Nguyễn Thị Yến Ngọc, lớp 101_T13
TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ
LỢI ÍCH CỦA LẠM PHÁT VÀ VIỆC SỬ DỤNG CHÍNH
SÁCH MỤC TIÊU LẠM PHÁT ĐỂ ĐIỀU CHỈNH LẠM
PHÁT THEO HƯỚNG CÓ LỢI
LỜI MỞ ĐẦU
Lạm phát đã, đang và luôn là một vấn đề nóng bỏng của nền kinh tế và mọi
quốc gia, mọi dân tộc…Lạm phát là một trong bốn yếu tố quan trọng nhất của mỗi
quốc gia (tăng trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số
dư). Tình hình lạm phát hiện nay ở Việt Nam lên tới mức báo động là 2 con số,
vượt qua ngưỡng lạm phát cho phép tối đa là 9% của mỗi quốc gia. Điều này sẽ
dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống kinh tế của chính phủ: làm suy vong nền
kinh tế quốc gia. Bên cạnh đó là sự tác động mạnh tới đời sống của người dân,
nhất là dân nghèo khi vật giá ngày càng leo thang. Tác hại của lạm phát đã được
nhiều nhà kinh tế tốn không ít giấy mực để phân tích, nhưng liệu có phải lạm phát
chỉ đem lại toàn là tai họa? Bài tiểu luận dưới đây xin phân tích một khía cạnh khác
của lạm phát để chúng ta có một cái nhìn toàn diện và cụ thể hơn về bức tranh lạm
phát.
Nguyễn Thị Yến Ngọc, lớp 101_T13
MỤC LỤC TRANG
Lời mở đầu 1
1. Tính tất yếu của lạm phát 3
1.1. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát 3
1.2. Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp 4
1.3. Thiểu phát và tác hại 5
1.4. Ba lý do Mỹ nên thúc đẩy lạm phát 6
2. Lợi ích của lạm phát 8
2.1. Bốn lợi ích của lạm phát 8
2.2. Những ai có lợi từ giá cao của lạm phát? 8
2.3. Lạm phát vừa phải tốt cho bạn? 9
2.4. Lạm phát mỡ của chủ nghĩa tư bản 9
3. Chính sách mục tiêu lạm phát 10
3.1. Những vấn đề cơ bản về chính sách mục tiêu lạm phát 10
3.2. So sánh CSMTLP của một số nước trên thế giới 11
3.3. Đánh giá khả năng áp dụng CSMTLP ở Việt Nam hiện nay 13
3.4. Những đề xuất nhằm hoàn thiện các điều kiện tiền đề cho lộ trình tiến
tới áp dụng CSMTLP ở Việt Nam 14
Nguyễn Thị Yến Ngọc, lớp 101_T13
1. Tính tất yếu của lạm phát:
Trước hết, chúng ta hãy trả lời câu hỏi: “Lạm phát là gì?”.
Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung
của nền kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay
giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là
sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thông thường
theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi
nền kinh tế của một quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu là lạm phát
của một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu.
Vậy phải chăng lạm phát chỉ xảy ra ở những nước kém hay đang phát triển -
nơi mà nền kinh tế còn đang non yếu và có nguy cơ sụp đổ lớn? Chúng ta hãy cùng
theo dõi biểu đồ dưới đây:
Tỷ lệ lạm phát của 5 thành viên chính của G8 từ 1950 tới 1994. (Hồng
là Pháp, Lục là Đức, Xám là Nhật Bản, Đỏ là Anh và Lam là Mỹ.)
G8 là nhóm 8 quốc gia dân chủ và công nghiệp hàng đầu của thế giới bao
gồm (Pháp, Đức, Italy, Nhật, Anh, Hoa Kỳ (G6, 1975), Canada (G7, 1976)) và Nga
(không tham gia một số sự kiện). Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa với việc
các nước này có tỷ lệ lạm phát bằng không mà ngược lại, các nước này luôn phải
chịu tác động của lạm phát, không những thế, tỷ lệ lạm phát ở những nước này còn
rất cao trong một số giai đoạn như 1970 – 1980.
1.1. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát:
Về mặt lý thuyết, lạm phát có ảnh hưởng cả tích cực lẫn tiêu cực đến tăng
trưởng. Tỷ lệ lạm phát thấp sẽ thức đẩy tăng trưởng. Trường phái tiền tệ cho rằng
trong ngắn hạn, khi chính phủ tăng lượng cung tiền góp phần thúc đẩy tăng trưởng,
đồng thời cũng sẽ gia tăng lạm phát do đó tăng trưởng và lạm phát có mối quan hệ
cùng chiều. Theo trường phái Keynes, mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát
mang dấu dương, điều này cũng trùng với kết quả nghiên cứu của Tobin được công
bố năm 1965.
