Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Văn hoá doanh nghiệp của Viettel trong giai đoạn chủ động hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 122 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
o0o






QUÁCH THỊ NGỌC HÀ


VĂN HOÁ DOANH NGHIỆP CỦA VIETTELTRONG
GIAI ĐOẠN CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH
CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG THỰC HÀNH










Hà Nội - Năm 2015



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
o0o





QUÁCH THỊ NGỌC HÀ


VĂN HOÁ DOANH NGHIỆP CỦA VIETTELTRONG
GIAI ĐOẠN CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh
Mã số: 60 34 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH
CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG THỰC HÀNH



NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:PGS, TS. Đỗ Minh Cƣơng

XÁC NHẬN CỦA
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN







XÁC NHẬN CỦA CHỦ TỊCH HĐ
CHẤM LUẬN VĂN








PGS.TS Đỗ Minh Cương
PGS.TS Hoàng Văn Hải
Hà Nội - Năm 2015

CAM KẾT
Tôi xin cam đoan Luận văn này là do chính tôi nghiên cứu và thực hiện. Các
thông tin và số liệu sử dụng trong Luận văn được trích dẫn đủ nguồn tài liệu, kết
quả phân tích trong Luận văn là trung thực. Luận văn không trùng với bất kỳ đề tài
nghiên cứu khoa học nào.


Ngày 10 tháng năm 2015
Tác giả



Quách Thị Ngọc Hà




















LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Luận văn thạc sĩ này, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn
chân thành và sâu sắc nhất tới PGS,TS. Đỗ Minh Cương – Người thầy đã luôn tận
tình hướng dẫn, chỉ bảo và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tác giả hoàn thành luận
văn một cách tốt nhất.
Tác giả xin trân trọng cảm ơn Quý thầy cô đã giảng dạy trong quá trình học
thạc sĩ, Quý thầy cô trong Hội đồng bảo vệ đề cương, Quý thầy cô Khoa Quản trị
kinh doanh và Khoa Sau đại học, Quý thầy cô trong Hội đồng chấm luận văn đã
truyền đạt các kiến thức bổ ích, đồng thời có những góp ý quý báu về những thiếu
sót, hạn chế của Luận văn, giúp tác giả nhận ra những vấn đề cần khắc phục để
Luận văn được hoàn thiện hơn.

Tác giả xin trân trọng cảm ơn các cán bộ, nhân viên Tập đoàn Viễn thông
Quân đội Viettel đã cung cấp các thông tin giá trị, đóng góp một phần quan trọng để
tác giả hoàn thành Luận văn.
Xin được trân trọng cảm ơn những người thân trong gia đình, bạn bè đã tạo
mọi điều kiện tốt nhất để tác giả có thể chuyên tâm vào việc nghiên cứu nội dung
của Luận văn.


Tác giả




Quách Thị Ngọc Hà









MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG BIỂU………………………………………………………….i
DANH MỤC HÌNH…………………………………………………………………ii






DANH MỤC BẢNG BIỂU
STT
Bảng
Nội dung
Trang
1
Bảng 3.1
Đánh giá chung về vai trò thực tế của VHDN tại
Viettel

2
Bảng 3.2
Đánh giá về cấu trúc hữu hình của VHDN
Viettel

3
Bảng 3.3
Đánh giá về các giá trị được tuyến bố của
Viettel

4
Bảng 3.4
Đánh giá về các ngầm định nền tảng và quan
niệm chung

5
Bảng 3.5
Đánh giá về các khía cạnh, nội dung của VHDN



DANH MỤC HÌNH
STT
Hình
Nội dung
Trang
1
Hình 1.1
Tác động của môi trường bên trong và bên ngoài
tới VHDN

2
Hình 1.2
Các thành phần VHDN Gerry Johnson

3
Hình 2.1
Quy trình nghiên cứu

4
Hình 3.1
Tăng trưởng doanh thu của Viettel giai đoạn
2000 – 2012

5
Hình 3.2
Mặt tiền của Viện nghiên cứu và Phát triển




Viettel
6
Hình 3.3
Logo của Tập đoàn viễn thông quân đội Viettel

7
Hình 3.4
Vai trò thực tế của VHDN tại Viettel

8
Hình 3.5
Các giá trị văn hoá hữu hình của Viettel

9
Hình 3.6
Các giá trị được tuyên bố của Viettel

10
Hình 3.7
Các ngầm định nền tảng và quan niệm chung
của Viettel

11
Hình 3.8
Đánh giá công tác xây dựng và quản trị VHDN
của Viettel



















PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Ngày nay, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, thị trường kinh doanh của các
doanh nghiệp Việt Nam đã mở rộng ra toàn cầu. Các doanh nghiệp Việt Nam phải
đối diện và tìm cách thích nghi với môi trường cạnh tranh khốc liệt và đa văn hóa.
Họ cũng sớm nhận ra rằng, trong khi các nguồn lực hữu hình có hạn thì khai thác
các nguồn lực vô hình như văn hóa doanh nghiệp sẽ trở thành xu thế và tạo được lợi
thế cạnh tranh lớn. Do đó, để khẳng định vị thế của mình, mỗi doanh nghiệp cần
xây dựng cho mình một hệ thống văn hóa riêng. Văn hóa doanh nghiệp (VHDN)
được coi là yếu tố quan trọng góp phần xây dựng hình ảnh, thương hiệu và tạo nên
thành công của doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh đa quốc gia, đa văn hóa.
Một ví dụ điển hình về vấn đề này ở Việt Nam là Tập đoàn viễn thông quân đội -
Viettel
Tập đoàn Viễn thông Quân đội là doanh nghiệp kinh tế quốc phòng 100%
vốn nhà nước, một doanh nghiệp quân đội kinh doanh trong lĩnh vực bưu chính -

