Tải bản đầy đủ (.docx) (83 trang)

Áp dụng Công ước Viên 1980 về chế tài khi vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.95 KB, 83 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
CƠ SỞ II TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
***
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Kinh tế đối ngoại
ÁP DỤNG CÔNG ƯỚC VIÊN 1980 VỀ
CHẾ TÀI KHI VI PHẠM HỢP ĐỒNG MUA BÁN
HÀNG HÓA QUỐC TẾ VÀ
BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Họ và tên sinh viên: Phạm Quang Vũ
Mã sinh viên: 0951015856
Lớp: Anh 15
Khóa: 48
Người hướng dẫn khoa học: ThS. Lưu Thị Bích Hạnh
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2013
Ý KIẾN CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC
TẾ VÀ CHẾ TÀI KHI VI PHẠM HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
QUỐC TẾ THEO CÔNG ƯỚC VIÊN NĂM 1980 4
1.1. Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế 4
1.1.1. Khái niệm 4
1.1.2. Đặc điểm 5
1.1.3. Nguồn luật điều chỉnh 6
1.1.4. Điều kiện kiện lực 10
1.2. Khái quát chung về chế tài khi vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế 13
1.2.1. Khái niệm vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế 13
1.2.2. Khái niệm, hình thức, vai trò của chế tài khi vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế 14


1.3. Công ước Viên năm 1980 và chế tài áp dụng khi vi phạm hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế 16
1.3.1. Vai trò của Công ước Viên năm 1980 trong thương mại quốc tế 16
1.3.2. Chế tài áp dụng của Công ước Viên năm 1980 khi vi phạm hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế 17
1.4. Ý nghĩa của việc tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định về chế tài khi vi
phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo Công ước Viên năm 1980 đối
với Việt Nam 21
1.4.1. Đối với hệ thống pháp luật Việt Nam 21
1.4.2. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam 22
1.4.3. Đối với các cơ quan giải quyết tranh chấp tại Việt Nam 22
CHƯƠNG 2: ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ CHẾ TÀI KHI VI PHẠM HỢP
ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ THEO CÔNG ƯỚC VIÊN NĂM
1980 24
2.1. Phân tích các trường hợp áp dụng chế tài khi vi phạm hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế theo Công ước Viên năm 1980 24
2.1.1. Áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng 24
2.1.2. Áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại 26
2.1.3. Áp dụng chế tài hủy hợp đồng 34
2.2. Phân tích một số tình huống cụ thể về việc áp dụng các quy định về chế tài khi
vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo Công ước Viên năm 1980
41
2.2.1. Tranh chấp hợp đồng thiết bị y khoa 41
2.2.2. Tranh chấp cẩu xúc đất 43
2.2.3. Tranh chấp hợp đồng nước ép cam 46
2.3. Nhận xét chung về thực tiễn áp dụng các quy định về về chế tài khi vi phạm
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo Công ước Viên năm 1980 48
CHƯƠNG 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM VÀ GIẢI
PHÁP TRIỂN KHAI VẬN DỤNG KINH NGHIỆM ÁP DỤNG CÁC QUY
ĐỊNH VỀ CHẾ TÀI KHI VI PHẠM HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

QUỐC TẾ THEO CÔNG ƯỚC VIÊN NĂM 1980 50
3.1. Bài học kinh nghiệm sau khi phân tích thực tiễn áp dụng các quy định về chế
tài khi vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo Công ước Viên năm
1980 đối với Việt Nam và từ các phán quyết 52
3.1.1. Về việc xác định vi phạm cơ bản 52
3.1.2. Về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng 52
3.1.3. Về chế tài hủy hợp đồng 53
3.1.4. Về chế tài bồi thường thiệt hại 53
3.1.5. Về vi phạm trước 55
3.1.6. Về việc áp dụng các nguồn luật khác đối với các vấn đề CISG không điều chỉnh
hoặc điều chỉnh không đầy đủ 55
3.2. Đánh giá các điều kiện đảm bảo triển khai vận dụng kinh nghiệm áp dụng các
quy định về về chế tài khi vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo
Công ước Viên năm 1980 đối với Việt Nam hiện nay 56
3.2.1. Thuận lợi 56
3.2.2. Khó khăn 59
3.3. Các giải pháp cần thực hiện 63
3.3.1. Nhóm giải pháp về phía Nhà nước 63
3.3.2. Nhóm giải pháp về phía cơ quan giải quyết tranh chấp 68
3.3.3. Nhóm giải pháp về phía doanh nghiệp 70
KẾT LUẬN 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 77
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
AAA
American Arbitration
Association
Hiệp hội Trọng Tài Mỹ
AFTA ASEAN Free Trade Area
Khu vực Mậu dịch Tự do

ASEAN
APEC
Asia – Pacific Economic
Cooperation
Tổ chức hợp tác Kinh tế Châu
Á – Thái Bình Dương
ASEAN
Association of South-East Asia
Nations
Hiệp hội các Quốc gia Đông
Nam Á
ASEM Asia-Europe Meeting Diễn đàn Hợp tác Á – Âu
BLDS _ Bộ luật Dân sự
CIF Cost, Insurance and Freight
Tiền hàng, phí bảo hiểm và
cước phí
CISG
United Nations Convention on
Contracts for the International
Sale of Goods
Công ước Viên năm 1980 của
Liên Hợp Quốc về hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế
CLOUT
Case Law On UNCITRAL
Texts
_
FOB Free On Board Giao hàng lên tàu
GATS
The General Agreement on

Trade in Services
Hiệp định chung về Thương
mại Dịch vụ
GATT
The General Agreement on
Tariffs and Trade
Hiệp ước chung về thuế quan
và mậu dịch
HĐMBHHQT _
Hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế
ICC
International Chamber of
Commerce
Phòng Thương mại Quốc tế
IMF International Monetary Fund Quỹ Tiền tệ Quốc tế
Incoterms
International Commercial
Terms
Các điều kiện thương mại
quốc tế
LTMVN _ Luật Thương mại Việt Nam
MFN Most Favoured Nation Tối huệ quốc
MUTRAP
The Multilateral Trade
Assistance Project
Dự án hỗ trợ thương mại đa
biên
PECL
Principles Of European

Contract Law
Các nguyên tắc của Luật Hợp
đồng Châu Âu
PICC
UNIDROIT Principles of
International Commercial
Contracts
Bộ nguyên tắc UNIDROIT về
hợp đồng thương mại quốc tế
SEV
Council of Mutual Economic
Assistance - CMEA
Hội đồng Tương trợ Kinh tế
UCP
The Uniform Customs and
Practice for Documentary
Credits
Các Quy tắc thực hành thống
nhất về Tín dụng chứng từ
UNCITRAL
United Nations Commission on
International Trade Law
Ủy ban của Liên Hợp Quốc về
Luật Thương mại Quốc tế
UNIDROIT
International Institute for the
Unification of Private Law
Viện Thống nhất Tư pháp
Quốc tế
VIAC

