Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Phân tích đặc điểm của quy phạm pháp luật hành chính qua đó phân biệt quy phạm pháp luật hành chính và quy phạm pháp luật hiến pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.08 KB, 9 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Đặc trưng của quan hệ quản lý hành chính nhà nước là quan hệ “quyền lực-phục tùng”,
quan hệ có sự bất bình đẳng về ý chí giữa các bên tham gia do đó việc điều chỉnh bằng pháp
luật đối với loại quan hệ này cần phải có một loại quy phạm pháp luật riêng biệt. Đó chính là
quy phạm pháp luật hành chính. Quy phạm hành chính cũng là một dạng cụ thể của quy phạm
pháp luật nói chung nên nó mang đầy đủ những đặc điểm của quy phạm pháp luật. Tuy nhiên
bên cạnh đó cũng có những đặc điểm riêng biệt qua đó cho phép chúng ta phân biệt quy phạm
pháp luật hành chính với các loại quy phạm pháp luật khác. Chính vì vậy trong phạm vi bài tập
nhóm lần này nhóm chúng em xin chọn đề tài “Phân tích đặc điểm của quy phạm pháp luật
hành chính qua đó phân biệt quy phạm pháp luật hành chính và quy phạm pháp luật hiến
pháp”.
NỘI DUNG
I-Khái quát chung về quy phạm pháp luật.
1. Khái niệm.
Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện để
điều chỉnh quan hệ xã hội theo hướng nhất định và nhằm đạt được mục đích mà nhà nước đặt
ra.
2. Đặc điểm.
- Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung.
- Quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện.
- Quy phạm pháp luật là tiêu chuẩn để xác định giới hạn và đánh giá hành vi của con
người.
- Quy phạm pháp luật là công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội, mà nội dung của nó thường
thể hiện hai mặt bắt buộc và cho phép.
- Quy phạm pháp luật có tính hệ thống.
II-Đặc điểm của quy phạm pháp luật hành chính.
1.Khái niệm quy phạm pháp luật hành chính.
1
Quy phạm pháp luật hành chính là một dạng cụ thể của quy phạm pháp luật, được ban
hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý hành chính theo phương
pháp mệnh lệnh - đơn phương.


2.Đặc điểm của quy phạm pháp luật hành chính.
Quy phạm pháp luật hành chính là một dạng cụ thể của quy phạm pháp luật nên các quy
phạm pháp luật hành chính có đầy đủ các đặc điểm chung của quy phạm pháp luật như đã nêu ở
trên. Bên cạnh đó quy phạm pháp luật hành chính còn có những đặc điểm riêng, dựa vào đó có
thể phân biệt quy phạm pháp luật hành chính với những dạng quy phạm pháp luật khác.
a/Các quy phạm pháp luật hành chính chủ yếu do cơ quan hành chính nhà nước ban hành.
Ở nước ta theo quy định của pháp luật hiện hành thì các cơ quan nhà nước hoặc người có
thẩm quyền ban hành quy phạm pháp luật hành chính có thể là chủ thể lập pháp hoặc chủ thể
quản lý hành chính nhà nước. Tuy nhiên các quy phạm pháp luật hành chính lại chủ yếu do cơ
quan hành chính nhà nước ban hành là do:
Quy phạm pháp luật hành chính dùng để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
quá trình quản lý hành chính nhà nước. Mà chủ thể quản lý hành chính nhà nước chủ yếu là
các cơ quan hành chính nhà nước. Trong quá trình thực hiện chức năng quản lý hành chính cơ
quan này có nhiệm vụ giải quyết hàng loạt các vấn đề phát sinh trong các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng…do đó chủ thể quản lý cần phải có quyền ban
hành các quy phạm pháp luật hành chính.
Các văn bản pháp luật do cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc
hội) ban hành chỉ quy định những vấn đề chung và cơ bản, không thể quy định một cách chi
tiết, cụ thể những vấn đề cần điều chỉnh trong lĩnh vực hành chính.Hơn nữa Quốc hội, Ủy ban
thường vụ quốc hội làm việc theo cơ chế thảo luận tập thể, quyết định theo đa số tại các kỳ
họp, phiên họp nên không đủ đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các quan hệ quản lý hành chính nhà
nước một cách năng động và kịp thời.
Trong khi đó, các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý hành chính nhà nước
ngày càng phong phú, đa dạng và phức tạp vì vậy đòi hỏi phải có một số lượng quy phạm
pháp luật lớn và có nội dung cụ thể, phù hợp với từng giai đoạn và địa phương khác nhau để
2
có thể điều chỉnh được các quan hệ pháp luật hành chính phát sinh trong thực tế một cách kịp
thời và hiệu quả.
Do đó các cơ quan quản lý hành chính nhà nước cần phải ban hành các quy phạm pháp
luật hành chính để cụ thể hóa, chi tiết hóa các quy định của hiến pháp, luật, pháp lệnh trong

lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước.
Ví dụ Luật Cán bộ, công công chức 2008 của Quốc hội đã có hơn 10 nghị định của chính
phủ quy định chi tiết, cụ thể và hướng dẫn thi hành như: Nghị định số 06/2010/NĐ-CP quy
định những người là công chức; Nghị định số 18/2010/NĐ-CP về đào tạo, bồi dưỡng công
chức; Nghị định số 21/2010/NĐ-CP về quản lý biên chế công chức;… chưa kể đến những
thông tư hướng dẫn thi hành nghị định.
b/Các quy phạm pháp luật hành chính có số lượng lớn và có hiệu lực pháp lý khác nhau.
Do phạm vi điều chỉnh của các quy phạm pháp luật hành chính rất rộng và tính chất đa
dạng về chủ thể ban hành nên các quy phạm pháp luật hành chính có số lượng lớn.
Quy phạm pháp luật hành chính do nhiều chủ thể ban hành. Đó có thể là các cơ quan
hành chính trung ương ban hành như Chính phủ, Bộ và cơ quan ngang bộ; hay các cơ quan
hành chính địa phương ban hành như Ủy ban nhân dân các cấp. Ngoài ra còn có các quy
phạm pháp luật hành chính do cơ quan quyền lực nhà nước, Tòa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao… ban hành. Vì vậy hiệu lực pháp lý của các quy phạm pháp luật
hành chính là khác nhau. Có những quy phạm có hiệu lực trên phạm vi cả nước và chung cho
các ngành, lĩnh vực quản lý như Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002; nhưng cũng có
những quy phạm chỉ có hiệu lực trong phạm vi một ngành, một lĩnh vực quản lý hay trong
một địa phương nhất định như Nghị định số 57/2010/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân thành
phố Hà Nội về việc quy định số lượng, chức vụ, chức danh, chế độ, chính sách đối với cán bộ,
công chức xã, phường, thị trấn thuộc thành phố Hà Nội.
c/Các quy phạm pháp luật hành chính hợp thành một hệ thống trên cơ sở các nguyên tắc pháp
lý nhất định.
Xuất phát từ yêu cầu điều chỉnh thống nhất pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước,
các quy phạm pháp luật tuy có số lượng lớn và có hiệu lực pháp lý khác nhau song chúng cần
phải hợp thành một hệ thống. Để đảm bảo tính thống nhất trong việc ban hành các quy phạm
3
pháp luật hành chính thì các chủ thể có thẩm quyền ban hành cần phải tuân thủ các nguyên
tắc pháp lý sau đây:
- Thứ nhất, các quy phạm pháp luật hành chính do cơ quan nhà nước cấp dưới ban hành
phải phù hợp với nội dung và mục đích của quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước cấp