viễn thông và công nghệ thông tin do Bộ Quốc phòng quản lý. Tuy nhiên, không
như nhiều doanh nghiệp nhà nước khác hoạt động kém hiệu quả, Viettel được đánh
giá là tập đoàn viễn thông và công nghệ thông tin lớn nhất Việt Nam, hơn thế
Viettel còn là một trong những công ty viễn thông có tốc độ phát triển nhanh nhất
thế giới và nằm trong Top 15 các công ty viễn thông toàn cầu về số lượng thuê bao.
Ông Nguyễn Mạnh Hùng, Tổng giám đốc Tập đoàn Viettel cho biết, đến hết năm
2014 Viettel đã đầu tư tại 9 quốc gia với tổng dân số 175 triệu dân, gần gấp đôi dân
số Việt Nam; việc đầu tư từ thị trường nước ngoài đã mang về 278 triệu USD lợi
nhuận; tổng doanh thu nước ngoài trong năm 2014 đạt 1,2 tỷ USD (tăng trưởng
25%) và đạt tổng lợi nhuận trước thuế là 156 triệu USD (tăng trưởng 32%). Ông
cũng cho biết thêm: "Viettel đang xây dựng chiến lược phải trở thành công ty toàn
cầu. Tại các thị trường nước ngoài mà Viettel đầu tư thì phải là một trong ba công
ty lớn nhất ở thị trường đó. Viettel cũng đặt mục tiêu đầu tư ở khoảng 25 nước khác

2
nhau, có một thị trường nước ngoài từ 600 đến 800 triệu dân vào năm 2020 và nằm
trong Top 10 doanh nghiệp viễn thông thế giới". (38)
Thành công của Viettel được ghi nhận do nhiều nguyên nhân nhưng không
thể không kể đến vai trò của văn hóa Viettel được xây dựng một cách hệ thống bao
gồm slogan, logo, tầm nhìn thương hiệu, triết lý kinh doanh, chuẩn mực đạo đức,
binh pháp…và trên hết là việc áp dụng, phát huy những “nền tảng tư tưởng” này
vào thực tế hoạt động của Viettel, tạo nên bản sắc văn hoá doanh nghiệp của
Viettel.
Có ý kiến cho rằng sự phát triển của Viettel hiện nay là nhờ có các ưu thế
của một doanh nghiệp nhà nước do quân đội quản lý, nhưng tác giả cho rằng thực tế
không đơn giản như vậy. Khi mới thành lập Viettel chỉ có một số vốn rất nhỏ bé và
có vị trí bất lợi so với 2 đối thủ cạnh tranh mạnh hơn họ nhiều lần là Vinaphone và
Mobiphone. Mặt khác, Quân đội có nhiều doanh nghiệp được hưởng nhiều ưu đãi
không kém hơn Viettel nhưng đến nay chỉ có duy nhất Viettel là doanh nghiệp vươn
đến tầm khu vực và thế giới trong lĩnh vực kinh doanh của mình. Từ khi thành lập,

Viettel đã được Chính phủ quy định rõ hai nhiệm vụ là phát triển kinh tế và phục
vụ an ninh quốc phòng, vì vậy hoạt động kinh doanh của Viettel cũng có những đặc
thù so với các doanh nghiệp cùng ngành, có thể nói là nặng nề hơn. Các hoạt động
kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng của Viettel đã có những đóng góp to lớn cho
quốc gia, tạo nên sự thay đổi về chất lượng mạng thông tin quân sự;cánh sóng của
Viettel đã vươn tới biển khơi, góp phần thực hiện nhiệm vụ an ninh quốc phòng tại
địa bàn chiến lược này. Vùng sâu, vùng xa, nông thôn, hải đảo những nơi mà
khoảng chục năm trước đây hoàn toàn xa lạ với mạng thông tin di động thì nay
Viettel đã cho thấy nó là của mọi người, mọi nhà, thông thường như cơm ăn, áo
mặc. Có được thành quả ấy là do trong văn hoá doanh nghiệp Viettel, trong nếp
nghĩ cách làm của người Viettel đã thấm nhuần những giá trị cốt lõi và hành động
một cách thống nhất từ những sứ mạng, tầm nhìn và triết lý nhân văn giàu bản sắc .

2
Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng dư địa phát triển của Viettel đã cạn vì khi
đem lực lượng đi kinh doanh tại nước ngoài các lợi thế đã có của Tập đoàn không
còn nữa? Liệu văn hoá của Viettel giàu bản sắc “bộ đội cụ Hồ” có thể phát huy
được sức mạnh của nó tại các nước mà họ đang kinh doanh với các nền văn hoá dân
tộc khác biệt với Việt Nam như Mozambique, Haiti, Cameroon hay không? Đây
chính là một câu hỏi nghiên cứu đối với đề tài của Luận văn.
Hoạt động đầu tư kinh doanh của Viettel đã phát triển ở cả 3 châu lục là
Châu Á, Châu Mỹ và Châu Phi; người Viettel đã trở thành công dân của nhiều nước
trên thế giới. Thực tế này có thể dẫn đến nguy cơ "sự phát triển quá nóng" trong
chiến lược phát triển của Tập đoàn? Có thể gây ra ảnh hưởng tiêu cực đến văn hóa
doanh nghiệp của Viettel, làm phai nhạt bản sắc của nó? Trong bối cảnh đó, việc
duy trì và phát triển văn hoá doanh nghiệp cũng như áp dụng nó vào công tác quản
trị doanh nghiệp hướng tới sự phát triển bền vững đòi hỏi những người Viettel
"luôn đặt mình trong thách thức" phải đối mặt với những vấn đề và thử thách mới.
Nghiên cứu vấn đề này không đơn giản song có sức hấp dẫn và có tính cấp bách từ
thực tế phát triển của Viettel.

