Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Cơ cấu thành phần kinh tế trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.72 KB, 21 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Mở đầu
Đặc điểm kinh tế thế giới hiện nay là các quốc gia đang cố gắng xây
dựng mô hình kinh tế có sự kết hợp kế hoạch và thị trờng mà trong đó cơ
cấu kinh tế nhiều thành phần lầ cốt lõi. ở nớc ta sau một thời gian duy trì
kinh tế tập trung cao độ đã thấy sự không phù hợp của nó . Từ sau đại hội
VI (1986) Đảng ta đã mở ra con đờng XHCN của đất nớc bằng việc chuyển
từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần có sự quản lý của nhà nớc.
Sau khi có chính sách đổi mới chúng ta đã đạt đợc những thành tựu b-
ớc đầu có ý nghĩa rất lớn. Nhng hiện chúng ta đang đứng trớc những khó
khăn thách thức lớn, cái cũ và cái mới đan xen nhau, triệt tiêu lẫn nhau.
Bổn phận của chúng ta là phải làm sao cho cái mới cái tiến bộ thay thế cái
cũ nhng không có nghĩa là phủ định hoàn toàn cái cũ . Nhận thức đợc điều
này em đã chọn đề tài Cơ cấu thành phần kinh tế trong nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trờng dới sự quản lý
của nhà nớc theo định hớng XHCN ở Việt Nam làm đề tài cho tiểu luận
của mình để qua việc tìm tài liệu nghiên cứu đề tài nâng cao hiểu biết của
mình về kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trờng, giúp ích cho em hiểu biết thêm
về hiện trạng của đất nớc để sau khi ra trờng có thể góp một phần công sức
của mình xây dựng đất nớc giàu đẹp.
Mặc dù em đã cố gắng để cho đề án đợc tốt nhất nhng chắc chắn
không tránh khỏi sai sót, em rất mong đợc sự góp ý nhiệt tình của thầy
giáo.
Em xin chân thành cảm ơn!
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nội dung
I. Cơ sở lý luận của việc phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
trong thời kỳ qúa độ ở nớc ta.
Bất cứ nền kinh tế nào cũng bắt đầu dới dạng mầm mống, tiền đề


trong nền kinh tế cũ, dần dần phát triển và chiến thắng kinh tế cũ thì mới
trở thành nền kinh tế mới. Dới chế độ công xã nguyên thủy trong điều kiện
những công cụ lao động quá thô sơ lúc bấy giờ, một cá nhân không thể
sống và lao động độc lập đợc, bởi vậy họ buộc phải liên kết lao động tập
thể để chống lại sự uy hiếp của thiên nhiên, của thú dữ và những cộng đồng
ngời khác. Ngời nguyên thuỷ không có quan niệm t hữu, tất cả các t liệu
sản xuất, t liệu sinh hoạt đều thuộc sở hữu của công cộng, của thị tộc và bộ
lạc. Đây là nền sản xuất tự cung tự cấp. Trong xã hội nô lệ và phong kiến,
nền kinh tế cũng cha phải là nền kinh tế hàng hóa. Khi đó kinh tế hàng hóa
mới chỉ xuất hiện với t cách là mầm mống, là tiền đề, và nó vẫn bị nền kinh
tế tự nhiên chi phối. Chỉ đến khi xã hội t bản ra đời thì kinh tế hàng hóa
mới giữ vai trò chi phối đời sống kinh tế xã hội và khi đó mới thực sự là
nền kinh tế hàng hóa.
1. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa
Trớc hết ta có khái niệm của sản xuất hàng hóa: Là sản xuất ra sản
phẩm để trao đổi để bán trên thị trờng, sản phẩm ở đây không phải sản xuất
ra để thoả mãn nhu cầu nội bộ của ngời sản xuất mà sản xuất ra để trao đổi.
Ví dụ nh ở sản xuất tự cung tự cấp thì ngời nông dân vừa phải tạo công cụ
lao động nh quốc, xẻng ... vừa trồng lúa còn trong nền sản xuất hàng hóa
thì ngời nông dân chỉ phải trồng lúa còn ngời thợ rèn sản xuất ra quốc,
xẻng để đổi lấy lúa gạo của ngời nông dân.