trên ban hành.
Ví dụ Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng ban hành quyết định số 2295/2010/QĐ-
UBND quy định giá các loại đất trên địa bàn thành phố Hải Phòng phải dựa trên cơ sở
Nghị định số 188/2004/NĐ-CP của Chính phủ về phương pháp xác định giá đất và khung
giá các loại đất; Nghị định số 123/2007/NĐ-CP ngày 27/7/2007 của Chính phủ về sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 188/2004/NĐ-CP.
- Thứ hai, các quy phạm pháp luật hành chính do cơ quan hành chính nhà nước, Chủ tịch
nước, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân ban hành phải phù hợp với nội dung và
mục đích của quy phạm pháp luật do cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp ban hành. Ví
dụ: Chính phủ ban hành nghị định số 47/2010/NĐ-CP quy định xử phạt hành chính về
hành vi vi phạm pháp luật lao động phải phù hợp với nội dung và mục đích của Bộ luật
lao động 1994 (sửa đổi bổ sung 2002,2006,2007) của Quốc hội và Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính của ủy ban thường vụ quốc hội.
- Thứ ba, các quy phạm pháp luật hành chính do cơ quan hành chính nhà nước có thẩm
quyền chuyên môn ban hành phải phù hợp với nội dung và mục đích của quy phạm pháp
luật do cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung cùng cấp ban hành. Ví dụ Bộ
kế hoạch và đầu tư ban hành thông tư số 01/2010/TT-KHĐT quy định chi tiết kiểm tra về
công tác đấu thầu phải dựa trên cơ sở nghị định Nghị định số 85/2009/NĐ-CP của Chính
phủ về việc hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật
Xây dựng.
- Thứ tư, các quy phạm pháp luật hành chính do người có thẩm quyền trong các cơ quan
nhà nước ban hành phải phù hợp với nội dung và mục đích của quy phạm pháp luật do
tập thể cơ quan đó ban hành. Ví dụ quyết định số 83/2010/QĐ-TTg của thủ tướng chính
phủ về việc ban hành cơ chế, chính sách tài chính đối với khu kinh tế - quốc phòng phải
4
phù hợp với nội dung và mục đích của Nghị định số 44/2009/NĐ-CP của Chính phủ về
xây dựng Khu kinh tế - quốc phòng
- Thứ năm, bảo đảm tính thống nhất phù hợp giữa các quy phạm pháp luật hành chính do
các chủ thể có thẩm quyền ngang cấp, cùng địa vị pháp lý ban hành. Cụ thể:
+ Các chủ thể có thẩm quyền ban hành quy phạm pháp luật hành chính có trách nhiệm

kiểm tra và bảo đảm tính thống nhất, phù hợp giữa các quy phạm pháp luật hành chính
hiện hành do mình ban hành.
+ Các chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật hành chính có trách
nhiệm tôn trọng thẩm quyền ban hành pháp luật của các chủ thể khác ngang cấp, cùng địa
vị pháp lý với mình.
+ Các chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật hành chính ngang
cấp, cùng địa vị pháp lý có trách nhiệm chủ động bàn bạc, phối hợp trong công tác ban
hành pháp luật, phát hiện và xử lý các văn bản quy phạm pháp luật sai trái.
- Thứ sáu, các quy phạm pháp luật hành chính phải được ban hành theo đúng trình tự, thủ
tục và dưới hình thức nhất định do pháp luật quy định. Trình tự, thủ tục cũng như hình
thức văn bản đã được quy định rất cụ thể trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật năm 2008 và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy
ban nhân dân năm 2004.
Việc tuân thủ nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm sự thể hiện ý chí
nhà nước một cách nhất quán, đầy đủ và chặt chẽ trong công tác ban hành quy phạm pháp luật
hành chính.
III-Phân biệt quy phạm pháp luật hành chính với quy phạm pháp luật hiến pháp.
1.Khái niệm
Quy phạm pháp luật hiến pháp là những quy tắc xử sự chung do nhà nước đặt ra hoặc
thừa nhận để điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản nhất, quan trọng nhất trong các lĩnh vực kinh
tế, chính trị, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng...
Quy phạm pháp luật hành chính là một dạng cụ thể của quy phạm pháp luật, được ban
hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý hành chính theo phương
pháp mệnh lệnh - đơn phương.
5

×