Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Nghiên cứu thành phần loài và đặc điểm sinh học của họ xylariaceae ở vườn quốc gia ba vì hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.02 MB, 80 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN








Trần Tiến Dũng









NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN LOÀI VÀ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC
CỦA HỌ XYLARIACEAE Ở VƢỜN QUỐC GIA BA VÌ – HÀ NỘI











LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC







Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN








Trần Tiến Dũng







NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN LOÀI VÀ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC
CỦA HỌ XYLARIACEAE Ở VƢỜN QUỐC GIA BA VÌ – HÀ NỘI

Chuyên ngành: Vi sinh vật học
Mã số: 60 42 40





LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC




NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TSKH. TRỊNH TAM KIỆT





Hà Nội - 2014


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc đến:
GS. TSKH. Trịnh Tam Kiệt, người thầy đã dìu dắt tôi những bước đi đầu tiên trên con
đường nghiên cứu khoa học, thầy luôn động viên chia sẻ những lúc tôi gặp khó khăn nhất

trong cuộc sống và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi tiến hành những nghiên cứu trong luận văn.
Thầy đã truyền đạt cho tôi những kĩ năng và kinh nghiệm quý báu để phân loại nấm, thầy
luôn chỉ bảo nhiệt tình và theo dõi sát tiến độ đồng thời thầy cũng tạo điều kiện tốt nhất về cơ
sở vật chất và kinh phí cho tôi thực hiện đề tài.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các cán bộ, anh chị kĩ thuật viên trong phòng công nghệ
nấm, viện Vi sinh vật và công nghệ sinh học - Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện và
giúp đỡ tôi hoàn thiện luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, đồng nghiệp, bạn bè đã luôn động viên về mặt
tinh thần giúp tôi hoàn thành luận văn.
Ban Quản lý Vườn Quốc Gia Ba Vì, Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình
tiến hành thu mẫu.


MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU
1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
3
1.1. Lược sử nghiên cứu Nấm trên thế giới
3
1.2. Tình hình nghiên cứu Nấm ở Việt Nam
5
1.3. Tình hình nghiên cứu và đặc điểm sinh học họ nấm Xylariaceae
10
1.3.1. Tình hình nghiên cứu họ nấm Xylariaceae
10
1.3.2. Đặc điểm sinh học họ nấm Xylariaceae

11
1.4. Một vài đặc điểm về vườn Quốc gia Ba Vì
16
Chƣơng 2. MỤC TIÊU, ĐỐI TƢỢNG, ĐỊA ĐIỂM, NỘI DUNG VÀ
PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
19
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
19
2.2. Đối tượng nghiên cứu
19
2.3. Địa điểm nghiên cứu
19
2.3.1. Địa điểm thu mẫu
19
2.3.2. Địa điểm xử lý
19
2.4. Nội dung nghiên cứu
19
2.5. Thiết bị nghiên cứu
20
2.6. Phương pháp nghiên cứu
20
2.6.1. Phương pháp thu mẫu
20
2.6.2. Phương pháp xử lý và bảo quản mẫu vật
21
2.6.3. Phương pháp phân tích mẫu vật
23
2.6.4. Phương pháp định loại nấm lớn
25

2.6.5. Nghiên cứu sự mọc của nấm trên môi trường thạch và giá thể
25
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
27
3.1. Thu thập mẫu nấm thuộc họ Xylariaceae ở vườn Quốc gia Ba Vì – Hà
Nội
27
3.2. Thành phần loài nấm thuộc họ Xylariaceae ở vườn Quốc gia Ba Vì – Hà
27


Nội và một số đặc điểm sinh học của chúng
3.2.1. Danh lục các loài nấm đã ghi nhận
27
3.2.2. Một số đặc điểm hình thái và hiển vi của các loài nấm đã ghi nhận
29
3.2.3. Đặc điểm sinh thái của các loài đã được ghi nhận
32
3.2.4. Ý nghĩa thực tiễn của các loài nấm họ Xylariaceae ở vườn Quốc gia
Ba Vì – Hà Nội
33
3.3. Mô tả đặc điểm hình thái và hiển vi của các loài thu thập được
33
3.4. Nghiên cứu sự mọc và sự hình thành quả thể của một số chủng nấm
thuộc họ Xylariaceae
52
3.4.1. Sự hình thành sợi nấm trong nuôi cấy thuần khiết trên môi trường
thạch
52
3.4.2. Sự hình thành quả thể của nấm trong nuôi cấy thuần khiết trên môi

trường thạch
58
3.4.3. Sự mọc của nấm trong nuôi cấy trên giá thể
63
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
68
1. Kết luận
68
2. Kiến nghị
68
TÀI LIỆU THAM KHẢO
69




1
MỞ ĐẦU
Nấm đã và đang có vai trò quan trọng trong tự nhiên, trong nghiên cứu
khoa học cũng như trong đời sống thực tiễn của chúng ta. Nấm làm biến đổi
môi trường sống của con người và không thể thiếu được trong nhiều chức năng
của hệ sinh thái. Nấm hình thành đất, khép kín vòng tuần hoàn vật chất (phân
hủy gỗ, thân và lá cây, xác côn trùng, …), tăng cường sự mọc cho cây và lựa
chọn cây từ môi trường của chúng. Nấm có thể gây ngộ độc, ký sinh trên cơ
thể con người nhưng cũng cung cấp thực phẩm, chữa lành các vết thương và
nhiều bệnh hiểm nghèo. Chính vì dựa trên cả hai phương diện khoa học và
thực tiễn, việc đẩy mạnh nghiên cứu nấm đều có ý nghĩa to lớn và ngày càng
được đẩy mạnh ở nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là ở các nước công
nghiệp phát triển.
Giới Nấm (Fungi) có số lượng loài lớn, bao gồm 97861 loài, 8283 chi (và

gần 5101 synonym), 560 họ, 140 bộ, 36 lớp đã được mô tả (Kirk P. M. et all,
2008) [45] và ước tính số lượng loài có thể lên tới 1,5 triệu (Hawksworth et all,
1995) [37] bên cạnh giới Thực vật (Plantae), Động vật (Animalia), Vi khuẩn
(Bacteria). Số lượng loài nấm lớn (Marcrofungi) có quả thể nhìn thấy bằng mắt
thường khoảng 14 nghìn loài và có thể lên tới 22 nghìn loài (Hawksworth,
1995) [37]. Nấm nói chung và họ Xylariaceae, thuộc bộ Xylariales, lớp nấm
túi, ngành nấm túi nói riêng là đối tượng hấp dẫn cho các nghiên cứu cơ bản về
đa dạng sinh học.
Xylariaceae là họ có số lượng loài lớn nhất trong ngành nấm túi. Cho đến
nay các nhà khoa học đã xác định được có 95 chi với 1354 loài được công bố
trên thế giới. Tuy nhiên ở nước ta chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ về
họ này mà mới chỉ thống kê được 69 loài thuộc 13 chi. Con số này chưa thể
hiện được hết mức độ đa dạng thực tế tại những vùng miền có đặc điểm khí
hậu nhiệt đới, thuận lợi cho nấm phát triển như ở Việt Nam.



