Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ Lạm phát trong nền kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.88 KB, 20 trang )

ĐỀ ÁN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Đề tài: Lạm phát trong nền kinh tế thị trường`


Mục lục
Mục lục................................................................................................................................2
Lời nói đầu...........................................................................................................................3
Chương 1: Lý thuyết chung về lạm phát.............................................................................4
I. Lạm phát là gì?............................................................................................................4
1. Quan điểm về lạm phát................................................................................................4
2. Phân loại lạm phát........................................................................................................5
3. Đo lường lạm phát.......................................................................................................7
II. Nguyên nhân của lạm phát..........................................................................................8
1. Lạm phát do cầu kéo....................................................................................................8
2. Lạm phát do chi phí đẩy...............................................................................................8
3. Lạm phát do tăng trưởng tiền tệ...................................................................................9
4. Các nguyên nhân khác...............................................................................................10
III. Tác động của lạm phát.............................................................................................11
1. Lạm phát tác động tới sản lượng của nền kinh tế......................................................11
2. Tác động của lạm phát tới hàng hóa và lưu thông tiền tệ..........................................11
3. Tác động của lạm phát tới kinh tế đối ngoại..............................................................11
4. Tác động của lạm phát tới các vấn đề xã hội.............................................................12
IV. Các biện pháp khắc phục lạm phát..........................................................................12
1. Các giải pháp ngắn hạn, tạm thời...............................................................................12
2. Biện pháp phòng và chống lạm phát trong dài hạn....................................................13
Chương 2: Thực trạng lạm phát ở Việt Nam.....................................................................14
I. Thực trạng lạm phát tại Việt Nam thời gian qua(2005-2011)....................................14
II. Dự báo lạm phát ờ Việt Nam thời gian tới và các giải pháp.....................................16
Kết luận..............................................................................................................................19
Danh mục tài liệu tham khảo.............................................................................................20



Lời nói đầu
Lạm phát là một vấn đề mn thưở với mọi nền kinh tế trong mọi thời
kỳ. Có thể nói lạm phát chưa bao giờ là một vấn đề cũ cho bất cứ nước nào
dù nước đó có nền kinh tế phát triển tới đâu. Nó ln tồn tại song song với
nền kinh tế thị trường và được xem như một vấn đề lớn luôn cần quan tâm
của tất cả các nước. Nó ảnh hưởng đến rất nhiều mặt của một nền kinh tế
như: tăng trưởng, thất nghiệp, ổn định chính trị-xã hội...Những hậu quả mà
lạm phát cao gây ra là rất to lớn nên chính phủ các nước ln tìm cách
khống chế lạm phát ở mức có thể kiểm sốt được. Các nhà kinh tế học đã đi
tìm rất nhiều giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát giúp cho nền kinh tế phát
triển ổn định và bền vững. Lạm phát cũng luôn là chủ đề được bàn thảo hàng
đầu trong các cuộc hội nghị về kinh tế. Ở Việt Nam thời gian qua, lạm phát
có thể nói đã trở thành một vấn đề được Chính phủ ưu tiên giải quyết hàng
đầu bởi nó đã ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân, các doanh
nghiệp, sự ổn định kinh tế-xã hội, ngồi ra là chỉ số tín nhiệm quốc gia, mơi
trường đầu tư...
Vậy lạm phát là gì? Nó đến từ những nguyên nhân nào và tác động ra
sao tới nền kinh tế thị trường? Phải làm gì để có thể kiềm chế và khắc phục
những hậu quả gây ra bởi lạm phát?...Đề án này sẽ giúp chúng ta có được
câu trả lời phần nào cho những câu hỏi trên. Đồng thời nó cũng giúp cho
người đọc có cái nhìn rõ hơn về lạm phát ở Việt Nam thời gian qua, các biện
pháp được sử dụng và định hướng của Chính phủ về mức lạm phát trong
thời gian tới.


Chương 1: Lý thuyết chung về lạm phát
I. Lạm phát là gì?
1. Quan điểm về lạm phát
Mọi hàng hóa trên thị trường đều có giá của nó. Giá của hàng hóa

được đo bằng lượng tiền phải bỏ ra để trao đổi. Nếu giá của tất cả các loại
hàng hóa đều tăng thì khi đó chúng ta nói nền kinh tế đang bị lạm phát giá
cả. Như vậy ta có thể hiểu lạm phát là tình trạng giá cả của tất cả các mặt
hàng tăng lên so với một thời điểm bất kỳ trước đó. Chúng ta đều biết tiền là
một loại hàng hóa đặc biệt , vậy tiền có giá cả khơng?. Câu trả lời là có. Giá
cả của tiền là số lượng hàng hóa mà mỗi đơn vị tiền có thể trao đổi được.
Nếu gọi giá cả của một hàng hóa bất kỳ là P, thì giá cả của một đơn vị tiền tệ
sẽ bằng 1/P, như vậy nếu các hàng hóa sử dụng đơn vị tiền tệ để đo lường
giá cả thì tiền tệ, ngược lại, sử dụng các đơn vị hàng hóa để đo lường giá cả
của chính nó. Cơng thức trên cho ta thấy khi giá cả của một loại hàng hóa
ngày càng tăng thì giá của một đơn vị tiền tệ càng nhỏ, tiền càng bị mất giá.
Do vậy chúng ta có thể hiểu lạm phát theo cách thứ hai là tình trạng mất giá
của tiền tệ hay cụ thể hơn là sự giảm giá trị hoặc sức trao đổi thành hàng hóa
khác của tiền. Tuy nhiên, lạm phát khơng đơn thuần chỉ có hai cách hiểu như
trên. Trong lịch sử đã có rất nhiều người đưa ra quan điểm thực chất lạm
phát là gì. Mỗi người đều đưa ra khái niệm về lạm phát theo quan điểm,
phương hướng nghiên cứu của mình. Để có cái nhìn tồn diện hơn về lạm
phát, chúng ta cùng nhau đi xem xét một số quan điểm sau:
_Quan điểm của Karl Marx về lạm phát: Theo quan điểm của các nhà
kinh tế học cổ điển và cận đại mà đại diện là Marx thì lạm phát dưới chủ
nghĩa tư bản là sự tràn ngập trên các kênh và các luồng những tờ giấy bạc
thừa gây nên sự tăng lên của giá cả của các mặt hàng trong nền kinh tế.
K.Marx đã viết:”Việc phát hành tiền giấy phải được giới hạn ở số lượng
vàng hoặc bạc thực sự lưu thông nhờ các đại diện tiền giấy của mình.”. Điều
này có nghĩa là khi khối lượng tiền giấy do Nhà nước phát hành vào lưu
thông vượt qua số lượng vàng mà nó đại diện thì giá trị của tiền giấy giảm
xuống, giá cả tăng vọt và tình trạng lạm phát xuất hiện. Marx cũng quan
niệm rằng lạm phát là do nhà nước tư bản tạo ra để bóc lột giai cấp cơng
nhân, lạm phát hồn tồn mang tính chất chính trị và như vậy theo ơng muốn
loại bỏ hồn tồn lạm phát thì phải tiêu diệt nhà nước tư bản vì chính nhà