Từ những phân tích trên cho thấy, việc nghiên cứu “văn hoá doanh nghiệp
của Viettel trong giai đoạn chủ động hội nhập quốc tế” là một vấn đề quan trọng
có ý nghĩa thực tiễn.
2. Mục tiêu, câu hỏi và nhiệm vụ nghiên cứu.
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu nhận diện, đánh giá thực trạng của Văn hoá doanh nghiệp Viettel
hiện nay để đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện, phát triển Văn hoá doanh
nghiệp Viettel trong giai đoạn đẩy mạnh và chủ động hội nhập quốc tế.
2.2. Câu hỏi nghiên cứu
Văn hoá kinh doanh, văn hoá doanh nghiệp Việt Nam nói chung và văn hoá
doanh nghiệp của Viettel nói riêng là đề tài đã được nhiều tác giả nghiên cứu. Tuy

2
nhiên, luận văn này sẽ xem xét việc xây dựng, phát huy văn hoá doanh nghiệp của
Viettel để trả lời những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra như sau :
1. Viettel là một doanh nghiệp nhà nước xuất phát từ quân đội và hiện vẫn do
Bộ Quốc phòng quản lý đã xây dựng thành công VHDN. Vậy truyền thống quân đội
có tác động như thế nào đến VHDN của Viettel?
2. Thực trạng văn hoá doanh nghiệp của Viettel như thế nào, có phát huy
được sức mạnh tại các thị trường nước ngoài hay không ?
3. Để hoàn thiện và phát huy văn hoá doanh nghiệp Viettel trong giai đoạn
chủ động hội nhập quốc tế, khi Tập đoàn mở rộng kinh doanh tới nhiều quốc gia và
châu lục, thì cần có những định hướng, giải pháp gì từ phương diện quản trị doanh
nghiệp?
2.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Một là, nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của văn hoá doanh nghiệp, vai
trò của nó trong hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn đẩy
mạnh công nghiệp hoá và chủ động hội nhập quốc tế.
Hai là, nghiên cứu, khảo sát và đánh giá thực trạng văn hoá doanh nghiệp
Viettel hiện nay, tìm ra các hạn chế và nguyên nhân của nó.

Ba là, đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện, phát triển văn hoá
doanh nghiệp của Viettel trong điều kiện Tập đoàn chủ động và đẩy mạnh hoạt
động kinh doanh trong nước và nước ngoài.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu : Văn hóa doanh nghiệp của Viettel được xây dựng,
duy trì và phát triển trong quá trình hoạt động của Tập đoàn.
Phạm vi nghiên cứu :
Về không gian : Trụ sở Viettel, các chi nhánh tại TP.Hà Nội chủ yếu trong
lĩnh vực hoạt động kinh doanh viễn thông.

2
Về thời gian : Từ khi Viettel xây dựng và thực hiện Văn hóa doanh nghiệp
đến nay, nhất là giai đoạn từ khi Tập đoàn đầu tư kinh doanh ra nước ngoài (năm
2006).
4. Đóng góp của luận văn
Luận văn có một số đóng góp về mặt lý luận, giúp ích cho việc nghiên cứu về
VHDN của Viettel :
- Luận văn tổng hợp về lý luận về VHDN của một số nhà nghiên cứu, xây
dựng nên khung lý thuyết về VHDN, dùng nó làm cơ sở lý luận và công cụ nghiên
cứu khi xem xét, đánh giá về VHDN của Viettel.
- Luận văn đã tập trung, đi sâu vào việc tìm hiểu bản sắc văn hoá Viettel.
Lãnh đạo Tập đoàn và trong các văn bản VHDN thường nói đến "truyền thống bộ
đội Cụ Hồ và cách làm người lính", Luận văn đã lý giải thực chất của vấn đề này. .
- Viettel là một doanh nghiệp nhà nước do quân đội quản lý nhưng lại xây
dựng được một hệ thống VHDN mạnh và đẹp, đã áp dụng có hiệu quả trong quản trị
doanh nghiệp của mình, tạo ra sự thành công trong nhiều lĩnh vực hoạt động và sự
phát triển bền vững của Tập đoàn. Đây là một vấn đề mới, hấp dẫn mà Luận văn đã
cố gắng nghiên cứu, lý giải.
- Viettel là một trong số ít doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài.
Cách làm của Viettel cũng rất khác biệt : chọn các nước nghèo, lạc hậu và xa xôi để

xây dựng mạng lưới viễn thông hiện đại cho họ. Và Viettel đã thành công. Vấn đề
mà Luận văn đã cố gắng lý giải là vai trò của VHDN trong quá trình đầu tư - kinh
doanh tại các thị trường nước ngoài với tính cách là một nguồn lực phát triển, một
nền tảng tinh thần để quản trị DN kinh doanh có hiệu quả và phát triển bền vững.
Luận văn cũng đã cố gắng có một số đóng góp về mặt thực tiễn, trước hết
cho công tác quản trị VHDN của Viettel :
- Phân tích, đánh giá về thực trạng của VHDN của Viettel hiện nay, đánh giá
cả mặt mạnh và hạn chế của nó trong điều kiện, yêu cầu phải chủ động hội nhập
quốc tế, đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài của Tập đoàn.