Tỷ lệ lạm phát cao sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế. Lạm phát ở mức
cao sẽ dẫn đến sự bật ổn trong lĩnh vực kinh tế làm tăng rủi ro của các hoạt động
đầu tư. Lạm phát làm thay đổi giá cả tương đối và được xem như một loại thuế đối
với nền kinh tế. Những nghiên cứu gần đây của Fisher (1993), Barro (1996), Bruno
Nguyn Th Yn Ngc, lp 101_T13
va Easterly (1998) ó ch ra mi quan h gia tng trng v lm phỏt mang du
õm nhiu nc khỏc nhau. Xa hn, Khan v Senhadji (2001) ó tỡm thy
ngng ca mc lm phỏt l 11% m theo ú, mi quan h tng trng lm phỏt
mang du õm khi t l lm phỏt vt quỏ ngng ny v mang du dng trong
trng hp cũn li. Bờn cnh ú, cỏc nghiờn cc ca Fisher (1993) v Sarel (1996)
ó cho thy lm phỏt tng trng cú mi quan h phi tuyn.
Vy mi quan h gia tng trng v lm phỏt Vit Nam nh th
no?
Khi nghiờn cu mi qun h gia tng trng v lm phỏt ti Vit Nam, s
liu c s dng trong nghiờn cc trờn v ch s giỏ tiờu dựng CPI (Customer
Price Index) v tng thu nhp quc ni GDP ( Gross Domestics Product) giai on
t 1995 n 2008 do Tng cc Thng kờ Vit Nam cụng b. S liu v CPI v
GDP c tớnh theo quý, t quý 1 nm 2005 n ht quý 2 nm 2008 ti mc giỏ
nm 1994. T l lm phỏt (I) v tng trng (G) c tớnh theo cụng thc:
It = ln(CPIt) - ln(CPIt-1) v Gt = ln(GDPt) - ln(GDPt-1)
It v Gt l t l tng trng v lm phỏt ti thi im t. Ln(CPIt), ln(GDPt)
v ln(GDPt-1), ln(CPIt-1) lt l logarit c s t nhiờn tng ng ca cỏc bin ti 4.
Các thời điểm t v t-1. Các giá trị thống kê mô tả về tỉ lệ lạm phát (I) v
tng trng (G) của Việt Nam trong giai đoạn ny c trỡnh by trong Bng 1.
Bng 1. Cỏc giỏ tr thng kờ mụ t v t l tng trng v lm phỏt theo quý ca Vit
Nam giai on 1995 2008
Mean Median Maximum Minimum Std
Dev
Skewness Kurtosis Jarque
-
Bera
P-
value
(JB
test)
Obs
G
0.0169 0.0045 0.1465 -0.0540 0.04
93
0.6926 2.7404 4.3866 0.1116 53
I
0.0155 0.0120 0.0880 -0.0181 0.02
09
1.2717 5.6301 29.560
8
0.0000 53
H s tng quan gia G v I tớnh c l 0.58, chng t G v I cú mi tng quan
dng khỏ mnh. Kt qu kim nh n v Augmented Dickey Fuller (ADF) cho
cỏc chui s liu G, I, I ,G c trỡnh by trong Bng 2.
Bng 2: Kim nh nghim n v Augmented Dickey Fuller (ADF)
I
I
G
G
ADF-statistic -0.1405 -2.9729** -0.4677 -24.3722*
Chú thích: * v **: cú ý ngh a th ng kờ t i cỏc m c 1% v 5%
Kết quả kiểm định cho thấy, các chuỗi G v I không dừng, tuy nhiên các chuỗi
sai phân I v G l chuỗi dừng, các dấu hiệu khác cũng cho cùng nhận định
nh trên. Nh vậy, biến I v G l liên kết bậc nhất (I(1)).
1.2. Mi quan h gia lm phỏt v tht nghip:
Nguyễn Thị Yến Ngọc, lớp 101_T13
Hầu hết mọi người vẫn luôn nghĩ rằng một nền kinh tế với tỷ lệ lạm phát
bằng không là một nền kinh tế “hoàn hảo”. Nhưng sự thật có phải như vậy? Đường
cong Phillips biểu thị quan hệ giữa tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ lạm phát.
Trong thực tế, các nhà hoạch định chính sách luôn phải “điên đầu” để quyết
định sự đánh đổi giữa tỷ lệ lạm phát và thất nghiệp trong ngắn hạn: lạm phát thấp
thì thất nghiệp cao và ngược lại. Mối tương quan này nảy sinh vì thất nghiệp thấp
gắn với tổng cầu cao lại tạo áp lực đẩy lên tiền lương và giá cả tăng lên trong toàn
bộ nền kinh tế.
1.3. Thiểu phát và tác hại:
Thiểu phát trong kinh tế học là lạm phát ở tỷ lệ rất thấp. Đây là một vấn
nạn trong quản lý kinh tế vĩ mô. Ở Việt Nam, nhiều người thường nhầm lẫn thiểu
phát với giảm phát.
