Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lời nói đầu
Công nghiệp hoá hiện đại hoá là một bớc đi cơ bản, có tính chất quyết định
cho việc chuyển một nền sản xuất hàng hoá nhỏ sang một nền sản xuất hàng hoá
lớn, tạo cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Nhận thức đợc vai trò của
công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá ngay từ những năm 60, Đảng ta đã xác
định công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hớng xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ
trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ ở nớc ta.
Trên thực tế, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nớc ta tiến hành cho
đến nay đã đợc hơn 30 năm. Trong quá trình đó chúng ta vừa tiến hành công
nghiệp hoá, vừa tìm tòi bổ sung hoàn chỉnh hệ thống lý luận cơ bản cho quá trình
này. Mặc dù đã đợc tiến hành trong thời gian khá dài song cho đến nay việc lựa
chọn một mô hình công nghiệp hoá thích hợp với Việt Nam vẫn còn cha thống
nhất. Những câu hỏi nh Việt Nam có thể lựa chọn mô hình công nghiệp hoá nào
trong điều kiện quốc tế hiện nay? Thực hiện mô hình đó Việt Nam có thể gặp
những thuận lợi và khó khăn gì? những giải pháp nào nhằm thực hiện thành công
mô hình đã lựa chọn đã và đang đợc đặt ra một cách cấp thiết và chính những câu
hỏi này đã thôi thúc em chọn đề tài Mô hình công nghiệp hoá ở Việt Nam cho
môn kỹ thuật chính trị của mình.
Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng trong việc nghiên cứu, tìm tòi song chắc
chắn là những sai sót về mặt kiến thức, những non nớt về mặt phơng pháp là điều
không thể tránh khỏi đói với một sinh viên năm thứ nhất mới chập chững bớc vào
con đờng khoa học. Nhng dẫu sao em vẫn mong rằng cuốn đề án này vẫn có thể
đóng góp một phần nhỏ bé nào đấy vào kho tàng kiến thức vốn đã đồ sộ về công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung và các mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nói riêng.
Hà Nội, ngày 03 tháng 03 năm 2002
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phần I: Cơ sở lý luận
1. Thực chất của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.
Công nghiệp hoá, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện
các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng
lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với
công nghệ, phơng tiện và phơng pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của
công nghiệp và tiến bộ của khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã
hội cao.
Thực chất của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nớc ta là xây dựng nớc ta
thành một nớc công nghiệp cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng
sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng và an ninh vững chắc. Từ
nay đến năm 2020 ra sức phấn đấu đa nớc ta trở thành một nớc công nghiệp.
Khi đó lực lợng sản xuất nớc ta sẽ đạt tới trình độ tơng đối hiện đại, phần
lớn lao động xã hội sử dụng máy móc, điện khí hoá cơ bản đợc thực hiện trong cả
nớc, năng suất lao động xã hội và hiệu quả kinh doanh cao hơn nhiều so với hiện
nay. Dự kiến GDP sẽ tăng từ 8-10 lần so với Nhà nớcăm 1990. Về cơ cấu kinh tế
sẽ có bớc biến đổi quan trọng rất lớn trong GDP và lao động xã hội. Đến năm
2020 tuy về giá trị GDP tính trên đầu ngời ở Việt Nam chỉ ở mức trung bình khá
của khu vực Châu á - Thái Bình Dơng (Dự báo đến năm 2020 dân số Việt Nam có
khoảng 105-110 triệu ngời nhng nếu nhìn tổng thể Việt Nam sẽ xác định đợc vị trí
xứng đáng và vững bớc tới một xã hội công bằng văn mình, kinh tế tăng trởng
nhanh trong sự bền vững của xã hội, môi sinh và giữ gìn bản sắc văn hoá truyền
thống tốt đẹp của dân tộc. Về đời sống vật chất và văn hoá đảm bảo cho nhân dân
có cuộc sống ấm no, nhà ở tơng đối tốt, có điều kiện thuận lợi về đi lại, học hành,
chữa bệnh, có mức hởng thụ văn minh, gia đình hạnh phúc, môi trờng sinh thái
trong lành.