nước tư bản là gốc rễ sinh ra lạm phát. Tuy nhiên, thực tế lại cho thấy một
điều hoàn tồn khác, ở các nước XHCN thì lạm phát vẫn tồn tại như các
nước Đông Âu trước đây, Liên Xô cũ, Việt Nam...Do vậy có thể chắc chắn
mà khẳng định rằng lạm phát khơng mang tính chính trị mà lạm phát là một
hiện tượng kinh tế; Muốn tìm hiểu về lạm phát phải quan sát dưới góc độ và


phương pháp phân tích kinh tế phù hợp. Quan điểm của K.Marx là khơng
tồn diện vì Marx khơng xem lạm phát là một hiện tượng kinh tế.
_Quan điểm của phái tiền tệ(điển hình là Milton Friedman):”Lạm phát
là việc giá cả tăng nhanh và kéo dài”. Friedman cho rằng việc cung tiền tệ
tăng lên và kéo dài làm cho giá cả hàng hóa tăng lên và đó cũng là nguyên
nhân duy nhất gây ra lạm phát. Đơng thời với đó, Friedman cho rằng lạm
phát là một hiện tượng tiền tệ và nó chính là một hiện tượng tất yếu của tài
chính-tiền tệ. (“Lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một hiện tượng tiền
tệ”_M. Friedman)
_Quan điểm của phái Keynes: cách phân tích của phái Keynes cũng
đưa đến những kết luận giống với quan điểm của phái tiền tệ, đó là việc
cung tiền tệ tăng lên và kéo dài là nguyên nhân gây ra lạm phát. Tuy nhiên,
phái Keynes cũng bác bỏ quan điểm của Friedman cho rằng lạm phát lúc nào
cũng là kết quả của sự tăng trưởng tiền tệ bằng cách phân tích tác động của
những đợt chi tiêu của chính phủ tới lạm phát. Phái Keynes chỉ ra: kết quả
của việc tăng thường xuyên từng đợt chi tiêu của Chính phủ là việc tăng
thường xuyên từng đợt của mức giá cả. Nếu chi tiêu của Chính phủ gia tăng
kéo dài thì chúng ta có một mức lạm phát gia tăng kéo dài, nhưng việc gia
tăng chi tiêu kéo dài khơng phải là một việc có thể thực hiện dễ dàng bởi nó
bị giới hạn bởi ngân sách chính phủ.
_Quan điểm của các nhà kinh tế học tân cổ điển(đại diện là
P.Samuelson): theo quan điểm này thì lạm phát chính là sự tăng lên của giá
bánh mỳ, giá ơ tơ tăng, chi phí sản xuất tăng. Tất cả các thứ này cho chúng

ta biết rằng lạm phát chính là sự gia tăng của mặt bằng giá cả của tất cả các
lĩnh vực trong nền kinh tế. “Lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và
chi phí tăng-giá bánh mỳ, dầu tăng, xe ô tô tăng, tiền lương, giá đất, tiền
thuê tư liệu sản xuất tăng”. Samuelson cho rằng lạm phát chính là sự biểu thị
sự tăng lên của giá cả.
_Một định nghĩa nữa về lạm phát do các nhà kinh tế học hiện đại đưa
ra và nó được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế thị trường:”Lạm phát là sự
tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian”
Sau khi đã tìm hiểu các quan điểm của các nhà kinh tế học, các trường
phái kinh tế, chúng ta đã có thể hiểu được thế nào là lạm phát và bản chất
kinh tế của lạm phát một cách tương đối đầy đủ. Trên thực tế thì lạm phát có
rất nhiều hình thức biểu hiện khác nhau và mức độ lạm phát ở mỗi nước
trong mỗi thời kỳ cũng không giống nhau. Chúng ta sẽ cùng đi phân loại lạm
phát để nghiên cứu rõ hơn về vấn đề này.
2. Phân loại lạm phát
Có nhiều cách để phân loại lạm phát. Dựa trên các tiêu thức khác nhau
sẽ có các cách phân loại lạm phát khác nhau


a) Căn cứ vào định tính
a.1.Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng
Lạm phát cân bằng là lạm phát tăng tương ứng với thu nhập thực tế
của người lao động, tăng phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp. Do đó nó khơng gây ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của
người lao động và đến nền kinh tế nói chung.
Lạm phát khơng cân bằng, ngược lại, là lạm phát tăng không tương
ứng với thu nhập thực tế của người lao động. Đây là loại lạm phát hay diễn
ra trong thực tế.
a.2.Lạm phát dự đoán trước và lạm phát bất thường
Lạm phát dự đoán trước là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một