Vietnam International
Arbitration Centre
Trung tâm Trọng tài Quốc tế
Việt Nam
VICC
Vietnam Chamber of
Commerce and Industry
Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam
VJEPA
Vietnam – Japan Economic
Partnership Agreement
Hiệp định đối tác kinh tế Việt-
Nhật
WB World Bank Ngân hàng Thế giới
WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại Quốc tế
6
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VI, công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam ngày càng được chú trọng hơn bao giờ hết. Ngày 11/01/2007, Việt Nam
chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO.
Đây là mốc son quan trọng đánh dấu quá trình hội nhập ngày càng sâu và rộng của
nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Song song với quá trình
hội nhập đó là sự tăng lên về các mối quan hệ quốc tế, đặc biệt là quan hệ thương
mại giữa thương nhân trong nước và thương nhân nước ngoài. Đồng thời, các
HĐMBHHQT cũng tăng lên về lượng và chất, kéo theo các tranh chấp phát sinh từ
vi phạm HĐMBHHQT, với tính chất ngày càng đa dạng và phức tạp hơn.
Đứng trước thực tiễn các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn khá non trẻ trước
những rủi ro và thách thức của sân chơi quốc tế, việc nắm rõ các quy định về chế tài

khi vi phạm HĐMBHQT của luật pháp trong nước và luật pháp quốc tế góp phần
rất quan trọng vào việc bảo vệ lợi ích của chính các doanh nghiệp.
Trong khi luật pháp Việt Nam còn nhiều điểm hạn chế thì trong các nguồn luật
về thương mại quốc tế, Công ước Viên 1980 của Liên Hợp Quốc về HĐMBHHQT
(CISG) tỏ ra có nhiều ưu thế vượt trội. Với số thành viên đạt con số 79 vào ngày
06/3/2013, CISG là một trong những công ước được áp dụng rộng rãi nhất, ước tính
điều chỉnh các giao dịch chiếm đến ¾ thương mại hàng hóa thế giới. Điều đáng nói
là các quy định của CISG, đặc biệt là các quy định về chế tài vi phạm
HĐMBHHQT, rất cụ thể, chi tiết, tiến bộ, thể hiện sự hài hòa hóa các hệ thống pháp
luật trên thế giới. Vì vậy, việc tìm hiểu về lí thuyết cũng như cách áp dụng các quy
định đó trong thực tiễn là việc làm rất cần thiết không chỉ cho bản thân các doanh
nghiệp, mà còn mang lại ý nghĩa thực tiễn đối với hệ thống pháp luật Việt Nam và
các cơ quan giải quyết tranh chấp trong nước.
Ý thức được sự cần thiết này, người viết đã quyết định nghiên cứu đề tài “Áp
dụng Công ước Viên 1980 về chế tài khi vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam”.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Thứ nhất, tìm hiểu các quy định về chế tài khi vi phạm HĐMBHQT theo CISG
về mặt lý thuyết cũng như việc áp dụng các quy định đó trong thực tiễn giải quyết
tranh chấp. Thông qua đó đúc kết bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Thứ hai, trên cơ sở đánh giá các điều kiện đảm bảo triển khai vận dụng các bài
7
học kinh nghiệm đã được đút kết cho Việt Nam hiện nay, đề tài sẽ đưa ra các giải
pháp cụ thể cho các cơ quan giải quyết tranh chấp, các nhà làm luật Việt nam và các
doanh nghiệp nhằm vận dụng một cách hiệu quả các bài học kinh nghiệm.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu: các quy định và thực tiễn áp dụng các quy định về chế
tài khi vi phạm HĐMBHQT theo CISG.
Phạm vi nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định
về chế tài khi vi phạm HĐMBHQT theo CISG tại 79 quốc gia thành viên của CISG,

tập trung vào một số nền kinh tế lớn như Hoa Kì, Trung Quốc, Pháp. Bên cạnh, đề
tài tiến hành đánh giá các điều kiện đảm bảo triển khai vận dụng bài học kinh
nghiệm tại Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để thực hiện đề tài, người viết đã sử dụng phương pháp so sánh, phân tích, tổng
hợp, suy luận, diễn giải. Bên cạnh, để làm rõ các vấn đề mang tính lý thuyết, khóa
luận còn sử dụng phương pháp nghiên cứu tình huống.
5. Kết cấu khóa luận
Ngoài mục lục, danh mục các từ viết tắt, lời mở đầu, danh mục tài liệu tham
khảo, khóa luận gồm ba chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và chế tài khi vi
phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo Công ước Viên 1980
Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định về chế tài khi vi phạm hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế theo Công ước Viên 1980
Chương 3: Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam và giải pháp triển khai vận
dụng kinh nghiệm áp dụng các quy định về chế tài khi vi phạm hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế theo Công ước Viên 1980
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong quá trình tìm hiểu và thực hiện khóa luận,
nhưng do nhiều hạn chế về kiến thức, tài liệu, kinh nghiệm thực tiễn cũng như thời
gian nghiên cứu thực hiện đề tài nên khóa luận không thể tránh khỏi những thiếu
sót. Do vậy, người viết mong nhận được những ý kiến đóng góp từ quý Thầy, Cô để
khóa luận được hoàn thiện và mang tính thực tiễn cao hơn. Nhân đây, người viết
cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến ThS. Lưu Thị Bích Hạnh, giảng viên đã
dành thời gian tận tình hướng dẫn người viết hoàn thiện khóa luận này. Đồng thời,
người viết cũng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình và bạn bè vì đã nhận xét,
8
góp ý và động viên người viết trong suốt thời gian thực hiện khóa luận.
Sinh viên thực hiện
Phạm Quang Vũ
9

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC
TẾ VÀ CHẾ TÀI KHI VI PHẠM HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
QUỐC TẾ THEO CÔNG ƯỚC VIÊN 1980
1.1. Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
1.1.1. Khái niệm
Theo Điều 1 Công ước La Haye năm 1964 về mua bán quốc tế những động
sản hữu hình thì “HĐMBHHQT là tất cả các hợp đồng mua bán trong đó các bên kí
kết có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau và hàng hóa được chuyển từ nước
này sang nước khác, hoặc là việc trao đổi ý chí kí kết hợp đồng giữa các bên ký kết
được lập ở những nước khác nhau” (Nguyễn Thị Mơ, 2009, tr. 125). Theo đó, để
xác định HĐMBHHQT, cần có ba tiêu chí để xác định như sau:
- Chủ thể kí kết có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau
- Đối tượng hợp đồng là hàng hóa phải được vận chuyển từ nước này sang nước khác
- Chào hàng và chấp nhận chào hàng có thể được lập ở các nước khác nhau.
Có thể thấy tiêu chí quan trọng nhất để xác định HĐMBHHQT là tiêu chí
trụ sở thương mại: người mua và người bán phải có trụ sở thương mại ở hai nước
khác nhau. Công ước không đề cập đến quốc tịch của hai bên mua bán nên có thể
kết luận rằng không nhất thiết người mua và người bán phải có quốc tịch khác nhau.
Theo Công ước Liên Hợp Quốc về HĐMBHHQT năm 1980 (CISG) thì
HĐMBHHQT là “hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có trụ sở thương mại
đặt tại các nước khác nhau” (Nguyễn Thị Mơ, 2009, tr. 126). Như vậy, cũng giống
như Công ước La Haye năm 1964, CISG cũng lấy tiêu chí trụ sở thương mại của
người mua và người bán làm tiêu chí quan trọng để xác định HĐMBHHQT. Đồng
thời, CISG cũng không đề cập đến quốc tịch của hai bên mua bán.
Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 không có định nghĩa về
HĐMBHHQT và đồng thời cũng không đưa ra tiêu chí để xác định tính quốc tế của
HĐMBHHQT mà chỉ quy định về mua bán hàng hóa quốc tế. Điều 27 Khoản 1 nêu
rõ “mua bán hàng hoá quốc tế được thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu, nhập
khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu”. Như vậy, để xem xét
tính quốc tế của HĐMBHHQT, Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 đã sử dụng