Để thực hiện đợc mục tiêu tổng quát trên, Việt Nam cần phải nổ lực, cố
gằng rất nhiều. Về các chỉ tiêu kinh tế Việt Nam hiện đang là một trong các quốc
gia kém phát triển nhất khu vực, để có thể vơn lên đạt trình độ phát triển ngay
hàng với các quốc gia khác thì Việt Nam cần đạt đợc một tốc độ tăng trởng kinh tế
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cao và bền vững trong thời gian tơng đối dài. Nếu tốc độ tăng trởng trong những
năm sắp tới của các nớc ASEAN và NICs Châu á sẽ vào khoảng 7%/năm thì Việt
Nam sẽ phải đạt tới tốc độ cao hơn trên 10%. Tốc độ này đã là thực tế ở một số n-
ớc Châu á đặc biệt là Trung Quốc đã đạt tới tốc độ 20%/năm. Vấn đề đặt ra cho
Việt Nam hiện nay là phải tìm ra giải pháp thích hợp để đạt tốc độ tăng trởng cao,
bền vững. Từ năm 1991 đến năm 1995, Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trởng GDP
bình quân hàng năm là 8,3%. Động lực chính của tăng trởng kinh tế đó là sự khởi
động của kinh tế thị trờng, sự giải phóng cho các thành phần kinh tế và mở cửa
cho các hoạt động kinh tế đối ngoại... Những nhân tố này trong những năm tới sẽ
vẫn tiếp tục có tác động đó khó có thể đạt tới mức tăng trởng mạnh mẽ nh đã có.
Để tốc độ tăng trởng cao hơn, nền kinh tế Việt Nam cần có một lực đẩy mạnh mẽ
hơn nữa lực đẩy đó chỉ có thể nhờ đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nớc, tạo ra một sự chuyển đổi căn bản trong cơ cấu kinh tế theo hớng
hiện đại.
Ngay nay công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá đã mở ra cho chúng ta
nhiều con đờng đi tất cho phép thực hiện trong một thời gian lịch sử rất ngắn so
với quá trình công nghiệp hoá cổ điển lâu dài trớc kia. Kinh nghiệm cho thấy một
số nớc lựa chọn đợc mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thích hợp đã rút ngắn
đợc quá trình công nghiệp hoá năm của mình ví dụ nh có những nớc chỉ trong
vòng ba chục năm từ một nớc Nông nghiệp lạc hậu đã vơn lên thành những nớc
Công nghiệp mới (NICs) và bắt kịp những nớc t bản tiên tiến đã đi trớc mình
hàng trăm năm. Ngày nay các nớc ASEAN còn có thể rút ngắn quá trình công
nghiệp hoá này xuống còn 20 năm. Là một nớc đi sau trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, Việt Nam tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá (thị trờng,
nhân lực, công nghệ và nguồn lực) đều đã thay đổi. Vì vậy, việc lựa chọn một mô
hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thích hợp lãi càng đặt ra một mô hình công
nghiệp hoá rút ngắn thích hợp. Mô hình đó cần phải kế thừa tất cả nhngx u điểm
của các mô hình đã có, phù hợp với xu hớng phát triển của thế giới đồng thời phải
tính đến những lợi thề và đặc điểm của Việt Nam.
2. các mô hình công nghiệp hoá.
Các quốc gia có nền kinh tế phát triển trên thế giới đều trải qua quá trình
công nghiệp hoá. Tuy nhiên ở những giai đoạn lịch sử khác nhau, quá trình công
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nghiệp hoá có những nét đặc trng khác nhau, từ đó hình thành một số mô hình
công nghiệp hoá chủ yếu sau.
a. Mô hình công nghiệp hoá cổ điển.
CNH theo mô hình cổ điển diễn ra vào giữa thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX.
Đầu tiên ở nớc Anh sau đó đợc mở rộng sang nớc Pháp. Mô hình CNH theo kiểu
cổ điển có những đặc trng chủ yếu sau:
Thứ nhất: Chuyển từ công nghệ thủ công sang công nghẹ cơ khí. Quá trình
này diễn ra với các máy hơi nớc và hệ thống đờng xe lửa (nửa sau thế kỷ XIX), sử
dụng điện năng (cuối thế kỷ XIX), sử dụng xe hơi, máy bay, tàu thuỷ (đầu thế kỷ
XX). Quá trình chuyển đổi công nghệ ở đây đã bao gồm cả các khâu cơ bản,
nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu triển khai. Vào thời kỳ đó, thời gian cần để đa
một phát minh khoa học nào đó vào triển khai phải mất hàng chục năm trở lên,
ngoài ra khả năng giữ bí mất cao, trình độ dân trí thấp chính là nguyên nhân cơ
bản kéo dài thời kỳ chuyển đổi từ công nghệ thủ công sang công nghệ cơ khí, làm
cho quá trình CNH của các quốc gia Châu Âu kéo dài hàng thế kỷ.