2
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp với Lãnh đạo Tập đoàn về quản trị
VHDN với mục tiêu tiếp tục hoàn thiện và phát triển nó trong giai đoạn chủ động và
đẩy mạnh hội nhập quốc tế. Với sự cố gắng nghiên cứu khách quan, có hệ thống và
có sức thuyết phục, Luận văn có khả năng giúp ích cho công tác quản trị VHDN nói
riêng, quản trị doanh nghiệp nói chung của Tập đoàn.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, kết
cấu của luận văn được chia thành 4 chương :
Chương 1: Cơ sở lý luận – thực tiễn và tổng quan tình hình nghiên cứu về văn hoá
doanh nghiệp
Chương 2: Phương pháp luận và thiết kế nghiên cứu
Chương 3: Thực trạng văn hoá doanh nghiệp của Viettel
Chương 4: Một số giải pháp phát triển văn hoá doanh nghiệp Viettel trong giai đoạn
chủ động hội nhập quốc tế











CHƢƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN - THỰC TIỄN VÀ TỔNG QUAN TÌNH
HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VĂN HOÁ DOANH NGHIỆP.
1.Tổng quan tình hình nghiên cứu
VHDN quyết định sự phát triển trường tồn của doanh nghiệp. Sức sống của nó có
thể còn lâu dài hơn đời sống của những nhà sáng lập và lãnh đạo doanh nghiệp để

2
trở thành tài sản tinh thần, nguồn lực quan trọng thúc đẩy doanh nghiệp phát triển
bền vững. Vì vậy, VHDN có vai trò quan trọng không chỉ trong công tác quản trị
doanh nghiệp mà nó còn được xem là một giải pháp để nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp. Nó định hướng cho hoạt động của doanh nghiệp, tạo ra sự
đồng thuận trong tư tưởng và hành động của mọi thành viên từ đó làm giảm xung
đột trong doanh nghiệp. VHDN mang trong mình bản sắc, là cái phân biệt doanh
nghiệp này với doanh nghiệp khác và có tính di truyền qua nhiều thế hệ thành viên,
tạo môi trường thuận lợi để doanh nghiệp phát triển bền vững.
Với những vai trò quan trọng trong sự phát triển của doanh nghiệp, VHDN đã được
nhiều nhà khoa học, các học giả rất quan tâm nghiên cứu. Ở nước ta đã có nhiều
công trình nghiên cứu khoa học, luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ kinh tế đề cập và
giải quyết các vấn đề liên quan đến VHDN. Có thể nêu ra một số công trình tiêu
biểu sau :
- PGS.TS. Đỗ Minh Cương - "Văn hoá kinh doanh và triết lý kinh doanh" –
NXB.Chính trị quốc gia, (2001). Đây là công trình đầu tiên ở nước ta trình bày một
cách hệ thống về các vấn đề văn hoá kinh doanh, VHDN, triết lý kinh doanh từ
phương diện cơ sở lý luận và thực tiễn trên thế giới và tại Việt Nam. Công trình là
một tài liệu tham khảo tốt, cung cấp những kiến thức hữu ích đối với quá trình

nghiên cứu luận văn này.
- PGS.TS. Nguyễn Mạnh Quân - "Đạo đức kinh doanh và văn hoá công ty" –
NXB. Đại học Kinh tế Quốc dân, (2011). Đây là giáo trình của Trường Đại học
Kinh tế Quốc dân. Công trình trình bày rõ khái niệm, bản chất, các dạng VHDN.
Ngoài ra công trình cũng đề cập đến vấn đề vận dụng VHDN trong quản lý - tạo lập
bản sắc văn hoá công ty. Luận văn đã tham khảo công trình này khi xây dựng phần
cơ sở lý luận.
- PGS.TS. Dương Thị Liễu – "Văn hoá kinh doanh" – NXB Đại học Kinh tế
Quốc Dân, (2012). Công trình đã đề cập đến các lý thuyết về văn hoá kinh doanh,
các yếu tố cấu thành văn hoá kinh doanh. Công trình cũng dành phần lớn nội dung

2
để trình bày về thực trạng văn hoá kinh doanh tại Việt Nam, văn hoá kinh doanh
quốc tế cũng như đưa ra các tình huống văn hoá kinh doanh rất cụ thể và hữu ích.
- PGS.TS Phùng Xuân Nhạ - "Nhân cách doanh nhân và văn hoá kinh doanh
ở Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế" – Đề tài cấp nhà nước, mã
số: KX.03.06/06-10, 2007 – 2010. Công trình đã xây dựng các mô hình cấu trúc
phân tầng với bảng thang các giá trị chi tiết về nhân cách doanh nhân và văn hoá
kinh doanh Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế. Đề tài cũng tìm
hiểu sự tương đồng và khác biệt trong nhân cách doanh nhân và văn hoá kinh doanh
giữa Việt Nam với các nước đặc biệt là ở hai "khu vực văn hoá" phương Đông và
phương Tây để rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Từ những nghiên
cứu của đề tài, tác giả đã đưa ra những dự báo về xu hướng biến đổi của nhân cách
doanh nhân và văn hoá kinh doanh trong thời gian tới.
Văn hóa doanh nghiệp cũng là đề tài của nhiều nghiên cứu khoa học các cấp,
các luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ trong ngành viễn thông như :
Th.S Lê Thị Bích Ngọc, Th.S Phan Tú Anh – "Văn hoá doanh nghiệp Học
viện bưu chính viễn thông để phát triển bền vững và hội nhập quốc tế" - Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp học viện (2010). Công trình trình bày một số vấn đề chung
về VHDN ; phân tích, đánh giá thực trạng VHDN của Học viện công nghệ bưu

chính viễn thông thông qua các biểu trưng trực quan và phi trực quan ; đề xuất giải
pháp để tiếp tục xây dựng, duy trì và phát triển VHDN của Học viện.
Về luận văn thạc sỹ, đã có một số nghiên cứu đề cập đến văn hoá doanh
nghiệp trong ngành bưu chính viễn thông cũng như Tập đoàn viễn thông quân đội:
-Trần Thị Thu Hà - "Văn hoá doanh nghiệp Công ty Vinaphone" (2012)
-Nguyễn Thị Hoa - "Văn hoá doanh nghiệp tại VNPT Bắc Giang" (2012)
Trần Thị Huyền - "Duy trì và phát triển văn hoá doanh nghiệp Viettel để phát triển
bền vững và hội nhập quốc tế" (2013)
Trong bối cảnh Việt Nam chủ động tham gia và hội nhập mạnh mẽ vào nền
kinh tế toàn cầu, VHDN cũng là đề tài được quan tâm tại nhiều Hội thảo trong nước
với nhiều quy mô khác nhau:

2
- Hội thảo “Phát triển VHDN nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh
nghiệp Việt Nam sau khi ra nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO (2008). Với 14
tham luận, Hội thảo đã tập trung vào những vấn đề như văn hóa doanh nghiệp là gì?
Thực trạng VHDN Việt Nam, cơ hội và thách thức với doanh nghiệp hậu WTO;
nhận thức của doanh nghiệp về VHDN; Suy nghĩ của chủ doanh nghiệp về xây
dựng VHDN; xây dựng VHDN theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII.
- Hội thảo “Xây dựng Văn hóa doanh nghiệp ở nước ta hiện nay” do Ban
Tuyên giáo Trung ương cùng Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch tổ chức năm 2008.
Các tham luận tập trung vào 05 vấn đề chính: bàn về xây dựng VHDN; quan hệ hữu
cơ giữa xây dựng VHDN với xây dựng văn hóa quản lý nhà nước; VHDN tiếp cận
từ thực tiễn; những thuận lợi, khó khăn cần giải quyết để xây dựng VHDN; một số
giải pháp để xây dựng và phát triển VHDN Việt Nam.
- Hội thảo về xây dựng và thực hiện VHDN do Đảng ủy Khối Doanh nghiệp
Trung ương tổ chức ngày 30/9/2009. Các Tập đoàn, Tổng công ty xác định bên
cạnh đẩy mạnh hoạt động văn hóa thường xuyên còn gắn xây dựng văn hóa với các
mục tiêu, phương hướng trong thực hiện nhiệm vụ chính trị, sản xuất kinh doanh.
Tại hội thảo, các đại biểu đã thảo luận, làm rõ thêm các vấn đề về khái niệm, tiêu

chí VHDN, tầm quan trọng và những bài học kinh nghiệm về xây dựng VHDN
trong tình hình hiện nay.
- Hội thảo “Xây dựng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp chuẩn văn hóa” do
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tổ chức ngày 23/9/2011 đã tập trung bàn về
các tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục xét và công nhận “Cơ quan đạt chuẩn văn hóa”,
“Đơn vị đạt chuẩn văn hóa” và “Doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa”.
Trên ấn phẩm Khoa học công nghệ và Kinh tế bưu định Tập đoàn bưu chính
viễn thông Việt Nam , GS.TS Bùi Xuân Phong có công bố một số bài viết : "Duy trì
và phát triển VHDN nhằm phát triển bền vững và hội nhập quốc tế VNPT "
(3/2010) ; "Duy trì và phát triển VHDN nhằm phát triển VNPT bền vững và hội
nhập quốc tế" (6/2010).

2
Về VHDN của Viettel cũng có nhiều nghiên cứu, bài viết trên các ấn phẩm
báo chí như : "Triết lý kinh doanh của Viettel qua câu chuyện Linh dương và Sư tử"
(www.baodaknong.org.vn) ; "Viettel - Cho đi và nhận lại"
(www.thanhnien.com.vn)
Như vậy, có thể thấy số lượng các công trình nghiên cứu về VHDN rất phong phú
chứng tỏ sự hấp dẫn của đề tài này đối với các nhà nghiên cứu. Các tác phẩm đã chỉ
ra các yếu tố tác động đến sự hình thành và phát triển của VHDN; đề xuất các mô
hình, loại hình VHDN; nghiên cứu ảnh hưởng của VHDN tới hiệu quả kinh doanh
Số lượng các bài viết, nghiên cứu về sự thành công trong xây dựng và phát huy
VHDN của Viettel cũng rất đa dạng, tuy nhiên chưa có tác phẩm nào đi sâu vào
việc phân tích vai trò của văn hóa Viettel trong tiến trình hội nhập quốc tế cũng như
sự khác biệt trong bản sắc văn hóa của Viettel liệu có phù hợp với sự phát triển của
Tập đoàn.
1.1.Cơ sở lý luận về văn hoá doanh nghiệp
1.1.1.Các quan niệm và định nghĩa về văn hoá doanh nghiệp
Vào những năm 1970, những thành công liên tiếp của các công ty Nhật trên
thị trường quốc tế, đặc biệt là tại Mỹ đã khiến các công ty của Mỹ bắt đầu quan tâm

đến một nhân tố quan trọng, một chìa khoá thành công của các công ty Nhật trên
khắp thế giới là văn hoá doanh nghiệp. Cùng với đó, ý tưởng về "môi trường doanh
nghiệp" - một cách hiểu sơ khai của văn hoá doanh nghiệp bắt đầu hình thành. Từ
đầu những năm 1980, thuật ngữ "văn hoá doanh nghiệp" đã được các nhà quản trị,
các học giả, các nhà nghiên cứu sử dụng trong các bài phát biểu, các bài viết, các tài
liệu khoa học. Tại Việt Nam trong những năm gần đây, khái niệm văn hoá doanh
nghiệp cũng được sử dụng rất phổ biến, nó được coi như một " tiêu chí " để đánh
giá sự thành công của doanh nghiệp, là "tài sản vô hình" của mỗi doanh nghiệp.
Tuy nhiên, là một lĩnh vực mới được nghiên cứu nên cho đến nay vẫn tồn tại rất
nhiều khái niệm, định nghĩa khác nhau về VHDN và chưa có một định nghĩa nào
được công nhận thống nhất.
Dưới đây là một số ý kiến của các học giả, tổ chức trên thế giới :