tiêu chí hàng hóa phải là động sản và phải được di chuyển qua biên giới Việt Nam,
biên giới một nước hay biên giới của khu chế xuất, khu vực hải quan,…
Từ những phân tích ở trên, ta có thể hiểu HĐMBHHQT là hợp đồng mua
10
bán hàng hóa có yếu tố quốc tế, được ký kết giữa thương nhân Việt Nam, các doanh
nghiệp Việt Nam với các thương nhân nước ngoài nhằm thực hiện việc xuất khẩu,
nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập hoặc chuyển khẩu hàng hóa.
(Nguyễn Thị Mơ, 2009, tr. 130)
1.1.2. Đặc điểm
HĐMBHHQT về cơ bản mang đầy đủ những đặc điểm của một hợp đồng
mua bán hàng hóa thông thường, cụ thể:
- Hợp đồng mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận trong đó một bên là người bán có
nghĩa vụ chuyển vào quyền sở hữu của bên kia, là người mua, một tài sản nhất định
gọi là hàng hóa, còn người mua có nghĩa vụ nhận hàng và trả một số tiền ngang
bằng trị giá của hàng. (Nguyễn Thị Mơ, 2009, tr. 124)
- Chủ thể của hợp đồng mua bán là bên bán và bên mua. Bên bán và bên mua có thể
là thể nhân, pháp nhân hoặc nhà nước tham gia vào hoạt động mua bán.
- Đối tượng của hợp đồng là hàng hóa theo quy định của pháp luật.
- Nội dung của hợp đồng là toàn bộ nghĩa vụ của các bên xoay quanh việc chuyển
giao quyền sở hữu hàng hóa từ bên bán sang bên mua.
- Xét về tính pháp lý thì HĐMBHHQT là hợp đồng song vụ, có ước hẹn và mang tính
bồi hoàn. Điều 406 Bộ Luật Dân sự Việt Nam năm 2005 định nghĩa: “Hợp đồng
song vụ là hợp đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ với nhau”. Theo đó, bên bán có
nghĩa vụ giao hàng và nghĩa vụ khác; bên mua có nhiệm vụ trả tiền hàng cùng các
nghĩa vụ khác. Hợp đồng mua bán hàng hóa có ước hẹn nghĩa là nếu không có quy
định gì khác về thời điểm hợp đồng có hiệu lực thì quyền và nghĩa vụ phát sinh vào
thời điểm kí kết hợp đồng. Ngoài ra, HĐMBHHQT còn mang tính bồi hoàn, nghĩa
là người bán có quyền đòi thanh toán khi đã giao hàng và người mua được nhận
hàng khi đã thanh toán tiền hàng.
Tuy nhiên, khác với hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước,

HĐMBHHQT còn mang tính chất quốc tế. Tính chất này thể hiện ở:
- Chủ thể của hợp đồng:
Có hai quan điểm để xác định chủ thể của HĐMBHHQT.
Quan điểm thứ nhất cho rằng chủ thể của hợp đồng phải có quốc tịch khác
nhau. Quan điểm này được thể hiện trong Luật Thương mại Việt Nam năm 1997 và
Điều kiện chung giao hàng SEV của các nước Xã hội chủ nghĩa. Có thể dễ dàng
nhận thấy quan điểm này chưa hợp lý trong bối cảnh hiện tại. Lấy ví dụ một công ty
Việt Nam kí hợp đồng bán giày da cho một thương nhân ở Nhật. Thương nhân này
11
có trụ sở đặt tại Nhật nhưng vẫn mang quốc tịch Việt Nam. Nếu theo quan điểm này
thì đây không phải là HĐMBHHQT vì yếu tố quốc tịch.
Theo quan điểm thứ hai, chủ thể của HĐMBHHQT là các bên có trụ sở
thương mại đặt tại các nước khác nhau, nếu các bên không có trụ sở thương mại thì
sẽ căn cứ vào nơi cư trú. Vậy theo quan điểm này thì hợp đồng trong ví dụ trên là
HĐMBHHQT. Quan điểm này tiến bộ và hoàn thiện hơn trong thực tiễn thương mại
quốc tế hiện nay và được quy định trong Công ước La Haye năm 1964 về mua bán
quốc tế những động sản hữu hình và Công ước Viên 1980.
- Đối tượng của hợp đồng là hàng hóa được di chuyển qua biên giới của một nước,
biên giới khu chế xuất,…
- Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng có thể là ngoại tệ. Tuy nhiên, cũng có trường
hợp đồng tiền thanh toán là nội tệ với cả hai bên như trường hợp các doanh nghiệp
thuộc các quốc gia trong Cộng đồng châu Âu sử dụng euro làm đồng tiền chung.
- Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mang tính đa dạng và phức tạp, nghĩa là
HĐMBHHQT không chỉ chịu sự điều chỉnh của luật pháp nước đó mà cả của luật
nước ngoài; hơn nữa, các điều ước quốc tế, tập quán thương mại và án lệ đều có thể
góp phần điều chỉnh HĐMBHHQT.
- Cơ quan giải quyết tranh chấp có thể là tòa án hoặc tổ chức trọng tài có thẩm quyền
xét xử.
1.1.3. Nguồn luật điều chỉnh
Hợp đồng là một cơ sở pháp lý quan trọng để xác định quyền, nghĩa vụ và

trách nhiệm của người bán và người mua. Tuy nhiên, dù hoàn thiện tới đâu, bản
thân hợp đồng cũng không thể dự kiến tất cả các tình huống và tranh chấp phát sinh
trong thực tế. Khi đó, các bên phải dựa vào luật điều chỉnh hợp đồng mà các bên có
quyền tự do thỏa thuận để giải quyết tranh chấp phát sinh. Nguồn luật áp dụng cho
hợp đồng bao gồm điều ước quốc tế về thương mại, tập quán thương mại quốc tế,
luật quốc gia và án lệ.
1.1.3.1. Điều ước quốc tế về thương mại
Điều ước quốc tế về thương mại là thỏa thuận bằng văn bản giữa hai hoặc
nhiều quốc gia ký kết phù hợp với những nguyên tắc cơ ản của Luật quốc tế, nhằm
ấn định, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ
thương mại quốc tế. (Trần Thị Hòa Bình và TS. Trần Văn Nam, 2006)
Có hai loại điều ước điều ước quốc tế về thương mại. Loại thứ nhất đề ra
những nguyên tắc pháp lý chung làm cơ sở cho hoạt động thương mại nói chung và
mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng. Những điều ước này tạo ra một khuôn khổ
12
pháp luật chặt chẽ cho việc buôn bán hàng hóa giữa các quốc gia, những chế độ ưu
đãi dành cho nhau chứ không trực tiếp điều chỉnh quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm
cụ thể của từng bên trong HĐMBHHQT. Loại điều ước này có thể là điều ước song
phương như Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, Hiệp định Buôn bán hàng
dệt may Việt Nam - EU hay điều ước đa phương như Hiệp định chung về thương
mai dịch vụ GATS, Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT. Loại điều
ước thứ hai điều chỉnh trực tiếp quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên
trong HĐMBHHQT. Ví dụ như Công ước của Liên Hợp Quốc về HĐMBHHQT
được ký ngày 11/4/1980 tại Viên, Áo (gọi vắn tắt là Công ước Viên 1980) và Công
ước La Haye về luật áp dụng đối với HĐMBHHQT ký ngày 15/6/1955.
Những điều ước quốc tế về thương mại có giá trị bắt buộc đối với các quốc
gia tham gia ký kết, nghĩa là dù trong hợp đồng có dẫn chiếu tới luật áp dụng hay
không thì các điều ước quốc tế vẫn đương nhiên được áp dụng. Ví dụ, Công ước
Viên 1980 đương nhiên là nguồn luật điều chỉnh HĐMBHHQT được ký kết giữa
hai thương nhân của hai nước đã tham gia Công ước này. Nếu quốc gia chưa tham