2
Việt Nam thuộc khu vực nhiệt đới gió mùa với điều kiện sinh thái rất
thích hợp để khu hệ nấm phát triển phong phú, đa dạng. Tuy nhiên tại Việt
Nam, bên cạnh các nghiên cứu về đa dạng động - thực vật đã có lịch sử lâu dài
thì các nghiên cứu về đa dạng nấm còn rất lẻ tẻ và rời rạc, đặc biệt là các
nghiên cứu về nấm túi. Cho đến nay, chưa có nghiên cứu nào về đa dạng nấm
túi tại vườn quốc gia Ba Vì, Hà Nội, một địa chỉ mà theo đánh giá của các
chuyên gia là có tiềm năng lớn về đa dạng sinh học với nhiều nguồn gen quý
hiếm, cần được bảo tồn. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đa dạng nấm túi nhằm
xác định thành phần loài, bổ sung cho danh mục khu hệ nấm Việt Nam, đánh
giá tính đa dạng sinh học, xác định loài mới, loài đặc hữu là rất cần thiết, có ý
nghĩa rất lớn trong việc bảo tồn đa dạng sinh vật tại Việt Nam và trên thế giới.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:

"Nghiên cứu thành phần loài và đặc điểm sinh học của họ Xylariaceae ở
vườn quốc gia Ba Vì, Hà Nội".



3
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Lịch sử nghiên cứu nấm trên thế giới
Nấm được xem là sinh vật có kích thước hệ sợi lớn nhất trên hành tinh
chúng ta (ở Armillaria bulbosa hệ sợi lan rộng tới 15ha, trọng lượng ước tính 10
tấn, thời gian tới 1.500 tuổi) và có giá trị to lớn trong đời sống con người từ xa
xưa [57].
Thế kỷ XVIII - XIX là giai đoạn Nấm học phát triển mạnh mẽ với nhiều
công trình nổi tiếng của các tác giả như: Bulliard (1791, 1813, 1815), Elias Fries
(1821, 1830, 1832, 1838), Saccardo (1888), Karsten (1881, 1889), Patouillard
(1890 - 1928).
Vào đầu thế kỷ XX, Nấm học phát triển rực rỡ, trở thành một ngành khoa
học thực sự [12]. Nhiều công trình nghiên cứu về nấm xuất hiện ở nhiều khu vực
khác nhau trên thế giới. Trong một thời gian ngắn (30 - 40 năm) nhiều chi nấm
mới đã được mô tả dựa vào các đặc điểm hiển vi và nhiều chi nấm cũ được xem
xét lại trên cơ sở các tiêu chuẩn phân loại hiện đại. Kết quả là đã hình thành
được một số hệ thống nấm học khá ổn định ở châu Âu, Bắc Mỹ như hệ thống
của Domanski (1960), Jahn (1963), Gilbertson and Ryvarden (1993) [53]. Trong
thế kỷ XX nhiều công trình nghiên cứu về nấm học đã được công bố, tiêu biểu
như: C. Rea (1922) [52] với công trình nghiên cứu ―British Basidiomycetes‖;
Rolf Singer (1986) [56] nghiên cứu bộ Agaricales trên toàn thế giới ―The
Agaricales in modern taxonomy‖; G. H. Cunningham (1963) công bố họ
Polyporaceae ở châu Úc và Tân Tây Lan ―The Polyporaceae of Australia and
New Zealand‖ và 1965 là ―The Polyporaceae of New Zealand‖, tổng kết tại Úc

và Tân Tây Lan có 550 loài nấm lỗ. Hanns Kreisel (1975) công bố công trình
―Handbuch Fur Pilzfreunde‖. Pegler D. N., Spooner B. (1994) [50] nghiên cứu
nấm ở Bắc Mỹ và châu Âu trong tác phẩm ―The mushroom identifier‖ đã công
bố và mô tả 341 loài; Ryvarden và Gillbertson (1993) trong công trình nghiên



4
cứu nấm lỗ ở châu Âu ―European polypores‖ đã mô tả 322 loài [53]. Teng S. C.
(1996) [58] nghiên cứu nấm ở Trung Quốc ―Fungi of China‖ đã mô tả 2400 loài
với 601 chi. Trong những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI các nhà nghiên
cứu đã kết hợp giữa phân loại truyền thống với phân loại dựa trên những tiêu
chuẩn hiện đại như: các phản ứng hoá học, sự phân tính, hệ sợi nấm, kiểu gây
mục, đặc điểm nuôi cấy, mà đặc biệt là cấu trúc phân tử ADN đã mang lại
những kết quả chính xác hơn. Armes (1913) là người đầu tiên nhận thấy sợi nấm
rất quan trọng trong nghiên cứu nấm lỗ, sau đó Corner (1933) đã mô tả hệ sợi
nấm, từ đó các nhà Nấm học sử dụng sợi nấm là một tiêu chuẩn mới để phân
loại.
Bên cạnh phương pháp phân loại truyền thống dựa vào hình thái (morpho
- taxonomy), việc sử dụng các phương pháp phân loại dựa vào hoá học (chemo -
taxonomy) và gene (geno - taxonomy) đã loại bỏ được những nhầm lẫn khi phân
loại những loài có hình thái tương đồng. Một số công trình nghiên cứu dựa vào
cấu trúc phân tử ADN như Aime Catherine M. et all (2006) [35] với công trình
―An overview of the higher level classification of Puccinionmycotyna based on
combined analyses of nuclear large and small subunit rDNA Sequences‖ có độ
chính xác cao.
Những nghiên cứu về đa dạng thành phần loài và hệ thống phân loại của
nấm túi thuộc họ Xylariaceae bắt đầu từ những năm 1863. Đến nay 95 chi trong
họ với 1354 loài, đã được các nhà khoa học kiểm chứng và công nhận.
Trong công bố về hệ thống phân loại nấm túi Ascomycetes năm 1993,

Eriksson và Hawksworth đã ghi nhận họ Xylariaceae có 38 chi. Đến năm 1996,
Whalley đã tổng hợp các nghiên cứu trước và công bố họ Xylariaceae có 41 chi.
Tiếp tục những nghiên cứu về hệ thống phân loại nấm túi họ Xylariaceae,
năm 2001, Kirk và cs đã công bố 48 chi được công nhận trong họ Xylariaceae.
Con số này được tăng lên 64 chi vào năm 2004. Đến năm 2006, trong công bố
tiếp theo của Eriksson và cs, họ Xylariaceae đã lên tới 73 chi. Gần đây nhất,