Thứ hai: áp dụng các biện pháp bóc lột tàn bạo và thực hiện các cuộc chiến
tranh chiếm đoạt các nguồn tài nguyên và thị trờng. Để tiến hành chiếm đoạt các
nguồn tài nguyên vốn to lớn. Các quốc gia Châu Âu đã thực hiện các biện pháp
tích luỹ nguyên thủy tàn bạo nhất. Trong bộ T bản, C.Mác đã diễn tả các hình
thức tích luỹ nguyên thuỷ điển hình ở nớc Anh nh đuổi nông dân ra khỏi đồng
ruộng, biến ruộng lúa mì thành những cánh đồng trồng cỏ nuôi cừu, bắt ngời lao
động phải làm việc từ 15 đến 18 giờ một ngày.... T bản tích luỹ đợc ở đây chính là
mồ hôi, nớc mắt ngời lao động.
Thứ ba: Các ngành công nghiệp chủ yếu mang tính hớng nội. Những ngành
công nghiệp mới ra đời ở Châu Âu thờng có trình độ phát triển thấp, quy mô sản
xuất không lớn, do vậy thị trờng trong nớc là đủ cho nó phát triển. Đến một lục
nào đó, quy mô sản xuất của những ngành này vợt quá phạm vi của thị trờng nội
địa, Chính phủ của các nớc này bợc phải tìm kiếm thị trờng bên ngoài. Dờng nh
vào thời đó chiến tranh là biện pháp duy nhất đảm bảo thị trờng ngoài nớc cho các
quốc gia. Song những quốc gia có đủ sức mạnh để xâm chiếm các nớc khác không
nhiều mà phần lớn các quốc gia không làm đợc việc đó, do vậy phải hớng sự phát
triển của các ngành công nghiệp của mình chủ yếu vào thị trờng trong nớc. Bên
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cạnh đó phơng tiện giao thông liên lạc vào thời kỳ này còn kém phát triển nên vận
chuyển hàng hoá ra nớc ngoài còn gặp nhiều khó khăn nh chi phí vận tải lớn, rủi
ro cao củng buộc các ngành công nghiệp ra đời vào thời kỳ này chủ yếu có tính h-
ớng nội.
Thứ t: Tăng trởng thấp và bất bình đẳng xã hội cao đây là đặc trng nổi bật
của mô hình CNH theo kiểu cổ điển Châu Âu. Trớc thế kỷ XX, các quốc gia Châu
Âu đã tiến hành CNH với tốc độ tăng trởng thấp chỉ vào khoảng 2%/năm. Tuy tốc
độ tăng trởng nh vậy đã là rất cao so với thời kỳ Trung cổ kéo dài. Trong điều kiện
tốc độ tăng trởng thấp, con đờng tích luỹ vốn duy nhất để CNH là phải giảm tiền l-
ơng và thu nhập của ngời lao động từ đó gây bất bình đẳng nghiêm trọng của các
xã hội Châu Âu đó.
Bốn đặc trng trên đây tiêu biểu cho mô hình CNH của các quốc gia châu Âu
tuy nhiên mỗi quốc gia lại có những sắc thái riêng. Quá trình CNH ở Anh, Pháp,
Đức đã đi liền với các cuộc chiến tranh xâm lợc, cớp bóc thuộc địa. Nhng quá
trình CNH ở các nớc nhỏ hơn ở Châu Âu đã mang tính lệ thuộc hơn vào các nớc
mạnh.
b. Mô hình CNH theo hớng thay thế nhập khẩu.