gia ký kết điều ước quốc tế thì điều ước quốc tế vẫn có thể được áp dụng nếu các
bên thoả thuận dẫn chiếu vào hợp đồng.
Khi áp dụng điều ước quốc tế về thương mại, cần phải chú trọng đến tính
pháp lý của các loại quy phạm trong điều ước. Nếu quy phạm có tính mệnh lệnh thì
các bên trong hợp đồng phải tuyệt đối chấp hành. Nếu quy phạm có tính tùy ý thì
các bên có thể tuân theo hoặc không tuân theo và thỏa thuận khác đi. Nếu trong điều
ước quốc tế về thương mại có các quy định khác với luật Việt Nam thì theo Điều 5
khoản 1 của Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 và Điều 759 khoản 2 của Bộ
Luật Dân sự Việt Nam năm 2005, có hai cách giải quyết:
- Tuân theo những quy định trong điều ước quốc tế mà Nhà nước ta đã tham gia ký
kết và phê chuẩn.
- Bảo lưu, không áp dụng đối với những điều ước mà Nhà nước ta chưa tham gia và
công nhận; nghĩa là chỉ áp dụng những chương, mục, điểu khoản không trái với luật
Việt Nam và không áp dụng những chương, mục, điều khoản trái với luật Việt
Nam.
Những quy phạm pháp luật của điều ước quốc tế đã được các quốc gia
thống nhất. Vì thế các bên trong hợp đồng dù ở hai nước khác nhau nhưng vẫn sẽ
hiểu một cách thống nhất trong việc giải quyết các tranh chấp, tiết kiệm được thời
13
gian. Cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa ký kết nhiều điều ước quốc tế về thương mại
nên với ý nghĩa là nguồn luật điều chỉnh hợp đồng thì điều ước quốc tế về thương
mại vẫn chưa thực sự phát huy được vai trò của nó. (Nguyễn Thị Mơ, 2009, tr. 136)
1.1.3.2. Luật quốc gia
Luật quốc gia có thể là luật nước ngoài đối với ít nhất một trong hai bên
trong hợp đồng. Việc lựa chọn luật của nước nào là do hai bên tự thỏa thuận. Điều
tất yếu là các bên thường lựa chọn luật quốc gia nào mà mình nắm rõ, thường là luật
nước mình, từ đó khó có thể ký kết hợp đồng một cách nhanh chóng vì cả hai bên
đều muốn giành phần lợi về phía mình. Một cách giải quyết là chọn luật của nước
thứ ba. Luật quốc gia của một nước sẽ được áp dụng trong các trường hợp:
- Ngay từ đầu, trước khi ký hợp đồng, các bên thỏa thuận và đưa vấn đề luật áp dụng

vào một điều khoản trong hợp đồng, chẳng hạn được quy định như sau: “Mọi vấn
đề không được quy định hoặc quy định không đầy đủ trong hợp đồng này sẽ được
áp dụng theo luật của Anh”.
- Trường hợp trong HĐMBHHQT đã được ký nhưng không có điều khoản luật áp
dụng do một số lý do khách quan hoặc chủ quan như các bên muốn ký kết hợp đồng
nhanh gọn để đẩy hàng đi tiêu thụ càng sớm càng tốt mà bỏ qua điều khoản này.
Khi có tranh chấp xảy ra, các bên có thể đàm phán và thỏa thuận luật quốc gia của
một nước để áp dụng.
- Khi luật quốc gia được quy định là luật áp dụng cho HĐMBHHQT trong các điều
ước quốc tế mà quốc gia của thương nhân hai nước có tham gia ký kết hoặc gia
nhập.
- Khi luật đó được tòa án hoặc trọng tài lựa chọn nếu các bên không có thỏa thuận về
luật áp dụng trong hợp đồng.
1.1.3.3. Tập quán thương mại quốc tế
Theo Điều 3 Khoản 4 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 thì “tập quán
thương mại là thói quen được thừa nhận rộng rãi trong hoạt động thương mại trên
một vùng, miền hoặc một lĩnh vực thương mại, có nội dung rõ ràng được các bên
thừa nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại”.
Tập quán thương mại quốc tế được chia làm ba nhóm:
- Tập quán có tính nguyên tắc là những tập quán cơ bản, bao trùm, được hình thành
và áp dụng trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế và luật quốc gia như
tôn trọng chủ quyền quốc gia, nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc và bình đẳng
trong thương hmại. Ví dụ như tòa án hoặc trọng tài nước nào thì áp dụng quy tắc tố
tụng của nước đó khi giải quyết các tranh chấp trong HĐMBHHQT.
14
- Tập quán thương mại quốc tế chung là tập quán thương mại được nhiều nước công
nhận và áp dụng nhiều nơi, nhiều khu vực. Chẳng hạn như các điều kiện giao hàng
được tập hợp và soạn thảo trong Incoterms hay các quy tắc thực hành thống nhất về
tín dụng chứng từ UCP 600.
- Tập quán thương mại khu vực là những tập quán thương mại được áp dụng tại một

số khu vực nhất định như từng quốc gia, từng khu vực, từng cảng, Ví dụ, điều kiện
cơ sở giao hàng FOB tại Hoa Kỳ có tới 6 loại mà trong đó quyền và nghĩa vụ của
bên bán và bên mua rất khác biệt so với điều kiện FOB trong Incoterms 2000.
Các tập quán thương mại quốc tế được áp dụng trong các trường hợp sau:
- Các bên có thỏa thuận trong hợp đồng.
- Các điều ước quốc tế liên quan có quy định.
- Luật quốc gia các bên lựa chọn, không có hoặc quy định không đầy đủ về các vấn
đề tranh chấp.
Về mặt giá trị pháp lý, các tập quán thương mại quốc tế không có giá trị cao
hơn những gì hợp đồng quy định. Chúng chỉ bổ sung cho hợp đồng những phần hợp
đồng chưa quy định.
1.1.3.4. Án lệ về thương mại
Án lệ về thương mại là tập hợp các bản án được hình thành từ thực tiễn xét
xử tại tòa án. Án lệ được sử dụng để giải quyết các tranh chấp tương tự tại các nước
theo hệ thống pháp luật Anh-Mỹ.
1.1.4. Điều kiện hiệu lực
1.1.4.1. Chủ thể của HĐMBHHQT phải hợp pháp
Chủ thể của HĐMBHHQT có thể là tự nhiên nhân hoặc pháp nhân. Tự
nhiên nhân hoặc pháp nhân phải có năng lực hành vi và năng lực pháp luật. “Năng
lực pháp luật và năng lực hành vi là những thuộc tính pháp lý của chủ thể pháp luật,
là đặc trưng không thể thiếu được của chủ thể tư pháp quốc tế”. (Nguyễn Bá Diến,
2001)
“Năng lực hành vi của một người là khả năng của người đó bằng chính
hành vi của mình tạo ra cho mình các quyền, các nghĩa vụ được pháp luật bảo hộ và
khả năng của người đó thực hiện các quyền và gánh vác các nghĩa vụ do pháp luật
quy định” (Nguyễn Bá Diến, 2001). Theo quy định của Hiến pháp Việt Nam năm
1992 và Điều 18 và Điều 19 Bộ Luật Dân sự Việt Nam năm 2005 quy định “người
có năng lực hành vi là người thành niên, tức là người từ đủ 18 tuổi trở lên”.
Năng lực pháp luật của một người là khả năng người đó có được các quyền
và nghĩa vụ theo pháp luật quy định. Theo Điều 761 Khoản 2 Bộ Luật Dân sự Việt