5
Lumbsch và Huhndorf đã hệ thống lại và xác định được 77 chi (2010) trong họ
nấm túi Xylariaceae. Như vậy với 18 chi mới được phát hiện và công nhận thì
tính đến năm 2013, số lượng chi trong họ Xylariaceae đã lên 95 chi với 1354
loài được chấp nhận.
Như vậy, nấm túi Xylariaceae là họ có số lượng loài lớn nhất trong ngành
nấm túi Ascomycota với 95 chi và 1354 loài được chấp nhận. Hệ thống phân
loại của họ Xylariaceae của Lumbchs và Huhndorf (2010) là một hệ thống khá
đầy đủ, kế thừa được những nghiên cứu đi trước đồng thời tổng kết được các kết
quả nghiên cứu về phân loại phân tử và phân loại hóa học. Hệ thống này đang
được các nhà khoa học sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu phân loại nấm túi trên
thế giới.
Ngoài những nghiên cứu về khu hệ, các nhà khoa học cũng đã chú trọng
hơn những nghiên cứu thành phần loài trên cơ chất sinh trưởng của nấm. Năm
1974, khi nghiên cứu thành phần loài nấm sống trên phân động vật ăn cỏ ở vùng
Bắc Mỹ và Bắc Âu, Krug và cs đã bổ sung thêm 5 loài thuộc chi Hypocopra.
Đây cũng là công trình đầu tiên nghiên cứu về nấm túi sống trên phân động vật
và cũng là một hướng trong nghiên cứu, đánh giá đa dạng sinh học.
Năm 2007, Ju đã công bố những nghiên cứu rất thú vị về khả năng sống
trên tổ mối của 9 loài Xylaria thu được, tại Đài Loan.
1.2. Tình hình nghiên cứu Nấm ở Việt Nam

Ở Việt Nam, từ lâu nhân dân đã biết dùng Nấm làm thực phẩm và dược
phẩm. Nhà bác học Lê Quý Đôn (1726 - 1784) trong tác phẩm ―Vân đài loại ngữ
‖ và ―Kiến văn tiểu lục‖ đã đánh giá ―Linh chi là một sản vật quý hiếm của đất
rừng Đại Nam‖, Ông đã nêu ra những tác dụng lớn của nấm như: kiện não (tráng
kiện), bảo can (bảo vệ gan), cường tâm (mạch tim), kiện vị (giúp tiêu hoá ở dạ
dày), cường phế (giúp phổi), giải độc, giải cảm và giúp con người sống lâu, tăng
tuổi thọ.
Trong thời kỳ Pháp thuộc cuối thế kỷ XIX, một số công trình nghiên cứu



6
Nấm ở Việt Nam đã được công bố, trong số đó, phải kể đến những công trình
của Patouillard N. (1890 - 1928), nghiên cứu khu hệ nấm ở Đông Dương
―Contribution à la flore mycologique du Tonkin‖ (1890, 1897); Nghiên cứu khu
hệ nấm ở Việt Nam và Lào ―Nouvelle contribution à la flore mycologique de
l’Annam et du Laos‖ (1928), ông đã công bố 178 loài nấm ở Việt Nam.
Năm 1914, Hariot P. & Patouillard N. (1914) [62] công bố công trình
―Champignons recueillies dans l' Annam par M. Eberhardt‖. Ngoài ra còn có
một số nhà Nấm học khác cũng nghiên cứu nấm lớn ở Việt Nam như Roger,
Petelot, Eberhardt, vào năm 1928; Heim R., Maleneon G. đã công bố công
trình ―Champignons du Tonkin recuellies par M. V. Demange‖.
Người Việt Nam đầu tiên có công trình nghiên cứu về nấm là Phạm
Hoàng Hộ (1953) với tác phẩm ―Cây cỏ miền Nam Việt Nam‖. Ở miền Nam
Việt Nam còn có một số tác giả khác nghiên cứu về nấm như Hoàng Thị Mỹ
(1966) trong công trình ―Luận khảo về các bệnh thường hại cây cối tại miền
Nam Việt Nam‖ đã mô tả 15 loài nấm phá hoại gỗ; Joly P. (1968) với công trình
―Elements de la flore mycologique du Vietnam‖ đã định loại 20 loài thuộc chi
Xylaria.
Ở miền Bắc Việt Nam, việc nghiên cứu nấm được bắt đầu vào năm 1954

tại trường Đại học Tổng hợp Hà Nội lúc bấy giờ với các công trình tiêu biểu của
Nguyễn Văn Diễn (1965) đã mô tả 28 loài nấm ăn được và 10 loài nấm độc,
Trương Văn Năm (1965) ―Nghiên cứu nấm sống trên gỗ ở Lâm trường Hữu
Lũng‖; Trịnh Tam Kiệt với đề tài ―Bước đầu điều tra bộ Aphyllophorales vùng
Hà Nội‖ (1965) và ―Sơ bộ điều tra nghiên cứu các loài nấm ăn và nấm độc chính
ở một số vùng miền Bắc Việt Nam‖ (1966) [5]; P. Joly (1968) công bố các yếu
tố khu hệ nấm Việt Nam ―Elément de la flore mycologique du Vietnam‖; Trịnh
Tam Kiệt (1970) [6] đã công bố 348 loài thuộc khu hệ nấm lớn vùng Đông Bắc
Tam Đảo.
Bước sang thập niên 70, việc nghiên cứu nấm lớn đã đạt được nhiều thành



7
tựu đáng kể, tiêu biểu là các công trình của Trịnh Tam Kiệt: năm 1975 ―Đặc
điểm khu hệ nấm lớn ở miền Bắc Việt Nam‖ ―Einige charakteristika der
Grosspilzflora Nord - Vietnams‖, năm 1977 tác giả tiếp tục công bố ―Những yếu
tố hình thành khu hệ nấm lớn ở miền Bắc Việt Nam và các nhóm sinh thái của
chúng‖ [7]; cũng trong năm 1977, tác giả công bố tiếp công trình ―Góp phần
nghiên cứu hệ nấm Heterobasidiomycetidae ở Việt Nam‖ [9] và năm 1978 công
trình ―Đặc điểm khu hệ nấm phá gỗ, tre ở Việt Nam‖ [8] trong đó đã giới thiệu
400 loài nấm sống trên gỗ. Từ các kết quả trên, tác giả đã tổng kết ―Đặc điểm
khu hệ nấm lớn sống trên gỗ và tre của Việt Nam‖ [10]. Tính đến năm 1978 đã
có 618 loài thuộc 150 chi đã được ghi nhận ở miền Bắc Việt Nam. Bên cạnh đó
còn có các tác giả: Lê Văn Liễu (1977) [30] ―Một số nấm ăn được và nấm độc ở
rừng‖ với 118 loài; Joly P., Perreau J. (1977) với công trình ―Sur quelques
champignons sauvages consomnes au Vietnam Travaux dedies a Georges
Viennot-Bourgin‖ đã giới thiệu một số nấm hoang dại được sử dụng ở Việt
Nam; Pfister D. H. (1977) [51] với công trình ―Annotated index to fungi
described by Patouillard‖ đã công bố các kết quả nghiên cứu liên quan đến khu

hệ nấm Việt Nam.
Năm 1978, Trịnh Tam Kiệt công bố ―Những dẫn liệu về khu hệ nấm sống
trên gỗ vùng Nghệ An‖ [10], tác giả đã mô tả 90 loài nấm sống trên gỗ. Năm
1982, Trịnh Tam Kiệt và Ngô Anh công bố công trình ―Góp phần nghiên cứu
khu hệ nấm ở Bình Trị Thiên‖ [13] đã xác định 111 loài. Năm 1984, Trịnh Tam
Kiệt và Phan Huy Dục [14] với công trình ―Góp phần nghiên cứu nấm mực
Coprinaceae Rose vùng Hà Nội‖ đã công bố 29 loài. Năm 1993, Ngô Anh công
bố công trình ―Nghiên cứu nấm lớn ở Thừa Thiên Huế‖ với 104 loài và công bố
―Dẫn liệu bước đầu về họ Coriolaceae Sing ở Thừa Thiên Huế‖ đã nêu danh
mục 60 loài [1], Trịnh Tam Kiệt (1996) [16] công bố ―Danh lục nấm lớn của
Việt Nam‖ gồm 826 loài.
Năm 1998, Ngô Anh báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu cấp cơ sở