thời kỳ tương đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn. Loại lạm phát này
có thể dự đốn trước được tỷ lệ của nó trong các năm tiếp theo. Về mặt tâm
lý, người dân đã quen với tình trạng lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị trước.
Do đó nó khơng gây ảnh hưởng tới đời sống, tới kinh tế.
Lạm phát bất thường là loại lạm phát xảy ra đột biến mà có thể từ
trước chưa xuất hiện. Loại lạm phát này ảnh hưởng đến tâm lý, đời sống
người dân vì họ chưa kịp thích nghi. Loại lạm phát này sẽ gây ra đột biến
với nền kinh tế và phần nào làm giảm niềm tin của nhân dân vào các chính
sách kinh tế của chính phủ.
b) Căn cứ vào định lượng
Lạm phát một chữ số(lạm phát vừa phải): đây là loại lạm phát nhỏ hơn
10%/ năm. Biểu hiện của loại lạm phát này đó là: giá cả tăng chậm, lãi suất
tiền gửi khơng cao, ít có tình trạng đầu cơ...Một nền kinh tế duy trì lạm phát
của nó ở mức này có thể coi là một nền kinh tế ổn định. Ở mức lạm phát này
nó không ảnh hưởng quá xấu tới nền kinh tế mà cịn có ảnh hưởng tích cực
nhiều hơn, nó đảm bảo cơng ăn việc làm, duy trì lực lượng lao động và tình
trạng thất nghiệp, đồng thời thúc đẩy các doanh nghiệp mở rộng sản xuất,
sản xuất với mức sản lượng cao hơn trước. Khi gặp loại lạm phát này thì tùy
vào chiến lược và chiến thuật phát triển kinh tế của mỗi quốc gia mỗi thời kỳ
mà các Chính phủ có thể chủ động định hướng mức khống chế trên cơ sở
đưa ra một mức lạm phát cần duy trì để gắn với các mục tiêu kinh tế khác:
tăng trưởng kinh tế, tăng cường xuất khẩu hay giảm tỷ lệ thất nghiệp...
Lạm phát hai chữ số(lạm phát phi mã): loại lạm phát này xảy ra khi
giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ hai con số một năm. Ở mức lạm phát
11%, 12%/năm thì nói chung tác động tiêu cực không đáng kể và mức lạm
phát là chấp nhận được. Nhưng khi tăng lên đến mức cao hơn thì lạm phát sẽ
làm cho giá cả chung tăng lên nhanh chóng, gây biến động lớn về kinh tế,
các hợp đồng được chỉ số hóa. Lúc này, người dân tích trữ hàng hóa, vàng
bạc, ngoại tệ, bất động sản và khơng muốn cho vay tiền ở mức lãi suất bình



thường. Loại lạm phát này sẽ ảnh hưởng xấu đến sản xuất và thu nhập vì
những tác động tiêu cực của nó là khơng nhỏ. Nó để lại những hậu quả xấu
là thất nghiệp, phân phối thu nhập, nợ nước ngoài... Lạm phát phi mã cũng
tác động đến sự ổn định của nền kinh tế.
Siêu lạm phát(lạm phát trên 100%): đây là loại lạm phát đột biến, nó
tăng lên với tốc độ rất cao. Siêu lạm phát giống như một căn bệnh chết
người. Nó làm cho tốc độ lưu thơng tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng
nhanh và không ổn định, tiền lương thực tế của người lao động bị giảm
mạnh ,tiền tệ mất giá nhanh chóng, thơng tin khơng cịn chính xác, các yếu
tố thị trường bị biến dạng và hoạt động sản xuất kinh doanh rơi vào tình
trạng rối loạn, mất phương hướng. Siêu lạm phát làm cho nền kinh tế và đời
sống suy sụp một cách nhanh chóng. Tuy nhiên, siêu lạm phát ít khi xảy ra.
Có thể kể qua vài cuộc siêu lạm phạt trong lịch sử các nền kinh tế như lạm
phát ở Bolivia năm 1985 là 11000%/năm, siêu lạm phát ở Đức(1922-1923)...
3. Đo lường lạm phát
Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả
của một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế. Các giá cả của
các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một chỉ số giá
cả nhằm đo mức giá cả trung bình. Tỷ lệ lạm phát là tỷ lệ tăng phần trăm của
chỉ số giá cả này.
Điều này được thể hiện qua công thức Lt=(Pt-Pt-1)/Pt-1
Trong đó Lt là tỷ lệ lạm phát giai đoạn t
t là giai đoạn tính lạm phát
Pt là chỉ số giá cả giai đoạn t
Pt-1 là chỉ số giá cả giai đoạn t-1
Trong thực tế không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số
lạm phát vì giá trị của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho
mỗi hàng hóa trong chỉ số(điều này lại phụ thuộc vào cơ cấu tiêu dùng hàng
hóa của người dân mỗi thời kỳ), cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực

kinh tế mà nó được thực hiện. Trong thực tế, trên thế giới người ta thường
sử dụng hai chỉ số chủ yếu là chỉ số giá tiêu dùng và hệ số điều chỉnh GDP
Chỉ số giá tiêu dùng(CPI) là chỉ số quan trọng mà một số nước thường
lấy để đo tỷ lệ lạm phát. CPI đo lường chi phí liên quan đến rổ hàng hóa và
dịch vụ cụ thể mà người tiêu dùng mua. Có thể tính chỉ số này theo cơng
thức:
CPI t=Chi phí mua giỏ hàng thời kỳ t/Chi phí mua giỏ hàng thời
kỳ cơ sở x100(%)
Cách tính CPI khơng phải là cộng các giá cả lại và chia cho tổng khối
lượng sản phẩm mà là cân nhắc từng mặt hàng theo tầm quan trọng của nó
trong nền kinh tế(sử dụng hệ số gia quyền).