15
Nam năm 2005 thì “người nước ngoài có năng lực pháp luật dân sự tại Việt Nam
như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam có quy định khác”.
Chủ thể của HĐMBHHQT đóng vai trò rất quan trọng vì không ít trường
hợp có tranh chấp xảy ra, cơ quan giải quyết tranh chấp ra phán quyết hợp đồng vô
hiệu vì chủ thể không đủ tư cách pháp lý. Vì vậy cần nên xem xét tư cách chủ thể
bên nước ngoài trước khi quyết định ký kết hợp đồng.
Nếu chủ thể tham gia ký kết hợp đồng là thể nhân thì các bên trong hợp
đồng cần xác định tư cách chủ thể theo Luật Quốc tịch hoặc Luật nơi cư trú của thể
nhân nước ngoài đó vì pháp luật của các nước khác nhau thì quy định khác nhau về
năng lực chủ thể tham gia ký kết hợp đồng. Theo Bộ Luật Dân sự Việt Nam năm
2005 thì “năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là người nước ngoài được xác định
theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch” (LTMVN 2005, Điều 761
Khoản 1) và “năng lực hành vi dân sự của cá nhân là người nước ngoài được xác
định theo pháp luật của nước mà người đó là công dân, trừ trường hợp pháp luật
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quy định khác” (LTMVN 2005, Điều 762
Khoản 1). Điều 762 còn quy định thêm “trong trường hợp người nước ngoài xác
lập, thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam thì năng lực hành vi dân sự của
người nước ngoài được xác định theo pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”.
Nếu chủ thể tham gia ký kết hợp đồng là pháp nhân nước ngoài thì “năng
lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài được xác định theo pháp luật của
nước nơi pháp nhân đó được thành lập”, trừ “trường hợp pháp nhân nước ngoài xác
lập, thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam thì năng lực pháp luật dân sự của
pháp nhân được xác định theo pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”
(BLDS 2005, Điều 765). Một tổ chức được thừa nhận là pháp nhân khi có đủ 4 điều
kiện sau đây:
- Được thành lập hợp pháp;
- Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;

- Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó;
- Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Về phía chủ thể bên Việt Nam, pháp luật nước ta quy định chủ thể phải là
thương nhân được phép hoạt động thương mại trực tiếp với nước ngoài. Theo Luật
Thương mại Việt Nam năm 2005 thì “thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được
16
thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên
và có đăng ký kinh doanh”.
1.1.4.2. Hình thức HĐMBHHQT phải hợp pháp
Có hai quan điểm về hình thức HĐMBHHQT. Quan điểm thứ nhất do các
nước phương Tây có nền kinh tế thị trường phát triển nêu ra, cho rằng hình thức
HĐMBHHQT có thể được ký kết bằng bất cứ hình thức nào mà các bên thỏa thuận.
Trong khi đó, các nước đang phát triển như Việt Nam quy định rằng “mua bán hàng
hoá quốc tế phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng hình
thức khác có giá trị pháp lý tương đương”. “Các hình thức có giá trị tương đương
văn bản bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo
quy định của pháp luật” (Luật Thương mại Việt Nam năm 2005).
CISG công nhận cả hai quan điểm trên về hình thức hợp đồng. Điều 11 của
Công ước quy định: “Hợp đồng mua bán không cần phải được ký kết hoặc xác nhận
bằng văn bản hay phải tuân thủ một yêu cầu nào khác về hình thức của hợp đồng.
Hợp đồng có thể được chứng minh bằng mọi cách, kể cả những lời khai của nhân
chứng”. Tuy nhiên, Điều 12 và Điều 96 thì lại cho phép các quốc gia có luật pháp
quy định hình thức văn bản là bắt buộc đối với HĐMBHHQT thì được phép không
áp dụng Điều 11.
1.1.4.3. Nội dung HĐMBHHQT phải hợp pháp
Nội dung của HĐMBHHQT không được trái với quy định của pháp luật.
Để nội dung của hợp đồng hợp pháp thì hợp đồng phải có một số điều khoản chủ
yếu. Tùy theo luật pháp mỗi quốc gia mà các điều khoản chủ yếu của hợp đồng
được quy định khác nhau. Theo Luật của Pháp, hợp đồng cần phải có hai điều
khoản chủ yếu là đối tượng và giá cả. Luật của Anh thì quy định chỉ cần đối tượng

và phải ghi rõ tên hàng, số lượng và phẩm chất hàng (Nguyễn Thị Mơ, 2009, tr.
155). Đối với Việt Nam, Bộ Luật Dân sự Việt Nam năm 2005 chỉ đưa ra các điều
khoản tham khảo để đưa vào hợp đồng trong khi Luật Thương Mại Việt Nam năm
2005 không quy định gì về các điều khoản chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng
hóa. Ngoài ra, Điều 19 Khoản 3 của Công ước Viên 1980 có quy định 7 điều khoản
chủ yếu gồm: giá cả, thanh toán, phẩm chất, số lượng, địa điểm, thời hạn giao hàng,
phạm vi trách nhiệm của các bên.
Ngoài những điều khoản chủ yếu, khi ký kết hợp đồng, các bên có thể thỏa
thuận đưa ra một số điều khoản khác như các điều khoản về bao bì, ký mã hiệu, các
17
trường hợp miễn trách, giải quyết tranh chấp,…Tất cả các điều khoản cấu thành nên
hợp đồng phải phù hợp với luật pháp Việt Nam. Tại Điều 122 Bộ Luật Dân sự Việt
Nam năm 2005 có quy định nội dung của hợp đồng không được “vi phạm điều cấm
của pháp luật, không trái đạo đức xã hội”.
1.1.4.4. Đối tượng – hàng hóa mua bán theo HĐMBHHQT phải hợp pháp
Hàng hóa của hợp đồng phải là hàng hóa được phép lưu thông mua bán,
không bị pháp luật của nước bên mua và bên bán cấm. Tại Việt Nam, các doanh
nghiệp không được phép mua bán những mặt hàng cấm xuất khẩu hay cấm nhập
khẩu. Danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu của Việt Nam được ban
hành kèm theo Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày 23/01/2006 của Chính phủ.
Ngoài ra, cần lưu ý các hàng hóa thuộc diện chịu quản lý bằng hạn ngạch, danh mục
hàng hóa xuất nhập khẩu theo giấy phép của Bộ Công Thương,…
1.2. Khái quát chung về chế tài khi vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
1.2.1. Khái niệm vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Theo Điều 3 Khoản 12 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 thì “vi phạm
hợp đồng là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật
này”.
Vi phạm hợp đồng được chia làm hai loại: vi phạm cơ bản và vi phạm
không cơ bản.

Vi phạm cơ bản (fundamental breach), theo quy định tại Điều 3 Khoản 13
Luật Thương mại Việt Nam năm 2005, là “sự vi phạm hợp đồng của một bên gây
thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc
giao kết hợp đồng”. Vi phạm cơ bản cũng được quy định tại Điều 25 Công ước
Viên 1980, theo đó “một sự vi phạm hợp đồng do một bên gây ra là vi phạm cơ bản
nếu sự vi phạm đó làm cho bên kia bị thiệt hại mà người bị thiệt hại, trong một
chừng mực đáng kể bị mất cái mà họ có quyền chờ đợi trên cơ sở hợp đồng, trừ phi
bên vi phạm không tiên liệu được hậu quả đó và một người có lý trí minh mẫn cũng
sẽ không tiên liệu được nếu họ cũng ở vào hoàn cảnh tương tự”. Chẳng hạn, hàng
hóa được giao không phù hợp với hợp đồng làm cho người mua không đạt được
một mục đích cụ thể như đã thỏa thuận trong hợp đồng.
Ngoài những vi phạm cơ bản, những trường hợp còn lại là vi phạm không
cơ bản (non-fundamental breach). Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 và Công
ước Viên 1980 không có định nghĩa về vi phạm không cơ bản; tuy nhiên, Điều 293
18
Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 có đưa ra chế tài đối với loại vi phạm này.
Trên cơ sở khái niệm vi phạm cơ bản được đề cập phía trên, có thể hiểu vi phạm
không cơ bản là những vi phạm do một bên gây ra làm thiệt hại cho bên kia mà bên
bị thiệt hại, trong một chừng mực đáng kể chưa bị mất đi cái mà họ có quyền chờ
đợi trên cơ sở hợp đồng.
Ngoài ra, khi xét đến vi phạm hợp đồng, còn một vấn đề cần đề cập, đó là
vi phạm trước thời hạn (anticipatory breach). Loại vi phạm này chưa được quy định
trong pháp luật Việt Nam nhưng được đề cập trong CISG. Điều 71 Khoản 1 có quy
định một bên có thể ngừng việc thực hiện nghĩa vụ của mình nếu có dấu hiệu cho
thấy rằng sau khi hợp đồng được ký kết, bên kia sẽ không thực hiện một phần chủ
yếu những nghĩa vụ của họ bởi một sự khiếm khuyết nghiêm trọng trong khả năng
thực hiện hay trong khi thực hiện hợp đồng hay cung cách sử dụng của bên kia
trong việc chuẩn bị thực hiện hay trong khi thực hiện hợp đồng. Vi phạm trước thời
hạn có thể là vi phạm cơ bản hay không cơ bản.
Trong thực tế, việc xác định một vi phạm là vi phạm cơ bản hay không cơ