Chiến lợc CNH thay thế nhập khẩu có thể nói là chiến lợc của các nớc đang
phát triển, ra đời trong thời kỳ sau chiến tranh thế giới thứ II trong một bối cảnh
quốc tế đặc biệt. Hệ thống thuộc địa tan rã, các quốc gia đang phát triển lần lợt
giành độc lập về chính trị, còn về kinh tế họ vẫn bị lệ thuộc vào các chính quốc.
Họ phải nhập khẩu từ các chính quốc hầu hết các mặt hàng công nghiệp, thậm chí
cả lơng thực nguyên nhiên liệu. Sự đối đầu giữa hai hệ thống kinh tế xã hội lúc đó
càng găy gắt, nguy cơ các cuộc chiến tranh luôn rình rập do vậy các nớc đang phát
triển càng có nhu cầu xây dựng cho mình một nền kinh tế có khả năng phòng ngừa
đợc chiến tranh, ít lệ thuộc vào bên ngoài. Mặt khác, các nớc phơng Tây tuy buộc
phải trao trả quyền độc lập cho các nớc đang phát triển nhng họ cha từ bỏ ý đồ
thực dân đối với các nớc đó, không chịu chuyển nhợng công nghệ, không chịu mở
cửa thị trờng cho các nớc đang phát triển, thực thi chính sách duy trì các nớc đang
phát triển trong vòng lạc hậu. Trong bối cảnh quốc tế trên đây, mô hình CNH thay
thế nhập khẩu ra đời nh một tất yếu lịch sử. Các nớc đang phát triển không thể lựa
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chọn mô hình CNH theo hớng hớng ngoại đợc vì không có quốc gia chịu mở cửa
cho họ hớng vào.
c. Mô hình CNH hớng về xuất khẩu (cuối thập kỷ 70).
Chiến lợc này ra đời trong điều kiện quốc tế đã cso những biến đổi sâu sắc.
Cuộc đấu tranh giải phòng dân tộc của các nớc kém phát triển đã làm tan rã toàn
hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Các nớc đế quốc này không thể chiếm
đoạt các nguồn tài nguyên, bóc lột sức lao động, chia nhau thị trờng nh trớc mà
các nớc này không thể tồn tại đợc nếu không cung cấp các điều kiện trên. Do vậy
các nớc phát triển thực sự muốn tìm kiếm những hình thức mới cho mối quan hệ
với các nớc đang phát triển. Mặt khác các nớc đang phát triển đang gặp bế tắc trên
con đờng thực hiện CNH theo hớng thay thế nhập khẩu, có nhu cầu tìm kiếm 1 mô
hình CNH thích hợp. Do đó chiến lợc CNH hớng về xuất khẩu ra đời.
Điểm mấu chốt của chiến lợc CNH theo hớng nhập khẩu là phải có các
quốc gia đồng ý mở cửa thị trờng, nhập khẩu hàng hoá của các nớc kém phát triển
và các nớc kém phát triển phải đổi mới đủ mức tiếp nhận đợc vốn và công nghệ
mới, sản xuất ra đợc các hàng hoá đủ tiêu chuẩn tiêu thụ đợc trên thị trờng các nớc
phát triển. Nh vậy sự thay đổi chiến lợc của các nớc phát triển tạo điều kiện cho
các nớc kém phát triển thay đổi chiến lợc theo. Song do điều kiện chiến tranh lạnh
và sự đối đầu giữa các siêu cờng rất gay gắt, các nớc phát triển lúc đó chỉ thay đổi
chiến lợc đối với một số nớc kém phát triển, nổi bật là một số quốc gia và lãnh thổ
Châu á nh Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapo. Các nớc này đã thực hiện
CNH với các nội dung chủ yếu sau:
+ Miễn hoàn toàn thuế xuất khẩu, miễn thuế nhập khẩu cho các ngành phục
vụ xuất khẩu, giảm dần thuế nhập khẩu.
+ Thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô có lợi cho xuất khẩu.
+ Khuyến khích thu hút các nguồn vốn nớc ngoài phục vụ cho xuất khẩu.
+ Thành lập các khu chế xuất, các đặc khu kinh tế các khu mậu dịch tự do.