Chỉ số giảm phát GDP(DGDP) là chỉ số phản ánh bình qn giá của tất
cả các hàng hóa và dịch vụ được sản xuất trong nền kinh tế. Chỉ số này được
dùng để tính giảm phát GDP danh nghĩa và GDP thực tế. Có thể tính chỉ số
này theo cơng thức
DGDP=GDP danh nghĩa/GDP thực tế x100(%)
Ngoài hai chỉ số quan trọng trên thì trong thực tế người ta cịn sử dụng
một số chỉ tiêu khác như: Chỉ số giá sinh hoạt(CLI), Chỉ số giá sản
xuất(PPI), Chỉ số giá bán buôn...
II. Nguyên nhân của lạm phát
Lạm phát có rất nhiều nguyên nhân. Thực tế chỉ ra rằng nguyên nhân
gây ra lạm phát ở các nước khác nhau trong các thời kỳ khác khau là rất
khác nhau. Tuy nhiên, khơng vì thế mà lạm phát khơng có các ngun nhân
cụ thể. Bằng việc tổng hợp dữ liệu thực tế ở nhiều nước trên thế giới và qua
nhiều thời kỳ, giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế, các nhà kinh tế
học hiện đại đã đưa ra ba nhóm nguyên nhân chủ yếu gây ra lạm phát, đó là:
lạm phát do cầu kéo, lạm phát do chi phí đẩy và lạm phát do tăng trưởng tiền
tệ...

1. Lạm phát do cầu kéo
Thực chất đây là sự mất cân đối trong quan hệ giữa tổng cung và tổng
cầu hàng hóa dịch vụ trong nền kinh tế. Nguyên nhân chính là do tổng cầu
tăng quá nhanh trong khi tổng cung không tăng hoặc tăng không kịp.(cú sốc
đột ngột về cầu diễn ra)
Việc tăng cung tiền tệ là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới việc tăng cầu về
hàng hóa và dịch vụ. Nhưng đây khơng phải là nguyên nhân duy nhất dẫn tới
tăng cầu. Áp lực lạm phát sẽ tăng sau từ một tới ba năm, nếu cầu hàng hóa
vượt quá mức cung, song quy mô sản xuất không được mở rộng...Sự mất
cân đối sẽ được giá cả lấp đầy từ đó mà lạm phát do cầu tăng lên(lạm phát
do cầu kéo xuất hiện)
2. Lạm phát do chi phí đẩy
Hình thức của lạm phát do chi phí đẩy phát sinh từ phía cung, do chi
phí sản xuất cao hơn đã được chuyển sang người tiêu dùng. Điều này chỉ có
thể đạt được trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế khi người tiêu dùng sẵn
sàng trả với giá cao hơn. Ví dụ: nếu tiền lương chiếm một lượng đáng kể
trong chi phí sản xuất và dịch vụ và nếu tiền lương tăng nhanh hơn năng suất
lao động thì tổng chi phí sản xuất sẽ tăng lên. Nếu nhà sản xuất có thể
chuyển việc tăng chi phí này cho người tiêu dùng thì giá bán sẽ tăng lên,
cơng nhân và các cơng đồn sẽ địi tiền lương cao hơn trước để phù hợp với
chi phí sinh hoạt tăng lên, điều đó tạo vịng xốy lượng giá.
Một yếu tố chi phí khác là giá cả nguyên nhiên vật liệu tăng do tỷ giá
tăng hoặc khả năng khai thác hạn chế. Một ví dụ điển hình là trong năm


1972-1974, giá dầu quốc tế tăng 5 lần dẫn đến lạm phát tăng từ 4.6% lên
13.5% bình qn trên tồn thế giới. Ngoài ra, sự suy sụp của giá dầu(1980)
làm cho lạm phát giảm xuống mức thấp chưa từng thấy
Bên cạnh đó giá cả nhập khẩu cao hơn được chuyển cho người tiêu
dùng nội địa cũng là một yếu tố gây nên lạm phát. Nhập khẩu càng trở nên

đắt đỏ khi đồng nội tệ yếu đi hoặc mất giá so với đồng tiền khác.
3. Lạm phát do tăng trưởng tiền tệ
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học thuộc phái tiền tệ, khi cung
tiền tệ tăng lên kéo dài làm cho mức giá tăng lên kéo dài và gây ra lạm phát.
Có thể thấy ngưỡng tăng cung tiền để gây lạm phát là nền kinh tế toàn dụng.
Khi nền kinh tế chưa tồn dụng thì nguồn ngun nhiên vật liệu cịn nhiều,
chưa khai thác nhiều. Có nhiều nhà máy xí nghiệp bị đóng cửa chưa đi vào
hoạt động. Do đó, lượng nhân viên nhàn rỗi lớn và tỷ lệ thất nghiệp
cao...Trong trường hợp này khi tăng cung tiền thì dẫn đến lãi suất giảm đến
một mức độ nào đó, các nhà đầu tư thấy rằng đầu tư có lãi và đầu tư tăng
nhiều. Từ đó các nhà máy, xí nghiệp mở cửa để sản xuất, kinh doanh. Lúc
này nguyên nhiên vật liệu bắt đầu được khai thác, người lao động có việc
làm và sản lượng tăng lên.
Ở nền kinh tế tồn dụng, các nhà máy, xí nghiệp được hoạt động hết
công suất, nguồn nguyên nhiên vật liệu được khai thác tối đa. Khi đó lực
lượng lao động được sử dụng một cách triệt để và làm sản lượng tăng lên rất
nhiều. Tuy nhiên, tình hình này sẽ dẫn đến một vài kênh tắc nghẽn trong lưu
thông. Chẳng hạn khi các nhà máy, xí nghiệp hoạt động hết cơng suất sẽ dẫn
đến thiếu năng lượng, thiếu lao động, nguyên vật liệu dần bị khan hiếm...Vai
trị của chính phủ và các nhà quản lý là phải xác định được kênh lưu thơng
nào bị tắc nghẽn và tìm cách khơi thơng nó. Nếu khơng sẽ gây ra lạm phát.
Lúc đó sản lượng khơng tăng mà cung tiền tăng nhiều thì lạm phát tất yếu sẽ
xảy ra.
Trong việc chống lạm phát, các ngân hàng trung ương của các nước
luôn giảm lượng cung tiền. Trường hợp tăng cung tiền có thể đạt được bằng
hai cách: Ngân hàng trung ương tăng nhiều tiền hơn hoắc các ngân hàng
thương mại có thể tăng tín dụng. Trong cả hai trường hợp sẵn có lượng tiền
nhiều hơn cho dân cư và chi phí. Về mặt trung và dài hạn, điều đó dẫn đến
cầu về hàng hóa và dịch vụ tăng. Nếu cung không tăng tương ứng với cầu thì
việc dư cầu sẽ được bù đắp bằng việc tăng giá. Giá cả sẽ khơng tăng ngay