bản rất phức tạp nhưng đóng vai trò cực kì quan trọng vì nó sẽ giúp việc áp dụng
chế tài nào cho phù hợp.
1.2.2. Khái niệm, hình thức, vai trò của chế tài khi vi phạm hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế
1.2.2.1. Khái niệm chế tài khi vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Chế tài là một trong ba bộ phận cấu thành của quy phạm pháp luật (giả
định, quy định, chế tài), nêu lên các hình thức trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể
để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh.
Chế tài khi vi phạm HĐMBHHQT là các hình thức trách nhiệm pháp lý đối
với bên vi phạm HĐMBHHQT. Nói cách khác, đây là một hậu quả bất lợi về mặt
chất mà bên vi phạm phải gánh chịu do không thực hiện được hay thực hiện không
tốt nghĩa vụ của mình.
1.2.2.2. Các hình thức chế tài khi vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Các nguồn luật khác nhau quy định khác nhau về các hình thức chế tài khi
vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Đối với luật của các nước châu Âu lục địa, phạt vi phạm và bồi thường thiệt
hại là hai hình thức chế tài chủ yếu do vi phạm hợp đồng hay HĐMBHHQT. Bồi
thường thiệt hại chỉ áp dụng với những tình huống nghiêm trọng.
Trong khi đó, luật Anh-Mỹ thì lại xem bồi thường thiệt hại là hình thức chế
19
tài chủ yếu.
Đối với Công ước Viên 1980, có ba hình thức chế tài có thể được áp dụng
là: buộc thực hiện đúng hợp đồng, bồi thường thiệt hại và hủy bỏ hợp đồng.
Ở Việt Nam, Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 Điều 292 có quy định các hình
thức chế tài trong thương mại bao gồm:
- Buộc thực hiện đúng hợp đồng
- Phạt vi phạm
- Buộc bồi thường thiệt hại
- Tạm ngừng thực hiện hợp đồng
- Đình chỉ thực hiện hợp đồng

- Hủy bỏ hợp đồng
- Các biện pháp khác do các bên thỏa thuận không trái với nguyên tắc cơ bản của
pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc tế.
1.2.2.3. Vai trò của chế tài khi vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Trong thương mại quốc tế, chế tài vi phạm khi vi phạm hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế là loại trách nhiệm pháp lý mang tính tài sản, có tác dụng buộc
chủ thể có hành vi vi phạm chịu các hậu quả bất lợi về tài sản. Ví dụ theo CISG,
bên vi phạm phải dùng tiền hay tài sản để thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại vì
đã không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng. Trường hợp sử dụng chế tài buộc
thực hiện đúng hợp đồng, bên có hành vi vi phạm phải trực tiếp thực hiện nghĩa vụ
hợp đồng và có những chi phí hợp lý cần thiết (chi phí sửa chữa. thay tế hàng hóa,
…) để thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Đối với chế tài hủy hợp đồng, việc áp dụng
loại chế tài này cũng ảnh hưởng ít nhiều đến lợi ích hạch toán của bên vi phạm. Chế
tài khi vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế giúp bên bị vi phạm thụ hưởng
trọn vẹn sự đền bù mà bên có hành vi vi phạm thực hiện.
Khi có hành vi vi phạm hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền chọn áp dụng
các chế tài theo luật áp dụng hay theo điều khoản trong hợp đồng đã ký kết. Bên vi
phạm không phải chịu trách nhiệm hợp đồng nếu không có lỗi và không phải bồi
thường quá mức thiệt hại hoặc toàn bộ thiệt hại mà bên vi phạm đã thực hiện các
biện pháp hạn chế tổn thất trong khả năng của mình.
1.3. Công ước Viên 1980 và chế tài áp dụng khi vi phạm hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế
1.3.1. Vai trò của Công ước Viên 1980 trong thương mại quốc tế
Với mục đích nhằm thống nhất nguồn luật áp dụng cho HĐMBHHQT, Ủy
ban của Liên Hợp Quốc về Luật thương mại quốc tế (UNCITRAL) đã tiến hành
20
soạn thảo Công ước Viên 1980 của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế (gọi tắt là Công ước Viên 1980) và được thông qua vào ngày 11 tháng 4
năm 1980. Đến ngày 01 tháng 01 năm 1988, Công ước Viên 1980 có hiệu lực do có

đủ 10 quốc gia phê chuẩn (theo Điều 99 Công ước).
Công ước Viên 1980 đóng vai trò rất to lớn trong thương mại quốc tế. Cho
đến nay, Công ước Viên 1980 đã có tổng cộng 79 quốc gia thành viên
(UNCITRAL, 2013), điều chỉnh các giao dịch chiếm đến ¾ thương mại hàng hóa
thế giới. Trong danh sách các quốc gia thành viên của Công ước Viên 1980, có sự
góp mặt của các quốc gia thuộc các hệ thống pháp luật khác nhau, các quốc gia phát
triển cũng như các quốc gia đang phát triển, các quốc gia tư bản chủ nghĩa cũng như
các quốc gia theo đường lối xã hội chủ nghĩa nằm trên mọi châu lục. Hầu hết các
cường quốc về kinh tế trên thế giới (Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Canada, Australia, Nhật
Bản…) đều đã tham gia Công ước Viên 1980.
Sự thành công của Công ước Viên 1980 được khẳng định trong thực tiễn
với hơn 2500 vụ tranh chấp đã được tòa án và trọng tài các nước, trọng tài quốc tế
giải quyết có liên quan đến việc áp dụng và diễn giải Công ước Viên 1980 được báo
cáo. Điểm cần nhấn mạnh là 2500 vụ việc này không chỉ phát sinh tại các quốc gia
thành viên. Tại các quốc gia chưa phải là thành viên, Công ước vẫn được áp dụng,
hoặc do các bên trong hợp đồng lựa chọn Công ước Viên 1980 như là luật áp dụng
cho hợp đồng, hoặc do các tòa án, trọng tài dẫn chiếu đến để giải quyết tranh chấp.
Nhiều doanh nhân tại các quốc gia chưa phải là thành viên CISG đã tự nguyện áp
dụng CISG cho các giao dịch thương mại quốc tế của mình, bởi vì họ thấy được
những ưu việt của CISG so với luật quốc gia.
Vai trò của CISG còn thể hiện ở chỗ CISG là nguồn tham khảo quan trọng
của Bộ nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế (PICC) và Các
nguyên tắc của Luật Hợp đồng Châu Âu (PECL). Trên cơ sở nền tảng của CISG,
các nguyên tắc này đã trở thành các văn bản thống nhất luật quan trọng về hợp
đồng, được nhiều quốc gia và doanh nhân tham khảo và sử dụng trong các giao dịch
thương mại quốc tế. (Trung tâm WTO thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam, 2010)
1.3.2. Chế tài áp dụng của Công ước Viên 1980 khi vi phạm hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế
Các hình thức chế tài khi vi phạm HĐMBHHQT theo CISG bao gồm buộc