Mô hình CNH hớng về xuất khẩu với những nội dung trên đây đã đợc áp
dụng ở nhiều nớc nhng chỉ thu đợc thành tựu nổi bật ở một số nớc Đông á nh Hàn
Quốc, Hồng Kông, Singapo. Tuy vậy bài học rút ra từ thực tế áp dụng mô hình này
lại vô cùng quý giá. Đó là một nớc kém phát triển có thể rút ngắn đợc quá trình
CNH đất nớc bằng cách tận dụng tối đa nguồn lực bên ngoài trớc hết là thị trờng,
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
vốn công nghệ. Để thực hiện đợc định hớng xuất khẩu, phải tiến hành cải cách
trong nớc theo hớng áp dụng cơ chế thị trờng, giảm dần các hàng rào thuế quan và
phi quan thuế.....
Mặc dù mô hình CNH hớng về xuất khẩu đã thể hiện sức sống hấp dẫn của
nó trong đời sống thực tế nhng nó cũng đã bộc lộ những hạn chế rõ rệt. Mô hình
này đã quá chú trọng đến định hớng xuất khẩu, tập trung mọi u đãi cho việc phát
triển những ngành xuất khẩu, tìm kiếm việc mở rộng thị trờng ngoài nớc. Đến một
thời điểm nào đó, những chấn động của thị trờng bên ngoài sẽ tác đọng ngay lập
tức đến các quốc gia này. Sự phát triển nhanh chóng của hoạt động xuất khẩu làm
cho các cơ chế hành chính, kinh tế, xã hội vốn có đổi mới không kịp, tạo ra khe hở
thể chế để các chứng bệnh xã hội phát triển nh bệnh tham nhũng, trốn lại thuế. ở
không ít nớc đã trở thành quốc nạn. Ngoài ra các định chế thơng mại tài chính tiền
tệ đang trong quá trình hình thành bất cập với sự phát triển của các quan hệ thơng
mại đã mở rộng. Trong điều kiện đó các quốc gia kém phát triển đi theo mô hình
CNH hớng về xuất khẩu sẽ gặp rất nhiều khó khăn trên thơng trờng trớc các địch
thủ hùng mạnh mà lại thiếu các khuôn khổ pháp lý cần thiết để bảo vệ họ.
Do có những hạn chế trên đây, một số ngời đã cho rằng mô hình CNH hớng
về xuất khẩu hết thời. Cuộc khủng hoảng tiền tệ, tài chính ở các nớc Đông Nam á
đã diễn ra gay gắt đã làm cho một số ngời tăng thêm sự mất niềm tin vào mô hình
CNH hớng về xuất khẩu. Nếu đặt mô hình CNH hớng về xuất khẩu trong bối cảnh
toàn cầu hoá đang tiến triển mạnh mẽ hiện nay thì có thể thấy rằng mô hình đó
không thích hợp. Song định hớng xuất khẩu nội dung chủ yếu của mo hình này
không thể xem là lỗi thời, nó sẽ thay đổi trong thời gian tới thích ứng với tình hình
quốc tế mới.
d. Mô hình CNH theo hớng hội nhập quốc tế.
Từ những năm 90 đến nay, tình hình thế giới đã thay đổi theo những xu h-
ớng mới. Hoà bình, phát triển đang trở thành xu thế chính, một nền công nghệ mới
có tính toàn cầu đang hình thành rõ rệt và trở thành cơ sở cho xu hớng toàn cầu
hóa phát triển. Với xu thế toàn cầu tiến triển nh hiện nay thì trong vài thập kỷ tới,
một thị trờng toàn cầu không biên giới có thể sẽ xuất hiện. Tình hình mới này cho
phép các quốc gia thực hiện công nghiệp hoá không chỉ hớng về xuất khẩu mà là
theo hớng hội nhập khu vực và toàn cầu. Mô hình công nghiệp hóa theo hớng hội
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhập quốc tế đang xuất hiện thay thế cho mô hình công nghiệp hoá theo hớng xuất
khẩu. Cho đến nay, mô hình này mới đang hình thành, cha quốc gia nào đã hoàn
thành công nghiệp hoá theo mô hình này. Song căn cứ vào điều kiện quốc tế đang
thay đổi hiện nay, ta có thể nêu ra những đặc trng sau đây của mô hình công
nghiệp hoá theo hớng hội nhập quốc tế..