mà tăng sau đó 2-3 năm. Ví dụ năm 1966-1967 chính phủ Mỹ đã sử dụng
việc tăng tiền để trả cho những chi phí leo thang tại Việt Nam, lạm phát tăng
từ 3%(1967) đến 6%(1970)
Xét trong dài hạn lãi suất thực tế(i) và sản lượng thực tế(Y) đạt mức
cân bằng, nghĩa là (i) và (Y) ổn định. Mức cầu tiền tệ thực tế không đổi nên


M/P cũng không đổi. Suy ra khi lượng tiền danh nghĩa(M) tăng lên thì giá cả
sẽ tăng lên với tỷ lệ tương ứng. Vậy lạm phát là một hiện tượng tiền tệ. Đây
cũng chính là lý do tại sao Ngân hàng trung ương rất chú trọng đến nguyên
nhân này.
4. Các nguyên nhân khác
Ngoài các nguyên nhân đã đề cập ở trên, một số nguyên nhân khác
cũng gây ra lạm phát. Thứ nhất có thể kể đến yếu tố tâm lý dân cư. Khi
người dân khơng cịn tin tưởng vào đồng tiền của Nhà nước, họ sẽ không giữ
tiền mà đẩy vào lưu thơng bằng việc mua hàng hóa dự trữ hoặc đầu tư vào
một lĩnh vực kinh doanh nào đó. Như thế cầu hàng hóa sẽ tăng lên mà cung
khơng đáp ứng được, cân bằng cung-cầu trên thị trường hàng hóa khơng cịn
nữa và tiếp tục đẩy giá lên cao, từ đó lạm phát sẽ xảy ra. Có thể thấy giá cả
tăng lên làm tiêu dùng tăng, cứ như vậy sẽ gây ra xoáy ốc lạm phát. Thứ hai,
thâm hụt ngân sách cũng có thể là một nguyên nhân dẫn đến tăng cung ứng
tiền tệ và gây ra lạm phát cao.
Khi chính phủ lâm vào tình trạng thâm hụt ngân sách thì có thể khắc
phục bằng cách phát hành trái phiếu chính phủ để vay vốn từ người dân
nhằm bù đắp vào phần thiếu hụt. Biện pháp này không làm ảnh hưởng đến
cơ sở tiền và do vậy, không làm tăng mức cung tiền tệ và không gây ra lạm
phát. Tuy nhiên khi sự thâm hụt trầm trọng và kéo dài thì chính phủ phải sử
dụng biện pháp in tiền. Việc phát hành tiền sẽ ảnh hưởng đến cơ sở tiền tệ
làm tăng mức cung ứng tiền, đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng thêm tỷ lệ lạm
phát. Tuy nhiên, đối với các nước đang phát triển, việc phát hành trái phiếu

chính phủ gặp nhiều khó khăn vì nguồn vốn trên thị trường còn hạn chế.
Biện pháp in tiền được coi là có hiệu quả nhất. Vì thế mà khi thâm hụt ngân
sách càng nhiều và càng kéo dài thì tiền tệ sẽ tăng theo và tỷ lệ gây lạm phát
càng lớn.
Còn đối với những quốc gia phát triển thì việc phát hành trái phiếu có
lợi hơn. Nhưng việc phát hành này kéo dài sẽ làm cầu về vốn sẽ tăng và lãi
suất tăng cao hơn. Lúc này để giảm lãi suất trên thị trường thì Ngân hàng
trung ương lại phải mua vào các trái phiếu đó. Như thế mức cung tiền tệ lại
tăng lên và dễ gây ra lạm phát.
Tóm lại, nếu như thâm hụt ngân sách kéo dài thì trong mọi trường hợp
vẫn làm tăng cung tiền và lạm phát xảy ra là một điều chắc chắn.
Một nguyên nhân nữa có thể gây ra lạm phát là tỷ giá hối đoái. Khi tỷ
giá tăng đồng bán tệ sẽ bị mất giá. Khi đó tâm lý những người sản xuất trong
nước muốn đẩy giá hàng lên tương ứng với mức tăng tỷ giá hối đoái. Mặt
khác khi tỷ giá hối đối tăng, chi phí cho các ngun vật liệu, hàng hóa nhập
khẩu sẽ tăng lên. Do đó giá cả của các hàng hóa này tăng lên cao. Đây chính
là lạm phát do chi phí đẩy.