21
thực hiện đúng hợp đồng, đòi bồi thường thiệt hại và hủy hợp đồng.
1.3.2.1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng
Khi một bên có hành vi vi phạm hợp đồng gây ra thiệt hại về tài sản cho
bên kia thì việc áp dụng các hình thức chế tài như phạt hay bồi thường thiệt hại là
đương nhiên. Tuy nhiên, không phải lúc nào việc phạt hay bồi thường thiệt hại cũng
làm thỏa mãn bên bị vi phạm bởi vì có những tổn thất gây ra mà số tiền bồi thường
không bù đắp nổi những tổn thất như uy tín kinh doanh, các cam kết với bạn hàng
khác,… hay các bên còn muốn giữ thiện chí với nhau. Vì thế, trong các trường hợp
đó, người ta sử dụng hình thức chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng. Buộc thực
hiện đúng hợp đồng là việc mà bên có quyền lợi bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm
thực hiện đúng các nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc áp dụng các biện pháp khác để hợp
đồng được thực hiện. Chế tài này hướng đến mục đích cuối cùng của mỗi hợp đồng
là người mua có được hàng còn người bán sẽ nhận được tiền hàng từ phía người
mua.
• Người bán vi phạm nghĩa vụ
Trong trường hợp người bán giao hàng không phù hợp với hợp đồng, theo
Điều 46 CISG, người mua có thể đòi người bán phải thực hiện một trong hai biện
pháp: sửa chữa hoặc thay thế hàng hóa. Biện pháp thay thế hàng hóa chỉ được áp
dụng khi: việc hàng hóa không phù hợp với hợp đồng cấu thành vi phạm cơ bản và
yêu cầu thay thế hàng hóa phải được tiến hành hoặc cùng lúc với thông báo hàng
không phù hợp hoặc trong một thời hạn hợp lý sau đó. Trong trường hợp hàng
không phù hợp với hợp đồng nhưng không cấu thành vi phạm cơ bản, người mua
chỉ có thể sử dụng biện pháp sửa chữa hay nói cách khác là loại trừ sự không phù
hợp của hàng hóa.
Trong những trường hợp khác (như người bán giao hàng thiếu hay giao
hàng chậm) thì người mua có thể cho người bán thêm một thời hạn bổ sung hợp lý
để người bán thực hiện nghĩa vụ. (CISG, Điều 47)
Người bán có quyền khắc phục bất kì thiếu sót nào trong việc thực hiện
nghĩa vụ của mình với phí tổn do người bán chịu, ngay cả khi hết thời hạn giao

hàng, miễn là điều này không gây ra cho người mua bất kì trở ngại hay phí tổn bất
hợp lý nào. (CISG, Điều 48)
• Người mua vi phạm nghĩa vụ
Theo Điều 62 và Điều 63 CISG, người bán có thể yêu cầu người mua trả
tiền, nhận hàng hay thực hiện các nghĩa vụ khác của người mua và có thể chấp nhận
22
cho người mua một thời hạn bổ sung hợp lý để thực hiện nghĩa vụ của mình.
1.3.2.2. Bồi thường thiệt hại
Bồi thường thiệt hại là hình thức trách nhiệm đối với một bên do không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của bên đó trong HĐMBHHQT.
Về phạm vi thiệt hại được đền bù, CISG quy định các thiệt hại do một bên
gây ra bao gồm tổn thất và các khoản lợi bị bỏ lỡ mà bên kia đã phải chịu do hậu
quả của sự vi phạm hợp đồng (CISG, Điều 74). CISG không có quy định cụ thể về
loại thiệt hại phi tiền tệ bắt nguồn đặc biệt từ nỗi đau thể chất hoặc tinh thần trong
đó có thiệt hại do mất uy tín kinh doanh. Đồng thời, tại Điều 5 còn quy định loại trừ
việc áp dụng Công ước cho những thiệt hại do người chết hoặc bị thương.
Về tính chất của thiệt hại được bồi thường, CISG nhấn mạnh rằng thiệt hại
phải là những tổn thất mà bên vi phạm hợp đồng đã dự đoán được hoặc buộc phải
dự đoán trước được trong thời điểm ký kết hợp đồng như là hậu quả có thể xảy ra
đối với vi phạm hợp đồng đó.
Về mức bồi thường tối đa, CISG quy định khoản tiền bồi thường bằng tổn
thất và số lợi bỏ lỡ mà bên bị vi phạm đã dự liệu hoặc đáng lẽ phải dự liệu được vào
lúc ký kết hợp đồng.
Về giá trị tính toán của các khoản bồi thường thiệt hại, Điều 75 đưa ra cách
tính toán thiệt hại trong trường hợp hợp đồng bị hủy và bên bị vi phạm đã ký một
hợp đồng thay thế, nghĩa là người mua đã mua hàng thay thế hoặc người bán đã bán
hàng lại hàng. Theo đó, bên đòi bồi thường thiệt hại có thể đòi nhận phần chênh
lệch giữa giá hợp đồng ban đầu và giá hợp đồng thay thế cũng như mọi khoản tiền
bồi thường thiệt hại khác có thể đòi được. Còn Điều 76 đưa ra cách tính toán thiệt
hại trong trường hợp hợp đồng bị hủy và bên đòi bồi thường không ký kết hợp đồng

thay thế. Theo đó, bên đòi bồi thường thiệt hại có thể đòi nhận phần chênh lệch giữa
giá ấn định trong hợp đồng và giá hiện hành lúc hủy hợp đồng, cùng mọi khoản tiền
bồi thường thiệt hại khác có thể đòi được. Tuy vậy, nếu bên đòi bồi thường thiệt hại
đã tuyên bố hủy hợp đồng sau khi đã tiếp nhận hàng hóa, thì giá hiện hành vào lúc
tiếp nhận hàng hóa được áp dụng và không phải là giá hiện hành vào lúc hủy hợp
đồng.
Về việc hạn chế tổn thất, Điều 77 có quy định bên nào viện dẫn sự vi phạm
hợp đồng của bên kia thì phải áp dụng những biện pháp hợp lý căn cứ vào các tình
huống cụ thể để hạn chế tổn thất kể cả khoản lợi bị bỏ lỡ do sự vi phạm hợp đồng
gây ra. Nếu họ không làm điều đó, bên vi phạm hợp đồng có thể yêu cầu giảm bớt
23
một khoản tiền bồi thường thiệt hại bằng với mức tổn thất đáng lẽ đã có thể hạn chế
được.
Về điều khoản tiền lãi, nếu một bên chậm thanh toán tiền hàng hay mọi
khoản tiền thiếu khác, bên kia có quyền đòi tiền lãi trên số tiền chậm trả đó mà
không ảnh hưởng đến quyền đòi bồi thường thiệt hại mà họ có quyền đòi hỏi chiếu
theo Điều 74 (CISG, Điều 78). (Nguyễn Thị Hồng Trinh, 2009)
1.3.2.3. Hủy hợp đồng
Hủy hợp đồng là chế tài được áp dụng khi bên bị vi phạm không còn mong
chờ tiếp tục thực hiện hợp đồng. Theo Điều 49 Khoản 1, Điều 64 Khoản 1, Điều 72
và Điều 73 CISG, chế tài hủy hợp đồng được áp dụng trong các trường hợp:
- Có vi phạm cơ bản hợp đồng xảy ra
Một bên không thực hiện một nghĩa vụ cấu thành một vi phạm cơ bản đến
hợp đồng. Nếu hợp đồng quy định giao hàng từng phần và có vi phạm cơ bản xảy ra
đối với một lô hàng hàng cấu thành một sự vi phạm cơ bản đến hợp đồng về lô hàng
đó thì bên kia có thể tuyên bố hủy hợp đồng về phần lô hàng đó.
- Có vi phạm trước là vi phạm cơ bản
Nếu trước ngày quy định cho việc thi hành hợp đồng, mà thấy hiển nhiên
rằng một bên sẽ gây ra một vi phạm cơ bản đến hợp đồng, bên kia có thể tuyên bố
hợp đồng bị hủy.