Việc ngời nông dân từ việc vừa phải sản xuất công cụ lao động, vừa
phải trồng lúa đến chỉ phải trồng lúa và trao đổi lấy công cụ quốc xẻng của
ngời thợ rèn chính là phân công lao động xã hội đó là sự chuyên môn hóa
ngời sản xuất thành những ngành nghề khác nhau, mỗi ngời chỉ sản xuất
một thứ hoặc một vài thứ sản phẩm, song nhu cầu của họ lại bao hàm nhiều
thứ khác nhau. Để thỏa mãn nhu cầu họ cần có sự trao đổi sản phẩm với
nhau. Nhng nếu chỉ có phân công lao động thôi thì cha đủ để có sản xuất
hàng hóa, đây mới chỉ là điều kiện cần của sản xuất hàng hóa. Nếu chỉ có
phân công lao động và tất cả t liệu sản xuất đều là của chung nh vậy mỗi

ngời sản xuất cung cấp sản phẩm cho xã hội và xã hội cung cấp sản phẩm
cho cá nhân tiêu dùng bởi vậy ở đây không có sự mua bán, trao đổi hàng
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hóa với nhau nên chỉ có phân công lao động xã hội thì cha đủ để có đợc
nền sản xuất hàng hóa.
Ngoài điều kiện phân công lao động xã hội thì cần phải xuất hiện chế
độ t hữu hoặc các hình thức sở hữu khác nhau của t liệu sản xuất và sản
phẩm thì mới có đợc sản xuất hàng hóa, đây là điều kiện đủ để có đợc sản
xuất hàng hóa. Ta đặt vấn đề ngợc lại, nếu chỉ có điều kiện các hình thức sở
hữu khác nhau về t liệu sản xuất và sản phẩm thì có thể có đợc sản xuất
hàng hóa hay không? Câu trả lời là không vì nếu chỉ có sản xuất hàng hóa
điều kiện sở hữu t nhân về t liệu sản xuất mà không có sự phân công lao
động xã hội thì cha thể có sản xuất hàng hóa, ngời nông dân vừa dệt vải,
vừa tự rèn lấy công cụ và trồng lúa. Tức là sản xuất tự cấp tự túc hoàn toàn
thì sản xuất đó không phải là nền sản xuất hàng hóa.
Nh vậy, phân công lao động xã hội là cơ sở để có đợc sản xuất hàng
hóa còn chế độ t hữu làm cho việc trao đổi sản phẩm mang hình thức trao
đổi hàng hóa. Thiếu một trong hai điều kiện đó thì không thể có sản xuất
hàng hóa.
2.Lý luận của Mac - Lênin về sự phát triển của sản xuất hàng hóa và
kinh tế hàng hóa.
Phát triển sản xuất hàng hóa là sự phát triển của lực lợng sản xuất xã
hội cũng là sản phẩm xã hội ngày càng phong phú, ở chế độ công xã
nguyên thuỷ, lực lợng sản xuất phát triển còn thể hiện ở phân công lao
động xã hội thay thế cho phân công tự nhiên. Một số bộ lạc do điều kiện
thiên nhiên thuận lợi cho việc trồng trọt ngũ cốc, chuyên đi sâu vào sản
xuất nông nghiệp, một số bộ lạc khác do điều kiện thiên nhiên thuận lợi
cho việc chăn nuôi với số lợng lớn nên đã tách ra khỏi các bộ lạc nông
nghiệp và lấy chăn nuôi làm ngành lao động chủ yếu, điều này đã làm tăng

năng suất lao động, con ngời có thể sản xuất đợc nhiều t liệu sinh hoạt hơn
số t liệu sinh hoạt cần thiết cho bản thân họ, do đó suất hiện sản phẩm
thặng d và và sự trao đổi sản phẩm suất hiện một cách ngẫu nhiên, sau đó
trao đổi sản phẩm trở thành thờng xuyên dần dẫn đến trao đổi hàng hóa, lúc
bấy giờ bộ lạc chăn nuôi sản xuất thịt, sữa, da thú nhiều hơn và những bộ
lạc trồng trọt nông nghiệp cũng sản xuất ra nhiều lơng thực thực phẩm hơn
do vậy việc trao đổi trở nên đều đặn thờng xuyên và sản phẩm trở thành
hàng hóa.