2
Theo Deal và Kennedy, "văn hóa doanh nghiệp đơn giản là cách thức mà
doanh nghiệp triển khai hoạt động kinh doanh của mình". (18)
Theo Schneider - một trong những học giả đầu tiên đi sâu nghiên cứu về văn
hoá doanh nghiệp, "văn hoá doanh nghiệp là chất keo kết dính toàn bộ tổ chức lại
với nhau bằng cách cung cấp sự cố kết và liên kết mạch lạc giữa từng bộ phận nhỏ
của doanh nghiệp". (22)
Theo Robert A. Cooke, "văn hoá doanh nghiệp chính là những hành vi mà
các thành viên tin rằng họ cần phải phù hợp và đáp ứng mong đợi trong tổ chức của
họ" (17). Định nghĩa này nhấn mạnh đến ý thức của mỗi cá nhân trong tổ chức, họ
phải tự điều chỉnh hành vi của mình để phù hợp với hành vi chung được tổ chức
thừa nhận và áp dụng.
Theo chuyên gia nghiên cứu về văn hoá tổ chức Edgar Schein, "VHDN là
tổng hợp những quan niệm chung mà các thành viên trong doanh nghiệp học được
trong quá trình giải quyết các vấn đề nội bộ và xử lý các vấn đề với môi trường
xung quanh". (19)
Theo Tổ chức lao động quốc tế (International Labour Organization – ILO),

"VHDN là sự trộn lẫn đặc biệt các giá trị, các tiêu chuẩn, thói quen và truyền thống,
những thái độ ứng xử và lễ nghi mà toàn bộ chúng là duy nhất đối với một số tổ
chức đã biết". (9)
Georges de Saite Marie – chuyên gia người Pháp về doanh nghiệp vừa và
nhỏ, đưa ra định nghĩa : "VHDN là tổng hợp các giá trị, biểu tượng, huyền thoại,
nghi thức, các điều cấm kỵ, các quan điểm triết học, đạo đức tạo thành nền móng
sâu xa của doanh nghiệp" (9). Đây là khái niệm gắn liền với các yếu tố văn hoá hữu
hình của văn hoá doanh nghiệp, do đó nó sẽ giúp các thành viên trong doanh nghiệp
hiểu được các yếu tố VHDN vô hình (niềm tin, giá trị cốt lõi, triết lý ) một cách
nhanh chóng và dễ dàng hơn.
Tại Việt Nam, các nhà nghiên cứu về VHDN cũng đưa ra những cách hiểu
khác nhau :

2
Giáo sư Trần Ngọc Thêm cho rằng : "VHDN là một hệ thống các giá trị do
doanh nghiệp sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động kinh doanh, trong mối
quan hệ với môi trường xã hội và tự nhiên của mình" (15).
Theo PGS.TS. Đỗ Minh Cương: "VHDN (văn hoá công ty) là một dạng văn
hoá tổ chức bao gồm những giá trị, những nhân tố văn hoá mà doanh nghiệp làm ra
trong quá trình sản xuất, kinh doanh, tạo nên cái bản sắc của doanh nghiệp và tác
động tới tình cảm, lý trí và hành vi của tất cả các thành viên của nó". (2)
Theo PGS.TS. Dương Thị Liễu: "VHDN là một hệ thống các giá trị, các
chuẩn mực, các quan niệm và hành vi của doanh nghiệp, chi phối hoạt động của
mọi thành viên trong doanh nghiệp và tạo nên bản sắc kinh doanh riêng của doanh
nghiệp". (9)
TS. Đỗ Thị Phi Hoài: "VHDN là một hệ thống các ý nghĩa, giá trị niềm tin
chủ đạo, cách nhận thức và phương pháp tư duy được mọi thành viên trong doanh
nghiệp đồng thuận và có ảnh hưởng ở phạm vi rộng đến cách thức hành động của
từng thành viên trong hoạt động kinh doanh, tạo nên bản sắc kinh doanh của doanh
nghiệp đó". (8)

Theo PGS.TS. Nguyễn Mạnh Quân: "Văn hoá công ty là một hệ thống các ý
nghĩa, giá trị, niềm tin chủ đạo, (cách) nhận thức và phương pháp tư duy được mọi
thành viên của một tổ chức cùng đồng thuận và có ảnh hưởng ở phạm vi rộng đến
cách thức hành động của từng thành viên" (13). Định nghĩa này thể hiện hai đặc
điểm của văn hoá doanh nghiệp : thứ nhất là VHDN liên quan đến nhận thức, thứ
hai là VHDN có tính thực chứng.
Như vậy, có thể hiểu : VHDN là toàn bộ những nhân tố và sản phẩm văn hoá
(vật thể và phi vật thể/tinh thần và vật chất) được doanh nghiệp chọn lọc, tạo ra,
biểu hiện trong hoạt động kinh doanh. Nó tạo nên bản sắc của doanh nghiệp, đồng
thời có tác động chi phối tới nhận thức, hành vi của các thành viên trong doanh
nghiệp.
1.2.2. Các yếu tố tác động đến sự hình thành và phát triển của văn hoá doanh nghiệp

2
Theo Edgar Schein (19), hai yếu tố chính tác động đến sự hình thành và phát
triển của văn hoá doanh nghiệp là :
- Sự thích ứng của doanh nghiệp với môi trường bên ngoài : theo đó, văn hoá
doanh nghiệp được hình thành dựa trên sự tồn tại song song với những biến động
của các yếu tố bên ngoài như môi trường chính trị, văn hoá, công nghệ
- Sự hoà nhập vào môi trường bên trong : là một chức năng nhằm xây dựng
một "cấu trúc xã hội" phù hợp trong doanh nghiệp. Cấu trúc xã hội này được xây
dựng nhằm phù hợp với đặc thù loại hình kinh doanh của doanh nghiệp, phù hợp
với triết lý, sứ mệnh mà doanh nghiệp lựa chọn, phù hợp với cấu trúc nhân sự, tổ
chức của doanh nghiệp.
Williams, Dobson và Walters (16), dựa trên những phân tích của Schein đã
khái quát về sự thích ứng với môi trường bên ngoài và hòa nhập vào môi trường bên
trong của văn hóa doanh nghiệp như Hình 1.1:


