Mô hình CNH theo hớng hội nhập quốc tế đang hình thành thích hợp với xu
thế phát triển của thế giới trogn thế kỷ XXI. Hiện số nớc thực hiện mô hình này
đang ngày càng tăng lên nổi bật là các nớc Đông Nam á. Năm 1997 cuộc khủng
hoảng tiền tệ, tài chính đã bùng nổ ở Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia, Philippin và
lan sang cả Hàn Quốc gân chấn động nhiều nớc khác. Một số ngời đã cho rằng mô
hình CNH của các quốc gia ASEAN đã bộ lộ nhiều bệnh hoạn và hết thời hạn.
Đúng là mô hình CNH của các quốc gia ASEAN có những vấn đề của nó nh: cơ
chế thị trờng không hoàn thiện, Nhà nớc đã can thiệp quá mức, cứng nhắc vào hoạt
động của thị trờng đặc biệt là thực thi chính sách cố định tỷ giá...
Song mô hình CNH theo hớng hội nhập quốc tế không vì thế mà hết tiêu
dùng. Ngợc lại chính cuộc khủng hoảng này đã hiệu chỉnh đợc những sai lạc trong
chính sách của các quốc gia thực thi mô hình này.
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phần II: Vấn đề lựa chọn mô hình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam
Phải thừa nhận là nớc ta đã thực hiện mô hình CNH thay thế nhập khẩu kiểu
Xô Viết từ thập kỷ 60 cho tới những năm 80. Mô hình CNH mà nớc ta đã áp dụng
có đầy đủ những đặc trng của mô hình CNH theo hớng thay thế nhập khẩu với
mức độ cao hơn và đặc biệt có những dấu ấn Xô Viết rất đậm nét nh: Ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng rất cao. Nghị quyết đại hội lần thứ III của Giám đốc
năm 1960 xác định: Điểm mấu chốt trong CNH xã hội chủ nghĩa là u tiên phát
triển công nghiệp nặng. Thời kỳ này, kinh tế Nhà nớc giữ vai trò thống trị trong
nền kinh tế, quan hệ kinh tế đối ngoại hầu nh chỉ tập trung ở hai hình thức xuất
nhập khẩu và vay nợ nớc ngoài chủ yếu là Xô Viết.
Với một nớc khá đông dân, đang thiếu đủ thứ, cần đủ tứ thì chiến lợc CNH
đó tất yếu dẫn đến chủ trờng xây dựng một nền công nghiệp tơng đối hoàn chỉnh,
tham nhiều công trình, ham quy mô lớn, thoát lý điều kiện, khả năng thực tế. Vấn
đề sức cạnh tranh của hàng hoá hầu nh không đợc đặt ra nếu không muốn nói là
kiêng kỵ vì bị coi là không phù hợp với bản chất kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Quan hệ kinh tế với bên ngoài chỉ bó hẹp trong các nớc xã hội chủ nghĩa
theo hớng tranh thủ sự giúp đỡ về công trình thiết bị toàn bộ và vật t hàng hoá cần
thiết, quan hệ hợp tác đầu t không đợc đặt ra, sự trao đổi thơng mại không theo
đúng nghĩa của nó. Vì những lẽ đó, hiệu quả đầu t rất thấp. Từ 1976 đến 1986,
viện trợ của các nớc xã hội chủ nghĩa là nguồn đầu t phát triển chủ yếu của nớc ta:
nguồn viện trợ này lớn hơn tổng nguồn vốn thu hút từ bên ngoài (kể cả nguồn tài
trợ chính thức và vồn đầu t trực tiếp của nớc ngoài đã đợc thực hiện) trong 5 năm
1991-1995. Tuy có một số công trình phát huy đợc tác dụng, chủ yếu là công trình
xây dựng cơ sở hạ tầng, nhng nhìn chung, việc sử dụng viện trựo của các nớc xã
hội chủ nghĩa theo hớng CNH kiểm cũ đạt hiệu quả thấp nhịp độ tăng trởng kinh
tế bình quân hàng năm trong những năm 1976-1986 chỉ bằng 40% nhịp độ bình
quân của 5 năm 1991-1995, cơ cấu kinh tế trong 10 năm không dịch chuyển theo
hớng tiến bộ mà ngợc lại, tỷ trọng của chủ nghĩa và xây dựng giảm, còn Nông
nghiệp lại tăng lên.
9