Lực lợng sản xuất phát triển thêm một bớc khi công cụ lao động bằng
đồng và sắt suất hiện, khi các nghề dệt và thủ công khác đã phát triển và
ngày càng đợc chuyên môn hóa, tình trạng kết hợp nghề nông với nghề thủ
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
công trở nên khó khăn và thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp. Nền sản
xuất xã hội đợc chia thành hai ngành chính nông nghiệp và thủ công
nghiệp giờ đây sản xuất hàng hóa suất hiện không những trong nội bộ bộ
lạc, giữa các bộ lạc với nhau mà cả các nớc với nhau từ đấy việc sản xuất để
trao đổi và việc trao đổi đã trở thành một điều kiện tất yếu, sống còn của xã
hội.
Sản xuất nhỏ có hai trình độ sản xuất: Sản xuất nhỏ ở trạnh thái tự cấp,
tự túc và sản xuất nhỏ ở trạng thái sản xuất hàng hóa giản đơn. Bớc đi tất
yếu và tự phát của sản xuất tự cấp tự túc là tiến lên sản xuất hàng hóa giản
đơn (sản xuất hàng hóa nhỏ) dựa trên chế độ t hữu nhỏ về t liệu sản xuất và
lao động cá nhân của ngời sản xuất.
Nền sản xuất hàng hóa nhỏ của nông dân và thợ thủ công đã có bớc
phát triển mới. Những ngời thợ cả giàu có bắt đầu mở rông quy mô, thuê
thêm nhân công và kéo dài ngày lao động , dần dần họ trở thành nhà t bản
bóc lột ngời lao động làm thuê. Sản xuất hàng hóa nhỏ phát triển thành qui
mô lớn và chỉ khi đó sản xuất hàng hóa mới trở thành kinh tế hàng hóa (sản
xuất hàng hóa giản đơn vẫn cha phải là kinh tế hàng hóa ).

3.Ưu thế của sản xuất hàng hóa
Lịch sử phát triển sản xuất của xã hội là từ sản xuất tự cấp, tự túc tiến
lên sản xuất hàng hóa (hay từ kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hóa). So với
nền sản xuất tự cấp tự túc thì sản xuất hàng hóa có những u thế hơn hẳn về
nhiều mặt.
Thứ nhất, nền sản xuất tự cấp tự túc là nền sản xuất khép kín làm cho
nền sản xuất bị hạn chế không phát triển mặt khác sản xuất hàng hóa là sản
xuất ra sản phẩm để bán nên nhu cầu là rất lớn và không ngừng tăng lên
bởi vậy nó là động lực để thúc đẩy sản xuất phát triển .
Thứ hai, sản xuất tự cấp tự túc là sản xuất trong một môi trờng không
có cạnh tranh, sản xuất với qui mô nhỏ, nhu cầu chủ yếu dựa vào nguồn lực
tự nhiên nên không có động lực mạnh cho việc đổi mới kỹ thuật và phát
triển sản xuất hơn nữa, những nguồn lực tự nhiên thì bị sử dụng một cách
rất lãng phí. Còn môi trờng hoạt động của sản xuất hàng hóa là một môi tr-
ờng cạnh tranh gay gắt, qui mô sản xuất lớn, nguồn lực tự nhiên ngày càng
khan hiếm, điều này buộc những ngời sản xuất phải cải tiến kỹ thuật, linh
động trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên, trái với sản xuất tự cấp tự
túc, đây là động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của xã hội.
Thứ ba, đối với sản xuất tự cấp tự túc do sản xuất phát triển thấp, sản
phẩm ít và nhu cầu thấp nên ở mỗi vùng và các vùng với nhau, đời sống vật
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
chất, văn hóa, tinh thần rất nghèo nàn và thấp kém, không có sự giao lu trao
đổi văn hóa giữa các vùng. Nhng sản xuất hàng hóa khắc phục đợc tình
trạng này, do sản xuất hàng hóa phát triển với vai trò động lực của nhu cầu,
giao lu văn hóa, kinh tế đợc phát triển nên đời sống vật chất cũng nh đời
sống tinh thần của nhân dân đều đợc nâng cao ngày càng phong phú và đa
dạng, tạo điều kiện cho phát triển độc lập, tự do bình đẳng của mỗi cá
nhân.
