lãnh thổ ,đặc biệt trong số đó sáu bạn hàng lớn nhất là
Nhật, Mỹ, EU, Trung Quốc, Hồng Kông và Đài Loan, riêng thị trường khu
vực này đã chiếm trên 80% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam.
Kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may đạt 1,892 tỷ USD nhưng tốc độ tăng
trưởng chỉ ở mức 3,9% so với năm 1999, chưa đạt được kế hoạch năm (1,95
tỷ USD ). Tình hình trên đây là do trong các hợp đồng của khách hàng xuất
hiện nhiều chủng loại mới và khó may nên ta chưa chuẩn bị được đủ hàng để
giao nhận mặc dù EU đã tăng thêm hạn ngạch cho Việt Nam. Do giá gia công
quá thấp, nhiều doanh nghiệp có xu hướng chuyển dần hình thức tự doanh nên

bước đầu còn đang gặp những khó khăn nhất định trong việc tìm đầu ra cho
sản phẩm. Bên cạnh đó, hàng dệt may Việt Nam đã gặp phải sự cạnh tranh
quyết liệt của một loạt các nước trong khu vực như Trung Quốc,Thái Lan…
Xuất khẩu giầy dép các loại của Việc Nam năm 2000 dường như dậm chân tại
chỗ chỉ tăng có 0,7% so với năm 1999. Kim ngạch xuất khẩu cả năm chỉ đạt
Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1,402 tỷ USD mặc dù kế hoạch đặt ra là 1,65tỷ USD. Nguyên nhân là do có
một số lượng lớn hàng giầy dép đang bị tồn kho trên thế giới, do đó các bạn
hàng ra sức ép giá đối với ta đồng thời giảm số lượng hợp đồng kí kết dẫn đến
công nhân không đủ việc làm. Khó khăn lớn nhất của ngành giầy da là thiếu
nguyên liệu, phụ kiện, mọi thứ từ da, đến phụ liệu trang trí và kiểu dáng đều
phải nhập từ bên ngoài.
Hàng rau quả tuy chỉ mới đạt kim ngạch xuất khẩu là 216 triệu USD nhưng là
ngành hàng có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong năm qua (tới 95,5%). Các
bạn hàng nhập khẩu lớn nhất của hàng rau quả là Trung Quốc, Đài Loan, Nhật
Bản, Hàn Quốc, EU.
Ngoài ra xuất khẩu các mặt hàng nông nghiệp khác như điều nhân, trà, cao su
của Việt Nam cũng tăng hơn so với năm 1999. Tuy nhiên xuất khẩu hai sản
phẩm nông nghiệp là cà phê và gạo lại bị giảm sút nghiêm trọng.
Hàng thủ công mỹ nghệ cũng có bước tăng trưởng khá, đạt 39,7% với kim
ngạch xuất khẩu là 289 triệu USD.
Xuất khẩu hàng điện tử và linh kiện máy tính cũng có bước tăng trưởng khá,
tăng 35% so với năm 1999 và đạt ở 780 triệu USD, thị trường chủ yếu của các
mặt hàng này là Philippin, Thái Lan, Nhật Bản…
Nhìn chung cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam năm 2000 được đánh
giá là phong phú đa dạng hơn.Tuy nhiên đây chỉ là những bước đi ban đầu thử
nghiệm, thăm dò thị trường, còn làm ăn lâu dài là phải có mặt hàng xuất khẩu
quy mô lớn, ổn định, sản phẩm đồng nhất với chất lượng cao .

*Năm 2001 kim ngạch xuất khẩu đạt 15,1 tỷ USD, tăng 5,1% so với năm
2000 thấp hơn nhiều so với mục tiêu đặt ra, chủ yếu do tình hình kinh tế
thương mại thế giới diễn biến không thuận lợi. Có 9 mặt hàng chủ lực là lạc
nhân, cà phê, chè, gạo, hạt điều, hạt tiêu, dầu thô, thủ công mỹ nghệ và điện tử
bị giảm kim ngạch, chủ yếu do giá giảm quá mạnh trên thị trường thế giới, đặc
biệt là giá dầu thô. Tuy nhiên đa số các mặt hàng nông sản chủ lực đều được
tổ chức tiêu thụ tốt, mức tăng về lượng rất khá, cao su tăng gần 14%, cà phê
trên 25%, hạt điều 20%, hạt tiêu 5%…đã làm thị phần của ta trên thị trường
Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thế giới được cải thiện. Kim ngạch của nhóm hàng khác ngoài 17 nhóm chủ
lực đạt mức tăng trưởng cao nhất từ trước tới nay là 28,2% làm tỷ trọng của
nhóm này trong tổng kim ngạch xuất khẩu lên tới 26%. Điều này thể hiện tác
dụng của việc mở rộng quyền kinh doanh xuất khẩu của mọi thương nhân,
khai thác triệt để tiềm năng của các thành phần kinh tế trong việc tạo ra các
mặt hàng xuất khẩu mới.
* Năm 2002 kim ngạch xuất khẩu đạt 16,706 tỷ USD, tăng 11,2% so với năm
2001, trong đó một số mặt hàng có tốc độ tăng trưởng khá là dệt may
(+39,3%), giầy dép (+19,7%), hàng TCMN (+40,7%), sản phẩm gỗ (+30%),
cao su (+61,4%), hạt điều(+38%). Khác với đồ thị giảm dần của năm 2001,
tốc độ tăng trưởng luỹ kế trong năm 2002 có diễn biến tăng dần (sau 3 tháng –
12%, 6 tháng –4,9%, 9 tháng +3,2%, 12 tháng +11,2%). Xuất khẩu các sản
phẩm phi dầu thô tăng 12,9%, cao hơn mức tăng 8,7% của năm 2001. Cơ cấu
xuất khẩu có sự chuyển dịch tích cực. Tỷ trọng của nhóm hàng chế biến chủ
lực (dệt may, giầy dép, hàng điện tử và linh kiện máy tính, hàng TCMN, sản
phẩm gỗ, sản phẩm nhựa, thực phẩm chế biến, cơ khí điện, đồ chơi ) đạt 39%
( năm2001 là 36,3%), trong đó mặt hàng có tốc độ tăng khá là dệt may, giầy
dép, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa và hàng TCMN. Riêng phần đóng góp của
2 nhóm hàng dệt may và giầy dép đối với tăng trưởng chung là 7,2% (dệt may