Môi trƣờng bên ngoài
 Luật pháp
 Chính trị
 Nền kinh tế
 Công nghệ
 Giáo dục
 Xã hội
 Thị trường
 Đối thủ cạnh tranh
 Khách hàng
Doanh nghiệp
Chiến lược
Cấu trúc, hệ thống, công nghệ
Mục tiêu, nhiệm vụ, thủ tục triển
khai công việc
Môi trường làm việc


2













Hình 1.1: Tác động của môi trƣờng bên trong và bên ngoài tới văn hóa doanh nghiệp
Nguồn: Williams, A., Dobson, P., Walters, M., 1989. Changing Culture: New
Organizational Approaches. London: IPM
Nghiên cứu về cách thức các thành viên học tập, trải nghiệm và tham gia vào
quá trình xây dựng VHDN, về các nhân tố, thành phần của VHDN, Gerry Johnson
(21) mô tả dưới hình thức một mạng văn hóa, với các thành phần giúp thành viên
của doanh nghiệp có thể nhận diện và ảnh hưởng trực tiếp tới VHDN bao gồm: Hệ
giá trị cốt lõi, Hệ thống kiểm soát, Cấu trúc doanh nghiệp, Cấu trúc quyền lực, Biểu
tượng, Các thủ tục, lễ nghi, Các câu chuyện, giai thoại như Hình 1.2:










2






Hình 1.2: Các thành phần văn hóa doanh nghiệp Gerry Johnson
Nguồn: Johnson, Gerry (1988) "Rethinking Incrementalism", Strategic
Management Journal Vol 9, pp.75-91
Theo PGS.TS Dƣơng Thị Liễu (9), các nhân tố ảnh hưởng đến VHDN có
thể chia thành hai nhóm là : các yếu tố nội tại của doanh nghiệp và những giá trị
văn hoá học hỏi được.
Các yếu tố nội tại của doanh nghiệp bao gồm :
- Người đứng đầu / người chủ doanh nghiệp : Đây là yếu tố quan trọng nhất
ảnh hưởng đến VHDN. Nhân cách của người chủ hay người đứng đầu doanh nghiệp
sẽ quyết định chất lượng văn hoá của cả doanh nghiệp.
- Lịch sử, truyền thống của doanh nghiệp : Một doanh nghiệp có một nền
văn hoá truyền thống với những bản sắc riêng với những câu chuyện về sự phát
triển của doanh nghiệp, của thành viên điển hình sẽ tiếp thêm sức mạnh và sự gắn
bó vô hình giữa các thành viên, xây dựng lòng tự hào trong mỗi thành viên trong
doanh nghiệp.
- Ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp : Các công ty có ngành nghề
kinh doanh khác nhau sẽ có văn hoá khác nhau. Văn hoá ngành nghề cũng thể hiện
rõ trong việc xác định mối quan hệ giữa các phòng ban và bộ phận khác nhau trong
công ty.
- Hình thức sở hữu của doanh nghiệp : Theo đó các công ty cổ phần sẽ có

những giá trị văn hoá khác với giá trị văn hoá của các công ty trách nhiệm hữu hạn
và các công ty nhà nước. Các công ty nhà nước hoạt động dựa trên nguồn vốn của

2
nhà nước, chủ yếu trong các lĩnh vực độc quyền và theo các chỉ tiêu kế hoạch của
nhà nước thông qua thì tính chủ động và tự giác sẽ thấp hơn các công ty tư nhân.
- Mối quan hệ giữa các thành viên trong doanh nghiệp : Một doanh nghiệp
có những giá trị phù hợp để mọi thành viên cùng chia sẻ, quan tâm ; có sự hài hoà
quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động ; quy trình kiểm soát, đánh giá chính xác
hiệu quả lao động sẽ tạo được sự gắn bó, đoàn kết giữa các thành viên.
- Văn hoá vùng miền : Trong doanh nghiệp có các nhân viên đến từ các địa
phương, các vùng khác nhau thì các giá trị văn hoá vùng miền thể hiện rất rõ nét.
Những mâu thuẫn tại nơi làm việc cũng có thể nảy sinh giữa các nhân viên đến từ
các vùng miền khác nhau mặc dù làm việc trong một công ty và chịu tác động
chung của văn hoá công ty đó.
Những giá trị văn hoá học hỏi được bao gồm :
- Những kinh nghiệm tập thể của doanh nghiệp : là những kinh nghiệm có
được khi xử lý các công việc chung, rồi sau đó được tuyên truyền và phổ biến toàn
doanh nghiệp và các thành viên mới.
- Những giá trị học hỏi được từ các doanh nghiệp khác
- Những giá trị văn hoá được tiếp nhận trong quá trình giao lưu với các nền
văn hoá khác.
- Những giá trị do một hay nhiều thành viên mới đến mang lại.
- Những xu hướng và trào lưu xã hội
PGS.TS Nguyễn Mạnh Quân (13) đề cập đến hai hệ thống công cụ tác
động đến việc phát triển văn hoá doanh nghiệp là việc quản lý hình tượng và các hệ
thống trong tổ chức. Về việc quản lý hình tượng, ông cho rằng người lãnh đạo, quản
lý doanh nghiệp cần định nghĩa rõ những giá trị đạo đức, triết lý mong muốn và tìm
cách sử dụng các công cụ biểu tượng (biểu trưng, khẩu hiệu, ấn phẩm ) để diễn đạt
chúng. Về việc quản lý các hệ thống trong tổ chức, ông cho rằng cần phân định rõ

các hệ thống chung về quản trị tác nghiệp (điều lệ, quy định, quy tắc ), các hệ
thống đạo đức chính thức, hệ thống các giá trị chủ đạo và hệ thống các nhóm (chính