Nếu hợp đồng quy định giao hàng từng phần và sự kiện một bên không
thực hiện nghĩa vụ có liên quan đến bất kì lô hàng nào khiến bên kia có lý do xác
đáng để tin rằng có một sự vi phạm cơ bản đến hợp đồng đối với các lô hàng trong
tương lai thì họ có thể tuyên bố hủy hợp đồng đối với các lô hàng tương lai đó với
điều kiện phải làm việc đó trong một thời hạn hợp lý.
- Bên vi phạm không thực hiện nghĩa vụ hay tuyên bố không thực hiện nghĩa vụ
trong thời hạn bổ sung mà bên bị vi phạm đã gia hạn thêm.
Theo Điều 49 Khoản 2, Điều 64 Khoản 2 và Điều 82 Khoản 1 CISG, người
mua hay người bán sẽ mất quyền hủy hợp đồng trong các trường hợp sau:
- Người bán đã giao hàng mà người mua đã không tuyên bố hủy hợp đồng.
- Người mua đã trả tiền mà người bán đã không tuyên bố hủy hợp đồng.
- Người mua không thể hoàn lại hàng hóa giống như tình trạng khi họ nhận hàng.
Theo Điều 26, một lời tuyên bố về việc hủy hợp đồng chỉ có hiệu lực nếu
được thông báo cho bên kia biết. Thông báo đó có thể bằng bất cứ hình thức nào,
trừ khi luật quốc luật của một quốc gia thành viên quy định hợp đồng mua bán phải
được ký kết hay xác nhận bằng văn bản và quốc gia đó tuyên bố chiếu theo Điều 12
CISG. Ngoài ra, một hợp đồng có thể được chấm dứt bằng thỏa thuận đơn thuần
24
giữa các bên (CISG, Điều 29 Khoản 1).
Theo Điều 81, hậu quả của việc hủy hợp đồng như sau:
- Việc hủy hợp đồng giải phóng hai bên khỏi những nghĩa vụ của họ, trừ những
khoản bồi thường thiệt hại có thể có.
- Sau khi hủy hợp đồng, các bên vẫn tiếp tục các điều khoản của hợp đồng liên quan
đến giải quyết tranh chấp.
- Bên nào đã thực hiện toàn phần hay một phần hợp đồng có thể đòi bên kia hoàn lại
những gì họ đã cung cấp hay đã thanh toán khi thực hiện hợp đồng. Nếu cả hai bên
đều bị buộc phải thực hiện việc hoàn lại, thì họ phải làm việc này cùng một lúc.
Ngoài ba chế tài trên, CISG còn có Điều 50 quy định về giảm giá hàng. Cụ
thể, nếu người bán không loại trừ mọi thiếu sót trong việc thực hiện nghĩa vụ thì dù
tiền hàng được trả hay chưa người mua có thể giảm giá hàng theo tỷ lệ căn cứ vào

sự sai biệt giữa giá trị thực của hàng hóa vào lúc giao hàng và giá trị của hàng hóa
nếu hàng phù hợp hợp đồng vào lúc giao hàng. CISG không quy định về phạt vi
phạm.
1.4. Ý nghĩa của việc tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định về chế tài khi vi
phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo Công ước Viên 1980 đối với
Việt Nam
Tính đến ngày 06/3/2013, CISG đã có sự tham gia của 79 thành viên
(UNCITRAL, 2013) trong đó có các nước với nền kinh tế rất phát triển như Hoa
Kỳ, Pháp, Đức, Canada, Australia, Nhật Bản. Điều đó cho thấy CISG được áp dụng
một cách rộng rãi, đóng vai trò là một nguồn luật điều chỉnh đối với nhiều
HĐMBHHQT. Trên lộ trình gia nhập CISG của Việt Nam, việc tìm hiểu và nghiên
cứu thực tiễn áp dụng các quy định về chế tài khi vi phạm HĐMBHHQT theo CISG
sẽ mang đến nhiều lợi ích không những đối với hệ thống pháp luật Việt Nam mà
còn cho các doanh nghiệp và cả các cơ quan giải quyết tranh chấp tại Việt Nam,
góp phần tích cực cho việc gia nhập CISG của Việt Nam.
1.4.1. Đối với hệ thống pháp luật Việt Nam
Các quy định về chế tài khi vi phạm hợp đồng theo Luật Thương mại Việt
Nam năm 2005 vẫn còn nhiều điểm thiếu sót và chưa hoàn chỉnh, gây ra nhiều khó
khăn cho các bên trong việc hiểu và áp dụng trong lĩnh vực mua bán hàng hóa quốc
tế. Trong khi đó, các quy định này theo CISG lại rất cụ thể, thể hiện sự thống nhất
các mâu thuẫn của các hệ thống pháp luật trên thế giới. Do đó, việc tham khảo các
quy định của CISG và tìm hiểu thực tiễn áp dụng của các quy định đó sẽ giúp các
25
nhà làm luật Việt Nam hoàn thiện luật pháp nước nhà, góp phần thống nhất luật
pháp với nhiều quốc gia trên thế giới không những trong lĩnh vực mua bán hàng hóa
quốc tế mà còn đối với nhiều lĩnh vực liên quan. Một khi các quy định của pháp luật
trong nước trở nên hài hòa, thống nhất với thế giới, các doanh nghiệp sẽ áp dụng có
hiệu quả vào hoạt động mua bán hàng hóa, đặc biệt giúp cho quá trình giải quyết
tranh chấp được thuận lợi hơn.
1.4.2. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam

Việc tìm hiểu vấn đề này sẽ góp phần nâng cao nhận thức của các doanh
nghiệp về CISG và các quy định về chế tài khi vi phạm HĐMBHHQT, giúp các
doanh nghiệp bớt bị động khi xảy ra tranh chấp và cơ quan giải quyết tranh chấp
chọn CISG làm luật áp dụng hay giảm bớt chi phí và thời gian đàm phán để thống
nhất lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng. Càng hiểu biết kỹ càng về các trường hợp
vi phạm và các quy định về chế tài theo CISG, các doanh nghiệp càng tự tin khi
tham gia hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế, tránh được những tranh chấp phát
sinh trong kinh doanh quốc tế.
1.4.3. Đối với các cơ quan giải quyết tranh chấp tại Việt Nam
Khi nghiên cứu các quy định về chế tài vi phạm theo CISG cũng như các
trường hợp vi phạm trong thực tế, các cơ quan giải quyết hay cụ thể là các luật sư,
trọng tài sẽ rút ra được những kinh nghiệm thực tiếp để vận dụng vào công tác xét
xử của mình, đồng thời nâng cao ý thức cần hòa nhập vào môi trường quốc tế của
các luật sư.
Như vậy, việc hội nhập ngày càng sâu rộng của Việt Nam vào nền kinh tế
thế giới đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Song song với điều này là sự
gia tăng ngày càng nhanh chóng về chất và lượng của các HĐMBHHQT, kéo theo
các vi phạm xảy ra với tính chất ngày càng phức tạp và tinh vi hơn. Trong khi luật
pháp Việt Nam vẫn chưa hoàn thiện thì CISG lại có những điểm tiến bộ, thể hiện sự
hài hòa hóa các hệ thống pháp luật trên thế giới và đang có những tác động tích cực
đến hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế. Đồng thời, các cơ quan giải quyết tranh
chấp và các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn non kém trong việc giải quyết tranh
chấp phát sinh từ HĐMBHHQT. Vì vậy, việc tìm hiểu về thực tiễn áp dụng các quy
định về chế tài khi vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo Công ước
Viên 1980 là hết sức cần thiết không những đối với doanh nghiệp, các cơ quan giải
quyết tranh chấp mà còn đối với các nhà làm luật tại Việt Nam. Trên cơ sở phân

×