Thứ t, nền sản xuất tự cấp tự túc khép kín đã cản trở sự phát triển của

phân công lao động xã hội, trái lại do sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở
phân công lao động xã hội, thúc đẩy sự chuyên môn hóa các ngành sản
xuất, làm cho các ngành sản xuất ngày càng đợc chuyên môn hóa và phát
triển mạnh mẽ, trình độ kỹ thuật ngày càng đợc nâng cao, trên thế giới hiện
nay khoa học ky thuật phát triển vô cùng nhanh chóng nhất là trong lĩnh
vực công nghệ thông tin, điện tử...
4.Sự tồn tại khách quan của kinh tế hàng hóa tronh thời kỳ quá độ.
Ta thấy rằng, từ khi chủ nghĩa xã hội ra đời và phát triển nh một hệ
thống thế giới cho đến trớc thập kỷ 80, vấn đề có hay không tồn tại của nền
sản xuất hàng hóa trong chủ nghĩa xã hội luôn là đề tài tranh luận trong
giới nghiên cứu lý luận Mácxít. Nhìn chung, về phơng diện lý luận, quan
điểm chính thống chi phối trong suốt mấy thập kỷ qua là quan niệm: kinh
tế xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế phát triển theo quy luật cân đối và có kế
hoạch cùng với các quy luật kinh tế đặc thù khác của chủ nghĩa xã hội, Nhà
nớc có vai trò chủ yếu trong quá trình tái sản xuất và phân phối sản phẩm
mà không cần đến các quan hệ trao đổi hàng hóa trên thị trờng. Kinh tế
hàng hóa bị coi nhẹ, đợc coi là đặc trng riêng của chủ nghĩa t bản cần phải
đợc hạn chế và đi tới xoá bỏ. Nhng trên thực tế chính điều đó là nguyên
nhân chủ yếu làm trì trệ, kìm hãm đa một số nền kinh tế của các quốc gia
xã hội chủ nghĩa đến khủng hoảng và tan vỡ. Từ những thực tế trên ta thấy
quan điểm cho rằng sản xuất hàng hóa là đặc trng riêng của chủ nghĩa t
bản là hoàn toàn sai lầm. Mặt khác theo C. Mác sản xuất hàng hóa ra đời
trên cơ sở phân công lao động xã hội và chế độ t hữu về t liệu sản xuất bởi
vậy sản xuất hàng hóa tồn tại trong thời kỳ quá độ là một tất yếu khách
quan vì:
Thứ nhất, khi mà phân công lao động xã hội phát triển kéo theo
chuyên môn hóa sản xuất ngày càng sâu sắc, từ đó sẽ nảy sinh thêm những
mối liên hệ kinh tế, những sự trao đổi hoạt động lao động trong xã hội.
Thứ hai, đặc điểm kinh tế của thời kỳ quá độ đó là nền kinh tế nhiều
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thành phần với nhiều hình thức sở hữu khác nhau về t liệu sản xuất, nhiều
chủ thể kinh tế khác nhau. Những chủ thể kinh tế này tách biệt, độc lập với
nhau nhng họ đều nằm trong một hệ thống phân công lao động xã hội, do
đó sản xuất và đời sống của họ vẫn có sự phụ thuộc lẫn nhau và quan hệ
kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng con đờng trao đổi hàng hóa tức là
phải có sản xuất hàng hóa.
Thứ ba, quan hệ hàng hóa tiền tệ là hình thức cần thiết thuận lợi để
đảm bảo sự công bằng trong quan hệ giữa kinh tế quốc doanh và kinh tế tập
thể, vì hai đơn vị này tuy cùng là sở hữu công cộng về t liệu sản xuất nhng
nó vẫn có sự tách biệt nhất định và có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh,
cạnh tranh hay hiệp tác với nhau, nó còn có sự khác nhau về trình độ kỹ
thuật, trình độ quản lý, về hiệu qủa sản xuất kinh doanh dẫn đến có sự khác
biệt nhau về lợi ích kinh tế, chúng ta không thể dùng phơng pháp bình
quân, bằng ở đây đợc.
Thứ t, sản xuất hàng hóa và quan hệ hàng hóa tiền tệ còn chính là điều
kiện cần thiết và tất yếu trong quan hệ kinh tế đối ngoại giữa các nớc trên
thế giới bởi vì mỗi nớc vẫn là những quốc gia riêng biệt, là những chủ sở
hữu khác nhau về sản phẩm hàng hóa.