Không có tiêu chí chính xác tỷ lệ lạm phát bao nhiêu phần trăm một năm trở
xuống thì được coi là thiểu phát. Một số tài liệu kinh tế học cho rằng tỷ lệ lạm phát
ở mức 3-4 phần trăm một năm trở xuống được gọi là thiểu phát. Tuy nhiên, ở
những nước mà cơ quan quản lý tiền tệ (ngân hàng trung ương) rất không ưa lạm
phát như Đức và Nhật Bản, thì tỷ lệ lạm phát 3-4 phần trăm một năm được cho là
hoàn toàn trung bình, chứ chưa phải thấp đến mức được coi là thiểu phát. Ở Việt
Nguyễn Thị Yến Ngọc, lớp 101_T13
Nam thời kỳ 2002-2003, tỷ lệ lạm phát ở mức 3-4 phần trăm một năm, nhưng
nhiều nhà kinh tế học Việt Nam cho rằng đây là thiểu phát.
Biểu hiện:
Có những đặc trưng không phải con số tỷ lệ giúp xác định thiểu phát, đó là:
• Khi giá giảm liên tục và tăng trưởng GDP ở mức âm, nền kinh tế mới rơi vào
tình trạng thiểu phát.
• Ngân hàng thương mại gặp khó khăn khi cho vay, đồng thời họ lại đặt ra lãi
suất huy động tiết kiệm thấp- một tình trạng được coi là thị trường tiền tệ trì
trệ. Tỷ lệ lạm phát thấp khiến cho lãi suất thực tế trở nên cao, khiến các nhà
đầu tư dè dặt đi vay ngân hàng. Ngân hàng ứ đọng tiền, nên giảm huy động
tiết kiệm bằng cách hạ lãi suất huy động tiết kiệm.
• Sản xuất trở nên thiếu sôi động. Lạm phát thấp khiến cho tiền công thực tế cao
hơn. Người lao động vì thế có thể giảm cung lao động và tăng thơi gian nghỉ
ngơi (xem thêm lý luận về đường cung lao động uốn ngược). Mặt khác, giá cả
sản phẩm thấp làm giảm động lực sản xuất.
Thiểu phát đôi khi được coi là tình trạng trước giảm phát (một tình trạng
trái ngược với lạm phát nhưng vẫn nguy hiểm đối với nền kinh tế).
Nguyên nhân:
• Nguy cơ thứ nhất có thể xuất phát từ việc áp dụng các giải pháp chống lạm
phát quá liều, chẳng hạn như thắt chặt tiền tệ, tài khóa và hạn chế cầu quá
mức.
• Thứ hai có thể là việc sử dụng các biện pháp ngăn ngừa lạm phát một cách
quá cứng nhắc như trực tiếp kiểm soát giá của một số mặt hàng.
• Nguy cơ thứ ba thường đến từ những sai lầm trong điều hành vĩ mô
[1]
..
Hậu quả: Hậu quả của thiểu phát nghiêm trọng không kém gì lạm phát.
• Ảnh hưởng tới lĩnh vực xuất khẩu vì các thị trường lớn đều tiết giảm nhu cầu.
• Sức tiêu thụ nội địa không tăng do luồng cung tiền tệ giảm, trong khi xuất
khẩu kém. Nếu kịch bản xấu nhất xảy ra, hàng không thể xuất trong khi cầu
nội địa giảm, hàng không tiêu thụ hết, giá cả sẽ giảm, sản xuất đình đốn.
Một số tình huống thiểu phát ở Việt Nam:
Năm 2008 đánh dấu một năm lạm phát cao, song chỉ đến đầu quý 3, do các
biện pháp kiềm chế lạm phát quá mức, bắt đầu có nỗi lo thiểu phát và "Nhiều người
lo ngại Việt Nam cũng đối mặt với nguy cơ tương tự, nhất là khi chỉ số giá tiêu
dùng (CPI) tháng 10 giảm 0,19%. Đây là lần đầu tiên sau một năm rưỡi trở lại đây,
CPI ở mức âm".
1.4. Ba lý do Mỹ nên thúc đẩy lạm phát
Fed nói sẽ làm tất cả để kích thích nền kinh tế, thậm chí kể cả việc khiến
lạm phát gia tăng. Và dưới đây là những lý do cho phép Fed có thể hành động như
vậy.
Chắc chắn người dân Mỹ sẽ không thoải mái gì khi phải chi trả nhiều hơn
cho sinh hoạt phí hàng ngày trong tình trạng thâm thủng ngân quỹ và thiếu hụt việc
làm hiện nay.
Tuy nhiên, một số nhà kinh tế học lập luận rằng việc thúc đẩy lạm phát theo
một tỷ lệ vừa phải sẽ giúp kích thích nền kinh tế đang tăng trưởng chậm lại.