8
―Nghiên cứu khu hệ nấm lớn (Macrofungi) ở Thừa Thiên Huế‖ với 272 loài nấm
lớn, trong đó 46 loài mới ghi nhận cho khu hệ nấm lớn Việt Nam [1]; Trịnh Tam
Kiệt (1998) danh lục khu hệ nấm lớn Việt Nam ―Preliminary checklist of
macrofungi of Vietnam‖ [43] với 837 loài nấm lớn ở Việt Nam đã được công bố
và cùng năm 1998, Trịnh Tam Kiệt công bố đặc điểm khu hệ nấm lớn Việt Nam
―Charakteristika der Grosspilzflora Vietnam‖.
Năm 2000, Nguyễn Thị Đức Huệ [4] đã công bố 134 loài nấm lớn ở Tây
Ninh, trong đó có 27 loài mới ghi nhận cho khu hệ nấm lớn Việt Nam. Cùng
thời điểm này, tại Hội nghị Sinh học Quốc Gia, những vấn đề cơ bản trong
nghiên cứu sinh học, Trịnh Tam Kiệt, Ngô Anh, U. Grafe và J. Dorfelt [17] đã
công bố ―Những dẫn liệu bổ sung về thành phần loài và các hợp chất tự nhiên
của khu hệ nấm lớn Việt Nam‖, trong đó các tác giả đã công bố 65 loài mới của
khu hệ nấm lớn Việt Nam và thông báo về các hợp chất tự nhiên được nghiên
cứu ở 25 loài nấm lớn Việt Nam, trong đó hơn 10 cấu trúc mới về các hợp chất

tự nhiên ở nấm lớn Việt Nam đã được xác định cho khoa học.
Hội thảo quốc tế sinh học năm 2001 tại Hà Nội có nhiều báo cáo như:
Phan Huy Dục báo cáo ―Nấm lớn (Macromyces) ở vườn Quốc gia Tam Đảo
Vĩnh Phúc‖ [3] công bố 41 loài, 17 họ trong 2 lớp Ascomycetes và
Basidiomycetes; Trịnh Tam Kiệt và Henrich Dorfelt báo cáo ―Các taxon mới ghi
nhận cho khu hệ nấm Việt Nam và ý nghĩa của hệ thống sinh thái của chúng‖
công bố 9 loài mới cho lãnh thổ Việt Nam [18]. Cùng năm 2001, Trịnh Tam
Kiệt công bố ―Nghiên cứu chi Wolfiporia Ryv. & Gilbin ở Việt Nam‖ [19];
Kleinwachter P., Trịnh Tam Kiệt, Ngô Anh, Schlegel B., Dahse H. M, Hartl A.
và Grafe U. đã công bố 7 hoạt chất mới nhóm Triterpenoid: Colossolactones A -
G (1-7) được chiết từ loài Ganoderma colossum (Fr.) C. F. Baker được thu thập
ở Thừa Thiên Huế [46].
Năm 2003, Ngô Anh với công trình ―Nghiên cứu thành phần loài nấm lớn
ở Thừa Thiên Huế‖ đã xác định được 346 loài thuộc 134 chi nằm trong 3 ngành



9
Myxomycota, Ascomycota, Basidiomycota [1].
Năm 2004, trong một số công trình: ―Nghiên cứu dưới chi Elfvingia và
chi Tomophagus ở Việt Nam‖ Trịnh Tam Kiệt, Trịnh Thị Tam Bảo đã xác định
được 13 loài thuộc dưới chi Elfvigia và 1 loài thuộc chi Tomophagus; ―Nghiên
cứu chi Phellinus ở Việt Nam‖ đã xác định 22 loài thuộc chi Phellinus và 1 loài
thuộc chi Phylloporia; ―Nghiên cứu thành phần loài nấm đa niên thuộc họ
Coriolaceae‖ đã công bố 17 loài trong 8 chi [21].
Đến năm 2008, Trịnh Tam Kiệt với công trình ―Poisonous mushrooms of
Vietnam‖ [44]; Trịnh Tam Kiệt và Trịnh Tam Bảo [24] với công bố ―Thành
phần loài nấm dược liệu của Việt Nam‖; Trịnh Tam Kiệt và Phan Văn Hợp [25]
với công bố ―Nghiên cứu thành phần loài và đặc điểm sinh học của chi nấm ly
của Việt Nam‖; Đoàn Văn Vệ, Trịnh Tam Kiệt [31] với công bố ―Nghiên cứu

thành phần loài nấm Mộc nhĩ Auricularia của Việt Nam‖; Đoàn Văn Vệ, Trịnh
Tam Kiệt [32] ―Nghiên cứu thành phần loài nấm Ngân nhĩ Tremella của Việt
Nam‖.
Năm 2010, Trịnh Tam Kiệt công bố ―Hệ thống của nấm tới các taxon lớn
theo quan điểm hiện đại‖ đã chỉ ra hệ thống của nấm theo nghĩa rộng tới các bậc
phân loại lớn bao gồm các giới phụ, ngành, ngành phụ, lớp, lớp phụ, bộ [26].
Đến năm 2012, các tác giả đã công bố một số công trình đáng chú ý như công
trình của Trịnh Tam Kiệt, Trần Đông Anh, Trịnh Tam Anh ―Một số loài nấm tán
mới ghi nhận cho khu hệ nấm Việt Nam‖ đã mô tả 5 loài nấm mới ghi nhận cho
khu hệ nấm Việt Nam [29]; công trình của Cổ Đức Trọng, Trịnh Tam Kiệt đã
đưa ra 7 loài nấm mới thu thập ở Nam Bộ và Đà Lạt – Lâm Đồng [33]. Đặc biệt
Trịnh Tam Kiệt đã xuất bản Sách Nấm lớn ở Việt Nam tập I (2011) , Nấm lớn ở
Việt Nam tập II (2012) và Nấm lớn ở Việt Nam tập III (2013) công bố hơn 1800
loài nấm lớn của Việt Nam có kèm theo mô tả và tài liệu dẫn cũng như ảnh màu
minh họa đã cung cấp những dữ liệu khá chi tiết về các loài nấm đã ghi nhận