2
thức và phi chính thức) của tổ chức nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả vào việc
hình thành và phát triển bản sắc VHDN.
Trong bài viết “Những yếu tố tác động đến nhân cách doanh nhân và văn
hóa kinh doanh Việt Nam”, PGS.TS Đỗ Minh Cƣơng (3) đã cập đến 3 yếu tố bên
ngoài tác động đến việc hình thành và phát triển văn hóa kinh doanh, VHDN gồm:
(1) Điều kiện tự nhiên và phương thức sản xuất: giải thích sự khác biệt văn
hóa giữa các doanh nghiệp xuất phát từ các điều kiện và phương thức sản
xuất khác nhau (hiện đại hay lạc hậu, nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
hay công nghiệp phát triển …)
(2) Tổ chức xã hội truyền thống và quá trình giao lưu hội văn hóa, hội nhập
với thế giới: giải thích việc ảnh hưởng của văn hóa dân tộc tới văn hóa
doanh nghiệp, tác động của quá trình giao thương, hội nhập quốc tế tới
những thay đổi trong văn hóa doanh nghiệp.
(3) Thể chế chính trị, kinh tế: giải thích quá trình biến đổi văn hóa doanh
nghiệp do tác động của những biến đổi về thể chế chính trị, kinh tế (Ví
dụ như sự biến đổi trong văn hóa của các doanh nghiệp nhà nước khi nền
kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa).
Tổng hợp quan điểm của các học giả nêu trên, chúng ta có thể thấy sự
hình thành và phát triển VHDN của một công ty chịu tác động của bốn yếu tố :
Nhà lãnh đạo - người tạo ra bản sắc của văn hoá doanh nghiệp: Để khẳng
định được bản sắc của mình, doanh nghiệp phải trải qua một quá trình hoạt động lâu
dài để các yếu tố của văn hoá doanh nghiệp được thiết lập, được thử thách để tồn tại
và tạo ra một lối hoạt động, kinh doanh của chính nó. Trong quá trình "đãi cát tìm
vàng" này, vai trò của người lãnh đạo là đặc biệt quan trọng. Bởi vì, cùng với sự tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp, những lý tưởng, hệ giá trị, phong cách quản lý

của những người lãnh đạo sẽ gây ảnh hưởng đến toàn doanh nghiệp và dần dần định
hình nền văn hoá của doanh nghiệp đó. Các triết lý, giá trị được lựa chọn, đạo đức

2
của người lãnh đạo có thể được truyền đến các thành viên qua các bài phát biểu, các
ấn phẩm, các tuyên bố về chính sách, và đặc biệt là qua hành vi của người lãnh đạo.
Khi người lãnh đạo thưc sự nghiêm túc, nhất quán trong lý tưởng và hành động thì ý
chí của họ sẽ được mọi thành viên khác cùng tôn trọng.
Ảnh hưởng của văn hoá dân tộc: Văn hoá của doanh nghiệp là một bộ phận
của văn hoá dân tộc. Những cá nhân trong một doanh nghiệp sẽ mang theo những
nét nhân cách chung do được nuôi dưỡng, giáo dục trong một môi trường văn hoá
dân tộc trước đó. Các giá trị của nó phải phù hợp, tương đồng với văn hoá dân tộc,
văn hoá vùng miền, văn hoá địa phương. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là các
doanh nghiệp kinh doanh trên cùng một thị trường ngành hàng, thuộc một khu vực
địa lý và cùng một dân tộc đều có văn hoá doanh nghiệp giống nhau. Điều này cũng
là do bản sắc của văn hoá doanh nghiệp in đậm dấu ấn cá nhân của người lãnh đạo.
Nhưng ở đâu đó, ta vẫn có thể nhận ra những đặc điểm chung nhất trong bản sắc
văn hoá của các doanh nghiệp này. Ví dụ như các doanh nghiệp của cộng đồng
người Hoa tại khu vực Chợ Lớn - Thành phố Hồ Chí Minh đều được đánh giá rất
cao về uy tín. Sự thành công của họ là do các doanh nghiệp luôn lấy chữ tín làm
đầu. Đây là quy ước bất thành văn, buộc mọi thành viên trong cộng đồng, bang hội
nghiêm túc tuân thủ nếu không sẽ bị "tẩy chay" và trên thực tế bản sắc này đã tạo
nên thành công của nhiều doanh nghiệp. Một số thương hiệu nổi tiếng trong nước
hiện nay cũng là do Hoa kiều làm chủ như thương hiệu giày dép Bình Tiên, bánh
kẹo Kinh Đô, bút bi Thiên Long, công ty dệt Thái Tuấn
Những giá trị văn hoá học hỏi được: Hình thức của những giá trị học hỏi
được khá phong phú, có thể kể đến những kinh nghiệm tập thể của doanh nghiệp,
những giá trị học hỏi được từ các doanh nghiệp khác, những giá trị văn hoá thu
nhận được trong quá trình giao lưu với các nền văn hoá khác, những giá trị do một
hay nhiều thành viên mới đem lại, những xu hướng hoặc trào lưu xã hội Tất nhiên,

tính đúng đắn và phù hợp của các giá trị văn hoá này cần được kiểm chứng bằng
thực tiễn nhưng qua đó văn hoá doanh nghiệp sẽ định hình và được củng cố. Tỷ phú

×