Từ những lý do trên đây ta nhận thấy trong thời kỳ quá độ sản xuất
hàng hóa tồn tại là một tất yếu và cần thiết không thể cỡng lại và không thể
dùng mệnh lậnh để ngăn cấm, xóa bỏ sản xuất hàng hóa.
II.Tính tất yếu khách quan phải phát triển kinh tế hàng hóa nhiều hành
phần ở Việt Nam.
Do yêu cầu của phát triển lực lợng sản xuất.
Lực lợng sản xuất phát triển tỷ lệ thuận với tiến trình tập trung và xã
hội hóa quan hệ sở hữu mà đỉnh cao của nó là sở hữu toàn dân. Sự hình
thành của các tập đoàn kinh tế, các công ty cổ phần, công ty đa quốc gia và
xuyên quốc gia chính là những biểu hiện của quá trình xã hội hóa quan hệ
sở hữu ở một trình độ nhất định. Khi mà lực lợng sản xuất đang ở mức thấp

thì tơng ứng với nó là sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu nhỏ và phân tán.
Thế giới ngày nay do phát triển lực lợng sản xuất của khoa học, công
nghệ mà giàu có rất nhanh nhng đi liền với nó là bất công xã hội ngày càng
nhiều, sự giàu có phát triển không làm cho bất công xã hội giảm đi mà
ngày càng phát triển, để giải quyết mâu thuẫn này không có cách nào khác
là khi tăng trởng kinh tế phải đi đôi với giải quyết công bằng xã hội, nhng
giải quyết công bằng xã hội ở đây không có nghĩa là cào bằng, sự siêng
năng, tích cực và biếng nhác, làm ăn có hiệu quả đều đợc hởng nh nhau,
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
làm nh vậy sẽ làm triệt tiêu động lực phấn đấu của con ngời, ở đây cần phải
dùng quan hệ hàng hóa tiền tệ để phân chia quyền lợi, chỉ có làm nh vậy
mới giảm bớt đợc bất công của xã hội. Hơn nữa trình độ phát triển lực lợng
sản xuất ở nớc ta còn ở mức rất thấp, sự phân công lao động xã hội gắn với
sự tồn tại nhiều chủ thể sở hữu khác nhau nh các thực thể kinh tế độc lập,
do vậy việc trao đổi sản phẩm không thể thực hiện bằng cách nào khác là
thực hiện trao đổi hàng hóa thông qua tiền tệ.
Trong thời kỳ quá độ của nớc ta hiện nay muốn phát triển lực lợng sản
xuất thì phải nâng cao xã hội hóa và chuyên môn hóa lao động mà điều này
chỉ có thể diễn ra thuận lợi trong nền kinh tế thị trờng.
Ngày nay, trên thế giới, do sự phát triển của lực lợng sản xuất của
khoa học công nghệ, đang có xu hớng quốc tế hóa đời sống nhân loại, xu
hóng này mở ra cả chiều rộng và chiều nghịch, cả mặt tích cực và tiêu cực
tác động đến con ngời, đến các quốc gia. Xu thế này đòi hỏi sự giao lu hợp
tác, hiểu biết lẫn nhau giữa các vùng và các quốc gia. Do vậy cần phải phát
triển sản xuất hàng hóa ở nớc ta để việc giao lu, hợp tác với các nớc khác
trên thế giới đợc dễ dàng, tiện lợi.
Mặt khác, sản xuất hàng hóa phát triển kéo theo lực lợng sản xuất phát
triển làm sản phẩm xã hội ngày càng phong phú đáp ứng đợc nhu cầu ngày
càng tăng của con ngời.

2. Do tồn tại nhiều thành phần kinh tế.
Việc đổi mới quản lý kinh tế sử dụng đúng đắn mối quan hệ hàng hóa
tiền tệ, quản lý bằng phơng pháp kinh tế là chủ yếu đã đợc đặt nền tảng t t-
ởng bởi nghị quyết đại hội VI (năm 1986) có tính quyết định cho việc lựa
chọn chuyển hoạt động của nớc ta sang cơ chế thị trờng nhằm nhanh chóng
đa nớc ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Từ những quan điểm đó
chính phủ đã chủ trơng chuyển việc mua bán t liệu sản xuất, vật phẩm tiêu
dùng ... từ cơ chế hành chính quan liêu bao cấp sang việc mua bán thông
qua thị trờng .
Nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần tơng ứng với nhiều hình thức sở
hữu khác nhau về t liệu sản xuất là cơ sở kinh tế gắn liền với nó là sự tồn tai
và phát triển kinh tế hàng hóa. Đối với nền kinh tế nớc ta với lực lợng sản
xuất cha đồng đều chúng ta đã nhận định đợc rằng chỉ có phát triển kinh tế
nhiều thành phần mới có khả năng khắc phục đợc tình trạng không đồng
đều đó của lực lợng sản xuất.
Hiện nay, nớc ta vẫn đang phải gánh chịu những hậu qủa nặng nề do
sự sai lầm về đờng lối, chính sách thời trớc đổi mới, hậu qủa chúng ta phải
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
gánh chịu đó là nền kinh tế kém phát triển, làm mất khả năng cạnh tranh và
những tác dụng tích cực của kinh tế hàng hóa. Nền kinh tế nhiều thành
phần là nguồn lực tổng hợp về nhiều mặt (huy động đợc mọi tiềm năng về
vốn, kỹ thuật và phát huy đợc mọi tiềm năng của con ngời Việt Nam) có
khả năng đa nền kinh tế vợt qua đựơc tình trạng thấp kém đa nền kinh tế
hàng hóa phát triển ngay trong điều kiện nguồn vốn, ngân sách của Nhà n-
ớc còn hạn hẹp.
Một điều có ý nghĩa khá lớn mà chúng ta đã nhận định đợc đó là : do
trong nền kinh tế hàng hóa chịu sự tác dụng của sự thay đổi cơ cấu ngành
theo hớng ngành kinh tế dịch vụ phát triển nhanh chóng, bởi vậy lao động
dịch vụ trong ngành dịch vụ có khả năng thu hút nguồn lao động không

nhỏ, góp phần giải quyết đợc vấn đề công ăn việc làm ở nớc ta hiện nay.
Trong điều kiện đó các thành phần kinh tế có khả năng mở rộng, tác dụng
làm cho kinh tế hàng hóa và dịch vụ phát triển.
Vậy đối với nớc ta hiện nay, việc xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần theo định hớng xã hội chủ nghĩa là một nhu cầu khách quan, là
xu thế tất yếu hợp với thời đại.
3.Do đòi hỏi nâng cao đời sống nhân dân
Vào thời kỳ những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX này, dân tộc
ta bị sống đoạ đày dới ách thống trị của thực dân Pháp và phong kiến tay
sai. Trong ách áp bức bóc lột nhiều phong trào yêu nớc đã kế tiếp nhau diễn
ra để chống lại bọn cớp nớc và bè lũ bán nớc nhng những phong trào đó lần
lợt bị thất bại do không tìm đợc ra con đờng đúng đắn. Trong bối cảnh đó
Hồ Chí Minh với tên gọi Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đờng cứu nớc tại
bến cảng nhà Rồng và ngời đã tìm ra con đờng đúng đắn để giải phóng dân
tộc. Ngày từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng mới giành đợc,
ngời đã nêu bật một chân lý nớc độc lập mà dân không đợc hởng hạnh
phúc thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì và ngời thờng căn dặn thắng đế
quốc và phong kiến là tơng đối khó nhng thắng nghèo nàn, lạc hậu mới
khó khăn hơn nhiều.
Đối với nớc ta trong thời kỳ trớc đổi mới (1986) do những sai lầm
trong nhận thức về mô hình xã hội chủ nghĩa, cho rằng kinh tế hàng hóa là
đặc trng riêng của chủ nghĩa t bản, điều này đã làm cho nền kinh tế nớc ta
lâm vào khủng hoảng trầm trọng, lạm phát gia tăng một cách khủng khiếp
(có thời kỳ lên tới 600 - 700%) đời sống nhân dân khổ cực.
Trớc những thực trạng đó của đất nớc Đảng ta đã nhận ra sai lầm và đã
đề ra phơng hớng đổi mới đất nớc đó là vận hành nền kinh tế theo cơ chế
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

×