10
được [27,28].
1.3. Tình hình nghiên cứu và đặc điểm sinh học họ nấm Xylariaceae
1.3.1. Tình hình nghiên cứu họ nấm Xylariaceae
Nghiên cứu đa dạng nấm ở Việt Nam không phải là lĩnh vực mới. Tuy nhiên
những nghiên đã được tiến hành chủ yếu trên đối tượng nấm đảm. Các nghiên
cứu về nấm túi ở trong nước còn quá ít và lẻ tẻ. Trong danh lục nấm túi Việt
Nam (năm 2001) chỉ có 26 loài thuộc chi Xylaria được phát hiện và miêu tả.
Năm 2008, Vũ Thị Thanh Tâm đã nghiên cứu đa dạng nấm túi Xylaria tại rừng
nguyên sinh Mường Phăng 1 Điện Biên, đã xác định thêm được 5 loài ngoài
danh sách 26 loài đã công bố. Gần đây nhất, năm 2010, Ngô Anh và cs trong
nghiên cứu: "Đa dạng các taxon và yếu tố địa lý cấu thành khu hệ nấm lớn Thừa

Thiên Huế” đã bổ sung 5 loài Xylaria mới cho khu hệ nấm Việt Nam, đưa tổng số
loài Xylaria tại Việt Nam hiện biết là 36. Gần đây nhất có đề tài: "Bước đầu
nghiên cứu đa dạng nấm túi chi Xylaria ở rừng quốc gia Cúc Phương" được thực
hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Dương Minh Lam — Bộ môn công
nghệ sinh học I Vi sinh, Khoa Sinh học, Trường Đại học sư phạm Hà Nội.
Gần đây nhất, trong cuốn "Nấm lớn ở Việt Nam" tập 2 năm 2012, Trịnh
Tam Kiệt đã thống kê họ Xylariaceae có 69 loài thuộc 13 chi.
Ngoài các nghiên cứu về thành phần loài nấm túi họ Xylariaceae, một
hướng nghiên cứu về thành phần các hợp chất từ thể quả của các loài nấm túi
Xylariaceae ở Việt Nam cũng đã được chú ý hơn. Năm 2006, Đặng Ngọc Quang
và cs đã tách chiết và xác định được 2 loại hợp chất mới cho khoa học từ thể quả
loài Xylaria intracolorata là coloratin A và coloratin B.
Như vậy tính đến năm 2012, Việt Nam chúng ta đã công bố 13 chi với 69
loài nấm túi họ Xylariaceae. Mặc dù trong những năm gần đây, nghiên cứu về
nấm túi Xylariaceae đã có những tín hiệu tích cực hơn những con số này nhưng
vẫn chưa thể hiện hết mức độ đa dạng sinh học cũng như tiềm năng ứng dụng và
nguồn lợi từ nấm ở nước ta. Vì vậy, nghiên cứu nấm ở Việt Nam là một nhiệm



11
vụ quan trọng và bức thiết nhằm phát hiện, bảo tồn những nguồn gen quý đồng
thời bảo vệ sự đa dạng thành phần loài cũng như sử dụng hợp lý tài nguyên
thiên nhiên của Việt Nam.
1.3.2. Đặc điểm sinh học họ nấm Xylariaceae
* Đặc điểm chung về hình thái và giải phẫu
Đặc điểm chung của giới Nấm gồm những cơ thể dị dưỡng (không quang
hợp) có kiểu dinh dưỡng phổ biến là hấp thụ, đôi khi cũng có kiểu dinh dưỡng
nuốt thức ăn. Cơ thể dinh dưỡng điển hình đơn bào hay đa bào dạng sợi không
có hay có vách ngăn; những trường hợp điển hình không có hay có vách ngăn;

những trường hợp không điển hình là một amip trần hay là thể nhày giả, thể
nhày chính thức, thường là những sinh vật sống bám, sinh trưởng không giới
hạn. Dạng điển hình không chuyển động, nhưng động bào tử, giao tử cũng như
chuyển động bằng giả túc của dạng amip và thể nhày được quan sát thấy. Vách
tế bào hay vách của bào tử chủ yếu bằng kitin, xenlluloza hay cả hai phần trên.
Sinh sản vô tính hay hữu tính và phát tán bằng bào tử có kích thước hiển vi; chỉ
có sự phân hóa mô có giới hạn [27].
Nấm lớn (Macro Fungi) bao gồm những nấm có thể sinh bào tử (thường
được gọi là quả thể) đạt kích thước lớn hơn 4mm trở lên, dù chúng thuộc taxon
phân loại nào. Nấm lớn không phải là những ―nấm bậc cao‖ hay ―nấm thượng
đẳng‖ như một số tác giả quan niệm, vì có nhiều loại nấm ở những bậc taxon
thấp lại có quả thể lớn tới vài centimét, và ngược lại rất nhiều loại nấm bậc cao
không hình thành quả thể hay có quả thể rất bé. Theo quan niệm ấy, nấm lớn bao
gồm những nấm nhày có kích thước lớn của Myxomecetes, một số nấm có quả
thể phôi thai của họ Endogonaceae trong Zygomycetes, một số đáng kể nấm
nang có nang quả dạng chén, dạng đĩa, dạng củ của Discomycetes cũng như
nang quả dạng chai nằm sâu trong mô của Pyrenomycetes và tuyệt đại đa số
nấm đảm trừ nấm rỉ, nấm than, nấm chưa hoàn chỉnh mà ta quen gọi là ―nấm‖.
Nấm lớn có số lượng loài lớn. Châu Âu có khoảng 6000 loài đã được mô tả. Ở



12
Nhật Bản có khoảng hơn 3000 loài, Trung Quốc có khoảng 8000 loài. Trữ lượng
của nấm còn chưa có những số liệu đầy đủ. Mặc dù vậy, chỉ tính riêng nấm ăn
được, sản lượng hàng năm thu được trên toàn thế giới cũng đã lên đến khoảng 7
triệu [27].
Các nhóm nấm lớn khác nhau trải qua sự phát triển cá thể khác nhau và có
thành phần cấu trúc quả thể khác nhau.
Nấm nhày chính thức Myxomycetes: bào tử khi gặp điều kiện thuận lợi nảy