Bên cạnh đó, các ngun nhân liên quan đến chính sách của nhà nước,
chính sách thuế, chính sách cơ cấu kinh tế không hợp lý, mất cân đối cũng
gây ra lạm phát.
III. Tác động của lạm phát
Như chúng ta đã biết, lạm phát có ba mức độ là lạm phát vừa phải,
lạm phát phi mã và siêu lạm phát. Trong ba mức độ này của lạm phát thì lạm
phát vừa phải khơng có nhiều tác động tiêu cực mà nó cịn có đóng góp tích
cực vào nền kinh tế. Vì vậy để thấy rõ hậu quả do lạm phát gây ra chúng ta
sẽ đánh giá từ hai mức độ lạm phát còn lại.
Lạm phát tác động một cách trực tiếp và chủ yếu vào các đối tượng
sau:

1. Lạm phát tác động tới sản lượng của nền kinh tế
Khi mới bắt đầu bước vào lạm phát thì một điều đặc biệt là lạm phát
có thể làm cho sản lượng của nền kinh tế tăng lên, điều đó là do khi mới bắt
đầu lạm phát giá cả có tăng nhưng khơng nhiều khi đó các doanh nghiệp bán
được hàng hóa với giá cao làm doanh thu của họ tăng lên, điều này khiến các
doanh nghiệp đầu tư thêm để mở rộng sản xuất. Lúc đó đơi khi tỷ lệ thất
nghiệp trong nền kinh tế cịn giảm xuống do có nhiều doanh nghiệp thuê
thêm công nhân để tăng cường sản xuất. Nhưng sau đó một thời gian, do giá
tiếp tục tăng rất nhanh nhưng không ngừng, các doanh nghiệp đều thấy rằng,
nếu họ để hàng hóa và nguyên vật liệu lại chờ tăng giá mới bán thì họ sẽ thu
được nhiều lợi nhuận hơn sản xuất, bởi vậy mà sản lượng của nền kinh tế
giảm xuống một cách nhanh chóng, các doanh nghiệp cất giữ hàng hóa và
tạm ngừng hoặc thu nhỏ sản xuất nên thất nghiệp gia tăng một cách nhanh
chóng.
2. Tác động của lạm phát tới hàng hóa và lưu thơng tiền tệ
Đối với hàng hóa, do sự tích trữ hàng hóa để chờ tăng giá, và tình
trạng tìm kiếm hàng để mua tích trữ(đầu cơ) nên sẽ xuất hiện hiện tượng
khan hiếm hàng hóa, cầu giả tạo...chính điều này làm cho lạm phát trở nên
trầm trọng hơn, gây sự leo thang giá cả ở chu kỳ sau...
Đối với lưu thông tiền tệ, tiền bị rút ra khỏi hệ thống ngân hàng để
mua hàng hóa dự trữ hoặc chuyển đổi sang dạng phi tài chính và khơng quay
trở lại ngân hàng. Các ngân hàng bị thiếu tiền để cho vay, từ đó các doanh
nghiệp thiếu tiền để mua hàng hóa và gây ra tình trạng khan hiếm hàng hóa,
dư thừa tiền tệ. Đồng thời thì tiền do khơng được ưa chuộng nắm giữ nên sẽ
bị đẩy vào lưu thơng nhanh chóng, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng vọt và điều
này thúc đẩy lạm phát gia tăng.
3. Tác động của lạm phát tới kinh tế đối ngoại
Trong quan hệ kinh tế đối ngoại, lạm phát sẽ làm cho những khoản nợ
quốc gia của chính phủ với nước ngồi trở nên trầm trọng hơn vì



% tăng, giảm tỷ giá VND/ngoại tệ=% lạm phát của VN-% lạm
phát của ngoại tệ
hay nói đơn giản thì VND trở nên mất giá so với ngoại tệ nếu như lạm
phát ở Việt Nam cao hơn nước ngoài, do vậy số dư nợ tính theo VND sẽ
tăng lên do lạm phát.
4. Tác động của lạm phát tới các vấn đề xã hội
Lạm phát làm cho đời sống người dân, đặc biệt là những người làm
công ăn lương giảm sút nghiêm trọng do tốc độ tăng giá lớn hơn nhiều so
với tốc độ tăng tiền lương. Tiền lương danh nghĩa không thể điều chỉnh kịp
với tốc độ tăng của lạm phát. Chính vì vậy tiền lương thực tế của những
người cơng nhân luôn ở mức rất thấp và không ngừng giảm xuống một cách
nhanh chóng.
Lạm phát làm phân phối lại thu nhập xã hội một cách bất hợp lý: Lạm
phát đã “móc” túi của những người cho vay chuyển sang túi của những
người đi vay ( với mức lạm phát lớn hơn dự kiến) và điều này dẫn đến sự
phân phối bất cơng bằng trong nền kinh tế. Những người có tiền mua hàng
hóa và bán lại với giá cao sẽ giàu lên nhanh chóng, ngược lại những người
nghèo sẽ càng thêm túng quẫn. Bởi vậy, có thể nói lạm phát khiến tình trạng
phân hóa giàu nghèo trở nên sâu sắc.
IV. Các biện pháp khắc phục lạm phát
Ở phần trên chúng ta đã đi tìm hiểu nguyên nhân của lạm phát và
những hậu quả mà lạm phát để lại trong nền kinh tế. Với những nguyên nhân
và hậu quả của lạm phát như vậy, cần có các biện pháp để phịng và chống
hiện tượng kinh tế này. Trên thực tế, không có giải pháp nào là chung cho
mọi nền kinh tế vì mỗi nền kinh tế vào các giai đoạn khác nhau có những
đặc trưng riêng. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể rút ra một số cách làm mang
tính chung nhất như sau:
1. Các giải pháp ngắn hạn, tạm thời
Đông kết giá cả: khi nền kinh tế có dấu hiệu của sự lạm phát thì cơ