5,2%, giầy dép 2%). Về xuất khẩu nông sản mặc dù giá vẫn thấp nhưng có tới
5 mặt hàng có lượng tăng là lạc nhân, cao su, hạt tiêu, hạt điều, chè. Điều này
cho thấy thị trường tiêu thụ vẫn được bảo đảm, thị phần của ta đối với một số
mặt hàng tiếp tục tăng. Hai mặt hàng gạo và cà phê lượng xuất khẩu giảm
nhưng nguyên nhân chính là do chuyển dịch cơ cấu kết hợp với tác động của
hạn hán chứ không phải do thiếu thị trường .
* 10 tháng đầu năm 2003, trong số các mặt hàng chủ lực của Việt Nam thì
hàng dệt may và dầu thô đã xuất khẩu được 3,1 tỷ USD mỗi loạI, còn nếu tính
thêm hai mặt hàng thuỷ sản và giầy dép thì kim ngạch của 4 mặt hàng trên
chiếm đến 60% tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta .
Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tuy nhiên, về mặt hàng xuất khẩu cũng còn một số điểm bất cập: Mặc dù tỷ
trọng kim ngạch hàng thô hay mới sơ chế đã giảm nhưng vẫn còn cao, tỷ
trọng kim ngạch hàng chế biến hay tinh chế đã tăng lên, nhưng vẫn còn thấp.
Trong các loại hàng chế biến thì tỷ trọng hàng gia công còn lớn, kim ngạch
xuất khẩu khá cao nhưng phần thực thu ngoại tệ lại thấp. Tỷ trọng hàng gia
công trong nhóm hàng dệt may lên tới 90-95%, nguyên liệu giầy dép có tới
60% phải nhập khẩu. Hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp, khâu thương hiệu
còn hạn chế nên phải bán qua trung gian.
Thành phần kinh tế
Đơn vị triệu USD
Thành phần kinh tế 2000 2001 2002 10t đn 2003
Các DN 100% vốn trong
nước
7.641 8.352 8.937 8.284
Các DN có vốn ĐTNN 6.809 6.748 7.769 8.266
(Nguồn: Ngoại thương 21-31 /1/2002 trang 9, 10; Thời báo kinh tế Sài Gòn 30/10/2003
trang 8; Tính toán dựa trên số liệu trong thương mại số 7/2003- trang 2)

Trong tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2000 khu vực kinh tế trong nước chiếm
tỷ trọng trên 50%, đạt 7641 triệu USD tăng 8% so với năm 1999; khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài (bao gồm cả dầu thô) đạt khoảng 6809 triệu USD tăng
47,4%.
Sở dĩ tốc độ tăng của khu vực kinh tế trong nước chưa cao vì những mặt hàng
xuất khẩu chủ yếu là hàng nông sản, rau quả, lâm, hải sản, thủ công mĩ nghệ,
có giá trị thấp. Hơn nữa năm 2000 lại là năm đặc biệt khó khăn với gạo và cà
phê (gạo: phẩm chất chưa cao, giá cả khong ổn định; Cà phê: giá xuống thấp
liên tục qua các tháng).
Đối với khu vực đầu tư nước ngoài, sở dĩ xuất khẩu có mức tăng nhanh là nhờ
vào mặt hàng dầu thô. Năm 2000 khối lượng dầu thô ước tính đạt khoảng 15,5
triệu USD. Tuy lượng dầu xuất khẩu chỉ tăng 4,2% nhưng do giá dầu tăng cao
nên trị giá xuất khẩu tăng tới hơn 71,2% .Tuy nhiên một số nhóm hàng như:
Dệt may, giầy dép vốn là những mặt hàng có tốc độ tăng trưởng cao những
năm trước đây thì năm 2000 bị giảm sút mạnh. Cụ thể năm 1999 kim ngạch
Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42
14

×