mầm cho amíp nhày hay thể nhày chuyển động bằng roi. Chúng có thể kết hợp
với nhau từng đôi một hoặc rụng tiên mao, phân chia cho hàng loạt amíp nhày
rồi mới diễn ra sự trao đổi nguyên sinh chất (plasmogamie) và quá trình hạch
giao (caryogamie). Sau đó, diễn ra sự phân chia có tơ hình thành thể nhày nhiều
nhân 2n. Các thể nhày nhiều nhân cũng có thể kết hợp thêm những thể nhày nhỏ
khác. Khi già thể nhầy thường đặc quánh lại, bò ra trên mặt giá thể và hình
thành nên thể sinh bào tử đặc trưng cho từng loài. Tiếp ngay sau đó diễn ra quá
trình giảm nhiễm để hình thành bào tử, chúng được phát tán đi bằng thể tóc
chính thức hay thể tóc giả.
Chu trình sống của nấm nang Ascomycota: nang bào tử nảy mầm hình
thành nên hệ sợi nấm phân nhánh, có vách ngăn. Ở nhiều Ascomycetes hình
thành conidie trong giai đoạn này và có thể lặp đi lặp lại nhiều lần trong một
mùa, qua đó tăng số lượng lên gấp nhiều lần. Tiếp đó tại một vài điểm xác định
của sợi, trong những điều kiện nhất định, chúng hình thành nên cơ quan sinh sản
cái (ascogon) với vòi ở đỉnh (trichogyn) và cơ quan sinh sản đực (antheredium).
Khi tiếp xúc với nhau chúng hoà tan màng, nội chất và nhân của cơ quan sinh
sản đực đi qua vòi sang cơ quan sinh sản cái và diễn ra sự trao đổi nguyên sinh
chất. Các nhân khác tính lúc này sắp xếp từng đôi một ở xung quanh ascogon,
sau đó ascogon mọc ra những mấu lồi, từng cặp nhân và nguyên sinh chất đi ra
hình thành nên sợi sinh nang (ascogenehyphe). Cuối cùng, đầu tận cùng của sợi
sinh nang diễn ra sự hình thành nang bằng cách mọc ra mấu lồi, hai nhân khác



13
tính phân chia có tơ và hình thành vách ngăn tạo ra tế bào mẹ của nang, ở đỉnh
có hai nhân, tế bào mấu và tế bào gốc có một nhân. Sau đó tế bào mấu hoà tan
màng đổ nội chất vào tế bào gốc, tiếp tục tham gia vào quá trình sinh màng mới,
còn hai nhân của tế bào mẹ của nang kết hợp với nhau, tăng kích thước cho một
nang thực thụ thường hình chuỳ. Nhân 2n vừa kết hợp xong liền phân chia ba

lần, trong đó có một lần giảm nhiễm tạo 8 nhân 1n, sau đó được nội chất bao
quanh hình thành nên 8 nang bào tử nội sinh. Mặt khác, ngay từ khi giao phối
cặp cơ quan sinh sản đã được các sợi nấm đơn bội bao quanh. Chúng phát triển
cao lên cùng với các sợi nang hình thành các sợi ngang (paraphysa) xen giữa các
nang trong lớp sinh sản (hymenium), cũng như bện chặt ở phía ngoài tạo nên thể
sinh bào tử là nang quả (ascocarpe).
Chu trình sống của nấm đảm (Basidiomycota): đảm bào tử khi gặp điều
kiện thuận lợi sẽ nảy mầm cho ta sợi đơn bội, chúng thường hình thành vách
ngăn tạo nên những tế bào một nhân. Dạng sợi này tồn tại rất ngắn, rồi mau
chóng tiếp xúc với sợi khác tính, giao phối sinh chất và diễn ra quá trình song
hạch hóa để tạo nên sợi song hạch. Ở phần lớn các loài, tế bào mọc ra một
khuỷu – thường gọi là khoá (cầu nối) giữa hai nhân khác tính. Sau đó cả hai
nhân đều phân chia để cho 4 nhân con, một nhân đi vào nhánh, một nhân ở lại
gốc, còn hai nhân khác tính ở phần đầu của sợi. Tiếp sau đó khuỷu cong xuống,
hoà tan màng, đổ nội chất và nhân vào tế bào gốc, đồng thời xuất hiện vách ngăn
với tế bào đỉnh. Kết quả là hình thành nên tế bào song hạch mới, tế bào dưới tế
bào đỉnh lại trở nên song hạch và vết tích còn lại như chiếc cầu của ổ khoá nên
được gọi là khoá hay cấu nối, móc nối. Quá trình song hạch hoá còn diễn ra theo
một vài cách khác mà không tạo thành khoá như trên. Sợi song hạch được tạo
thành có khả năng sinh trưởng vô hạn và hầu như chiếm toàn bộ đời sống của
nấm. Trong những điều kiện nhất định, sợi song hạch bện kết lại tạo nên quả thể
nấm với hình dạng, kích thước và cấu trúc đa dạng. Sau đó, trên quả thể hình
thành nên lớp sinh sản, tạo nên chủ yếu do các tế bào song hạch hữu thụ là mẹ



14
của đảm và đôi khi có cả các tế bào bất thụ như dạng giá, liệt bào sắp xếp theo
dạng bờ rào. Tế bào mẹ của đảm tăng kích thước, chứa chất nguyên sinh, thường
có dạng chuỳ chuyển thành đảm non và diễn ra sự giao phối hai nhân khác tính.

Tiếp sau đó diễn ra sự phân chia hai lần, trong đó có một lần giảm nhiễm để cho
4 nhân con. Lúc này, ở phần đỉnh của giá mọc ra 4 mấu lồi, nội chất cũng như
nhân từng chiếc một đi qua mấu lồi, hình thành nên 4 đảm bào tử ngoại sinh
bằng cách nảy chồi phình lên và thắt dần lại. Bào tử chín, được phát tán một
cách chủ động vào không gian và lặp lại chu trình sống [27].
Xylariaceae có mặt khắp nơi trên thế giới đặc biệt là những vùng có khí
hậu ôn hòa và nhiệt đới. Phần lớn chúng được tìm thấy trên các bộ phận của
thực vật hạt Kín (gỗ, hạt, lá, quả ) và thực vật hạt Trần, số còn lại liên quan
đến các tổ côn trùng và tàn tích thực vật, phân, đất như các chi Hypocopra.
Poronia. Podosordarìa [12].
Hiện nay Xylariaceae được biết đến với vai trò phân hủy cellulose và
lignin, nhờ đó làm sạch 70 - 80% gỗ và lá rụng trong rừng. Như vậy
Xylariaceae có vai trò quan trọng trong chu trình tuần hoàn vật chất và năng
lượng trong thiên nhiên, là yếu tố quan trọng làm tăng độ phì nhiêu của đất [9],
là đối tượng rất tốt cho việc nghiên cứu enzym phân giải gỗ, làm cho gỗ trở nên
mềm, xốp. Cấu trúc gỗ bị nứt, phá hủy gỗ rừng, gỗ ở nhà cửa [31]. Một số ít
trong họ Xylariaceae là tác nhân gây bệnh cổ điển như bệnh thối rễ trắng, thối
cây, mốc sương lá.
Để phân loại nấm túi nói chung và Xylariaceae nói riêng, người ta thường
sử dụng một số tiêu chuẩn hình thái như nơi sống, cơ chất, chất nền, thể quả, sợi
nấm vô tính, cấu trúc túi bào tử, bào tử, đặc điểm hóa học và trình tự gen. Sau
đây là một số đặc điểm chính để nhận dạng nấm thuộc họ Xylariaceae:
Chất nền: Hình thái, màu sắc chất nền là rất đa dạng. Đa số chất nền trong họ
Xylariaceae có màu đen, tuy nhiên cũng có rất nhiều loài trong một chi có màu
sắc khác nhau như màu vàng, màu nâu, màu trắng. Kích thước chất nền của các