quan đại diện nhà nước sẽ ký những hợp đồng với các doanh nghiệp, các
ngân hàng thương mại, các tổ chức kinh tế để đảm bảo các đơn vị này không
tăng giá, không tăng lãi suất trong một thời gian nhất định và bù lại, họ sẽ
nhận được từ nhà nước các ưu đãi về thuế, quyền đầu tư, bảo hộ...Vì trong
thực tế, lạm phát bao giờ cũng trải qua hai giai đoạn trong đó ở giai đoạn thứ
nhất thì tốc độ thay đổi lượng cung tiền lớn hơn tốc độ thay đổi về giá. Ở
giai đoạn này giải pháp đông kết giá cả sẽ ngăn cản lạm phát chuyển sang
giai đoạn thứ hai. Đây cũng chính là phương pháp trì hỗn để nhà nước có
thể thực hiện các biện pháp chống lạm phát về sau.


Thắt chặt tiền tệ: Chính sách này nhằm vào việc giảm cầu tiền tệ
xuống và lúc đó cung tiền tệ mới có cơ hội để giảm. Chính sách này được
thực hiện thông qua một số giải pháp như:
_Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc: điều này làm giảm khả năng cho vay của
các ngân hàng thương mại, dẫn tới lãi suất cho vay sẽ tăng và cầu tiền tệ sẽ
giảm...Cầu tiền tệ giảm sẽ dẫn tới hai lợi ích: thứ nhất nó làm cho lượng tiền
phát hành ra ít đi, mức cung tiền sẽ giảm xuống. Thứ hai cầu về đầu tư sẽ
giảm xuống nên tổng cầu của nền kinh tế giảm xuống làm lạm phát giảm.
_Tăng lãi suất chiết khấu: Việc tăng lãi suất chiết khấu của ngân hàng
trung ương với các ngân hàng thương mại làm cho lãi suất của các ngân
hàng thương mại tăng lên, dẫn tới lãi suất trên toàn bộ nền kinh tế tăng và
hiệu ứng của việc tăng lãi suất chiết khấu cũng sẽ giống như việc tăng tỷ lệ
dự trữ bắt buộc.Việc làm này sẽ nhằm đạt được hai mục đích: một mặt giải
phóng được lượng hàng hóa bị găm giữ(do đầu cơ) và mặt khác ngân hàng
trung ương sẽ không phải phát hành thêm tiền mà tiền sẽ trở lại các ngân
hàng thương mại.
_Nghiệp vụ thị trường mở: Ngân hàng trung ương bán trái phiếu chính
phủ, tín phiếu kho bạc cho các ngân hàng thương mại làm giảm khả năng
cho vay của ngân hàng thương mại...

Thắt chặt ngân sách: bao gồm:
_Tăng thuế(thuế lạm phát-đánh vào thời kỳ lạm phát và có tỷ lệ đúng
bằng lạm phát kỳ vọng): Tăng thuế làm thu nhập khả dụng giảm đi, từ đó
làm tổng cầu của nền kinh tế giảm xuống, dẫn đến giảm lạm phát của nền
kinh tế...Việc tăng thuế vừa làm tăng nguồn thu cho nhà nước, vừa góp phần
hạn chế lạm phát bùng phát.
_Cắt giảm chi tiêu ngân sách nhà nước: Giảm chi tiêu ngân sách sẽ
làm giảm tổng cầu và làm giảm lạm phát, đồng thời loại bỏ khả năng chính
phủ phát hành tiền để chi tiêu
2. Biện pháp phòng và chống lạm phát trong dài hạn
Biện pháp phòng và chống lạm phát trong dài hạn quan trọng là phải
cải cách nền kinh tế, khắc phục tình trạng mất cân đối bằng các chương trình
điều chỉnh cơ cấu(khắc phục những khiếm khuyết của mơ hình tăng trưởng
kinh tế). Một số giải pháp cơ bản là : trao quyền tự chủ cho các doanh
nghiệp, đẩy mạnh q trình sản xuất hàng hóa, mở rộng lưu thơng hàng hóa;
thực hiện cải cách với hệ thống tài chính, giúp nâng cao khả năng chống lạm
phát và điều hành ổn định nền kinh tế, các chương trình nhằm thực hiện tăng
cường năng lực sản xuất, chủ động được năng lực sản xuất trong nước, các
cải cách về ngoại thương, ngoại hối...Các giải pháp này được thực hiện như
thế nào phụ thuộc vào tình hình cụ thể của mỗi nước, gắn với các mục tiêu
và chính sách khác nhau của các nước trên thế giới.


Chương 2: Thực trạng lạm phát ở Việt Nam
I. Thực trạng lạm phát tại Việt Nam thời gian qua(2005-2011)
Việt Nam là nền kinh tế lớn thứ 6 ở Đông Nam Á và lớn thứ 59 trên
thế giới trong các nền kinh tế thành viên của Quỹ Tiền tệ Quốc tế xét theo
quy mô tổng sản phẩm nội địa danh nghĩa năm 2009 và đứng thứ 128 xét
theo tổng sản phẩm nội địa danh nghĩa bình quân đầu người. Giống như
nhiều nền kinh tế trên thế giới nói chung, Việt Nam cũng chịu nhiều tác