15
loài trong họ Xylariaceae cũng khác nhau rõ rệt từ một vài mm đến hàng chục

cm. Tính đồng nhất về cấu trúc chất nền dường như rất quan trọng trong thứ bậc
phân loại khác nhau. Tuy nhiên phổ biến nhất trong họ Xylariaceae là dạng cứng
có bản chất cacbon.
Thể quả là cơ quan sinh sản của nấm túi. Ở giai đoạn trưởng thành, thể quả
thường có màu đen, bên trong chứa rất nhiều túi bào tử. Thể quả thường có hình
cầu, hình trứng, hình elip, hình trụ và một số ít là có hình nón, trong đó hình cầu,
hình trứng gặp phổ biến trong chi Hypoxylon, Annulohypoxylon. Các loài có thể
quả hình trụ thường gặp trong các chi Daldinia, Biscogniauxia. Hình nón có ở
một số loài thuộc chi Kretzschmaria, Nemania. Thể quả dạng chai: có màu tối
hoặc màu đen, thường mọc rải rác hoặc tập hợp thành cụm trên bề mặt chất nền.
Một chất nền có thể mang một thể quả hoặc nhiều thể quả, cấu tạo vỏ thể quả là
nhu mô già giữa các thể túi. Vỏ thể quả cũng là một chỉ tiêu hình thái được quan
tâm rất nhiều trong định loại nấm túi. Hầu hết các nấm túi trong họ Xylariaceae
có vỏ thể quả mềm khi còn non và cứng, giòn dạng cacbon khi trưởng thành.
Lỗ miệng là cấu trúc nằm trên đỉnh của thể quả, là vị trí phóng thích bào tử
trưởng thành ra môi trường bên ngoài. Lỗ miệng của các loài trong họ
Xylariaceae có 3 dạng chính phụ thuộc vào vị trí so với bề mặt chất nền: dạng 1
có nhú cao hơn bề mặt chất nền, dạng này phổ biến ở các chi Annulohypoxylon,
Hypoxylon, Biscogniauxia, Kretzschmaria. Riêng chi Annulohypoxylon lỗ miệng
có một vùng phẳng hình đĩa bao quanh. Dạng 2: lỗ miệng có nhú bằng bề mặt
chất nền, dạng này gặp ở một số loài thuộc chi Hypoxylon, Biscogniauxia. Dạng
3: lỗ miệng thấp hơn bề mặt chất nền. Lỗ miệng cũng là một chỉ tiêu định loại
nấm túi, đặc biệt là phân biệt các loài trong chi Annulohypoxylon, Hypoxylon.
Túi bào tử là cơ quan sinh sản, có chức năng lưu giữ và bảo vệ các bào tử.
Túi bào tử có thể hình chùy, phổ biến là hình trụ. Trong mỗi túi đều có 8 bào tử.
Túi bào tử có một lớp vỏ mỏng, trong suốt, thường có cuống nhỏ.
Mô không sinh sản là sợi nấm vô tính. Chúng bắt nguồn từ gốc của các túi




16
trong quả thể, phân nhánh hoặc không phân nhánh, các sợi không hợp thành bó.
Bảo tử túi (Ascospores) của nấm Xylariaceae có thể đơn bào hay đa bào với
bề mặt nhẵn. Hình dạng bào tử thường là elip hoặc dạng trứng. màu sắc bào tử
thường dao động trong một khoảng lớn như màu nâu sáng, nâu đậm và nâu
đen
Xylaria là một chi có hình thái phức tạp và đa dạng trong họ Xylariaceae, bộ
Xylariales, lớp nấm túi, ngành nấm túi, giời nấm. Tên gọi này xuất phát từ tiếng
Hy Lạp Xylaria có nghĩa là gỗ.
* Đặc điểm về sự phân bố
Nhiều loài Xylaria được tìm thấy trên toàn thế giới. Xylaria được biết đến
là nguyên nhân chính gây thối rữa nhiều loài thực vật. Tuy nhiên quả, hạt, lá
cũng là cơ chất lí tưởng cho sự phát triển của Xylaria. Điều đó cho phép chúng
ta giả thuyết rằng những mối quan hệ với vật chủ này có thể là kết quả của sự
tiến hóa lâu dài.
Xylaria có các đặc điểm khác nhau ở các giai đoạn phát triển khác nhau. Ở
giai đoạn trưởng thành và già, phần chất nền bên trong thường trở nên rỗng.
(Xylaria cubensìs). Các loài thuộc chi Xylaria cũng có sự khác nhau rất lớn về
màu sắc, kích thước, thỉnh thoảng chúng cũng có hình dạng chung. Đây thực sự
là một điều khó khăn trong việc xác định chính xác tên trong taxon phân loại.
Mặc dù vậy việc nghiên cứu đặc điểm hình thái ngoài cũng như nuôi cấy và
nghiên cứu sinh sản vô tính cũng đã có một đóng góp vô cùng quan trọng trong
việc hình thành toàn bộ khái niệm về hệ thống phân loại chi Xylaria. Chính vì
vậy để hoàn thành được khóa phân loại hoàn chỉnh về chi này sẽ rất cần nhiều
thời gian.
1.4. Một vài đặc điểm về vƣờn Quốc gia Ba Vì
Vườn quốc gia Ba Vì là một trong 10 vườn quốc gia của Việt Nam ở phía
Tây thủ đô Hà Nội cách trung tâm thành phố 50km theo đường quốc lộ 11A và
đường 87 có toạ độ địa lý: 21
0

01' đến 21
0
07' vĩ độ Bắc, 105
0
18' đến 105
0
25'



17
kinh độ Đông, với tổng diện tích quy hoạch là: 7.377ha hiện nay theo quy hoạch
mới chỉ còn là: 6.786ha.
Vườn Quốc gia Ba Vì:
+ Phía Bắc giáp các xã: Ba Trại, Ba Vì, Tản Lĩnh.
+ Phía Tây giáp các xã: Khánh Thượng, Minh Quang.
+ Phía Đông giáp các xã Vân Hoà, Yên Bài
+ Phía Nam giáp huyện Kỳ Sơn tỉnh Hoà Bình
Vườn quốc gia Ba Vì được chia thành 2 phân khu chức năng sau:
- Phân khu bảo tồn nguyên vẹn: 2.140ha từ độ cao cốt 400m trở lên
- Phân khu phục hồi sinh thái: 4.646ha từ cốt100m đến cốt 400m
- Ngoài ra còn có khu vùng đệm dưới cốt 100m với tổng diện tích:
14.144ha bao gồm 7 xã vùng đệm trực thuộc tỉnh Hà Tây cũ quản lý.
Ba Vì là một vùng núi trung bình, núi thấp và đồi tiếp giáp với vùng bán
sơn địa. Vùng núi gồm các dãy núi liên tiếp nổi lên giữa vùng đồng bằng, có 3
đỉnh cao nhất là: Đỉnh Vua cao 1296m, đỉnh Tản Viên cao 1227m, đỉnh Ngọc
Hoa cao 1131m vì thế có tên gọi là núi Ba Vì. Ngoài ra còn có các đỉnh thấp hơn
như đỉnh Tiểu Đồng cao 1100m, Hang Hùm hay còn gọi là đỉnh chàng rể
(800m), Gia Dê (714m). Nói chung Ba Vì là một vùng núi khá dốc, sườn phía
Tây đổ xuống sông Đà dốc hơn sườn phía Tây Bắc và Đông Nam. Độ dốc của

khu vực trung bình 25
0
, từ cốt 400m trở lên dốc hơn, độ dốc trung bình 35
0

nhiều chỗ vách đá dốc dựng đứng, xung quanh núi Ba Vì là dải đồi thấp, lượn
sóng xen kẽ đồng ruộng. Dải phía Tây nằm giữa núi Ba Vì và sông Đà hẹp gồm
các đồi thấp và ruộng nước. Dải phía Bắc và phía Đông gồm các đồi lượn sóng,
địa thế thấp, thuận lợi để xây dựng các hồ nhân tạo như: Suối Hai, Đồng Mô-
Ngải Sơn.
- Theo tài liệu điều tra lập địa cấp I vùng phục hồi sinh thái xác định diện
tích ở các dạng lập địa như sau:
+ Đất bằng nông nghiệp: 150ha (B) chiếm 2,3%.



18
+ Đất phẳng có độ dốc 3-7
0
: 250ha (P) chiếm 4,4%
+ Đất Feralit phát triển trên đá mác ma kiềm và trung tính. Phiến thạch
sét và biến chất có độ dốc 8-15
0
(SFK, SF
S
): 2.665ha chiếm 57,2%.
+ Đất Feralit phát triển trên đá mác ma kiềm và trung tính. Phiến thạch
sét và biến chất có độ dốc 16-25
0
(S

'
FK, S
'
F
S
): 974ha chiếm 21%.
+ Đất Feralit phát triển trên đá mác ma kiềm và trung tính. Phiến thạch
sét và biến chất có độ dốc 26-35
0
(DFK, DF
S
): 83ha chiếm 1.8%.
+ Đất Feralit phát triển trên đá mác ma kiềm và trung tính. Phiến thạch
sét và biến chất có độ dốc >35
0
(D
'
FK, D
'
F
S
): 523ha chiếm 11,2%.
+ Các loại đất hồ, thổ cư, đất lầy thụt: 91ha chiếm 1,9%
Vườn quốc gia Ba Vì với 3 kiểu rừng: Rừng kín thường xanh mưa ẩm á
nhiệt đới; rừng kín thường xanh hỗn giao cây lá rộng và cây lá kim á nhiệt đới
và kiểu rừng lá rộng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới trên núi thấp. Núi Ba Vì với
2 đai cao nên hệ thực vật nơi đây khá phong phú và đa dạng, đã ghi nhận 812
loài thực vật bậc cao thuộc 99 họ, 472 chi. Nhiều loài cây quý hiếm như: bách
xanh (Calocedrus marcrolepis), thông tre (Podocarpus nerrifolius), sến mật, giổi
lá bạc, quyết thân gỗ, bát giác liên. Ở Vườn quốc gia cũng đã thống kê được 169

loài cây thuốc, đến năm 1992 đã ghi nhận 250 loài cây thuốc chữa nhiều bệnh.





19
Chƣơng 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƢỢNG, ĐỊA ĐIỂM, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Điều tra thành phần loài nấm thuộc họ Xylariaceae ở vườn quốc gia Ba
Vì, Hà Nội.
- Nghiên cứu đặc điểm sinh học của một số loài nhằm bảo tồn nguồn gen
quý và ứng dụng trong thực tiễn.
2.2. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các loài nấm thuộc họ Xylariaceae ở vườn quốc
gia Ba Vì, Hà Nội.
Để có nguyên liệu nuôi cấy tốt chúng tôi đã chọn những ống giống có cùng
ngày tuổi, cắt lấy hệ sợi ở mép colonie và nuôi cấy trên môi trường nghiên cứu.
Các chủng giống gốc hiện được lưu trữ tại Bộ mẫu Giống gốc Nấm của Phòng
Công nghệ Giống gốc Nấm - Viện Vi sinh vật và Công nghệ Sinh học -
ĐHQGHN.
2.3. Địa điểm nghiên cứu
2.3.1. Địa điểm thu mẫu
Việc thu thập mẫu được tiến hành tại vườn Quốc gia Ba Vì - Hà Nội.
2.3.2. Địa điểm xử lý
Mẫu được xử lý, nghiên cứu đặc điểm sinh học, bảo quản và lưu trữ tại
Phòng Công nghệ giống gốc nấm - Viện Vi sinh vật và Công nghệ Sinh học -
Đại học Quốc Gia Hà Nội.

2.4. Nội dung nghiên cứu
- Thu thập mẫu ngoài thiên nhiên, xử lý các mẫu thu được, xây dựng bách
thảo, phân lập thuần khiết một số chủng có khả năng ứng dụng.
- Phân tích sự phân bố và thành phần loài nấm thuộc họ Xylariaceae.
- Phân tích đặc điểm hình thái và hiển vi nhằm xác định thành phần loài



20
nấm đã thu thập được.
- Nghiên cứu sự mọc của sợi và sự hình thành quả thể của một số loài quan
trọng trên môi trường nuôi cấy thuần khiết.
2.5. Thiết bị nghiên cứu
- Dụng cụ để thu mẫu ngoài thực địa: túi thu mẫu, nhãn, rìu nhỏ cầm tay,
bút chì, sổ ghi chép, dao nhọn cứng, túi giấy, kính lúp cầm tay, giấy báo và máy
ảnh.
- Dụng cụ để nghiên cứu trong phòng thí nghiệm: Kính hiển vi Graf –
Apsco, kính hiển vi Olympus CH - 40, Kính hiển vi chụp ảnh Olympus Model
CHT, kính lúp cầm tay, kính lúp 2 mắt Bauch Lomb, kính hiển vi điện tử với độ
phóng đại 1000 cho đến 160000, máy ảnh điện tử, máy ảnh Pentax.
- Hoá chất:
1. Dung dịch KOH - KOH : 2 – 5%
- Nước
2. Formalin
3. Naphthalene (băng phiến)
4. Agar
5. Glucose
2.6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập, xử lý, phân tích và định loại theo phương pháp của
Trịnh Tam Kiệt (2011, 2012) [27,28].

2.6.1. Phương pháp thu mẫu
Để thu mẫu những nấm sống trên gỗ, trên cây chúng tôi dùng dao nhọn
đục, hoặc dùng rìu nạy, tách hay bổ chúng ra khỏi giá thể. Khi tách cần lấy cả
một phần nhỏ mẫu gỗ mà trên đó nấm sống.
Ghi chép các kiểu gây mục của nấm (trắng, nâu, hỗn hợp, mục vết thương,
mục rễ, mục màng, mục thối, mục tạo nên những khoang trống nhỏ, xốp ), ở
phần nào của cây (cưa ngang để quan sát, ghi chép), tên địa phương và tên khoa

×