động của lạm phát trong việc điều hành nền kinh tế và thức hiện các mục
tiêu tăng trưởng.
Nếu như thời kỳ 1997-2003 kinh tế Việt Nam được coi là thiểu phát,
khi CPI tăng rất thấp thì thời kỳ 2004 trở lại đây là thời kỳ lạm phát cao trở
lại, gần như lặp đi lặp lại, cứ 2 năm tăng cao mới có 1 năm tăng thấp hơn.
Năm 2004 tăng 9,5%, năm 2005 tăng 8,4%, thì năm 2006 tăng 6,6%. Năm
2007 tăng 12,63%, năm 2008 tăng 19,89%, thì năm 2009 tăng 6,52%. Năm
2010 tăng 11,75%, năm 2011 sau 8 tháng đã tăng 15,68% (nếu tính theo
năm thì tháng 8/2011 so với cùng kỳ năm trước đã tăng tới 23,02%). Dự báo
cả năm phải phấn đấu tích cực mới ở mức 18%
Nguyên nhân
Các nguyên nhân của lạm phát thời gian qua bao gồm các yếu tố sau:
1. Xét tổng quát là sản xuất trong nước chưa đủ cho đầu tư và tiêu
dùng cuối cùng, hay đầu tư và tiêu dùng vượt qua sản xuất lên đến trên dưới
10% hàng năm, phải nhập siêu, phải vay nợ từ nước ngoài để bù đắp. Khi
tổng cầu vượt quá tổng cung thì Việt Nam khơng chỉ ở vị thế nhập siêu, mà
cịn rất dễ rơi vào lạm phát cao, nếu có sự bất ổn ở bên ngồi (khủng hoảng,
lạm phát...) và có trục trặc ở bên trong (thiên tai, dịch bệnh, bất ổn vĩ mô...).
Vốn đầu tư/GDP gia tăng từ 39,1% trong thời kỳ 2001-2005 lên 43,5% trong
thời kỳ 2006-2010. Tiêu dùng cuối cùng/GDP của Việt Nam đã tăng tương
ứng từ 71,1% thời kỳ 2001-2005 lên 72,2% thời kỳ 2006-2010. Đây là tỷ lệ
cao so với một số nước (năm 2009 của Việt Nam là 72,8%, trong khi của
Brunei là 47%, Trung Quốc 48,7%, Singapore 52,4%, Malaysia 64%,
Indonesia 68,2%, Thái Lan 68,3%, Ấn Độ 69,6%, Hàn Quốc 70,3%...). Tiêu
dùng cuối cùng/GDP của Việt Nam cao và tăng lên, có một phần do quy mơ
GDP bình qn đầu người thấp, có một phần do tiêu dùng có xu hướng tăng
lên; nhưng có một phần do đã xuất hiện tình trạng “ăn chơi sớm” và chuộng
hàng ngoại của một bộ phận dân cư. Do đầu tư và tiêu dùng cuối cùng vượt
xa so với GDP, nên nhập siêu tăng lên qua các thời kỳ (thời kỳ 1996-2000
mới gần 9,4 tỷ USD, đã tăng lên trên 19,1 tỷ USD thời kỳ 2001-2005 và

tăng lên gần 62,8 tỷ USD thời kỳ 2006-2010). Trong tình trạng thiếu hụt
nguồn cung, phải nhập khẩu từ nước ngồi, trong đó đáng lưu ý có các mặt


hàng mà một nước đi lên từ nông nghiệp phải nhập khẩu lớn như thủy sản,
sữa và sản phẩm sữa, rau quả, ngô, dầu mỡ động thực vật, thức ăn gia súc và
nguyên phụ liệu, cao su, gỗ và nguyên phụ liệu, đường, thịt; mà một nước có
bờ biển dài nhưng phải nhập muối; một nước có tỷ lệ xuất khẩu/GDP cao,
nhưng do tính gia cơng, lắp ráp cao mà nhập khẩu nguyên phụ liệu lớn, như
nguyên phụ liệu dệt may, giày dép, chất dẻo nguyên liệu, máy vi tính, sản
phẩm điện tử và linh kiện; một số loại hàng tiêu dùng có kim ngạch lớn, như
điện thoại các loại và linh kiện, ô tô nguyên chiếc, xe máy nguyên chiếc, hóa
mỹ phẩm... lên đến mấy tỷ USD.
2. Nguyên nhân tiềm ẩn, sâu xa của lạm phát là hiệu quả đầu tư và
năng suất lao động thấp. Hiệu quả đầu tư thấp thể hiện ở hệ số ICOR cao và
tăng lên qua các thời kỳ (thời kỳ 2001-2005 là 5,2 lần, thời kỳ 2006-2010
lên 6,2 lần, cao gấp đôi nhiều nước trong khu vực). Tỷ trọng đầu tư công
trong tổng đầu tư của Việt Nam từ năm 2003 trở về trước ở mức trên dưới
57%, từ 2004 đã giảm xuống nhưng vẫn ở mức trên dưới 40%, trong khi
ICOR của khu vực này cao gấp rưỡi hệ số chung của cả nước. Năng suất lao
động xã hội của Việt Nam năm 2010 đạt 40,3 triệu đồng/người, chỉ tương
đương với 2.067 USD, thấp xa so với các con số tương ứng của một số nước
(năm 2008 của Brunei 72.500 USD, Singapore 62.724 USD, Hàn Quốc
38.235 USD, Malaysia 17.718 USD, Thái Lan 6.915 USD, Trung Quốc
5.460 USD, Indonesia 4.597 USD, Philippines 4.535 USD, Ấn Độ 2.706
USD...).
3. Tổng thu ngân sách/GDP của Việt Nam thuộc loại khá cao (mấy
năm nay đạt trên dưới 28%), nhưng thu từ dầu thô, từ hải quan, thu từ đất
đai là những khoản không trực tiếp phản ánh hiệu quả kinh tế và có xu
hướng giảm (thu từ dầu thô năm 2005 chiếm 29,2%, 6 tháng đầu năm 2011

chiếm 13,9%; thu từ hải quan, tương ứng chiếm 16,7% và 22,5%; thu từ đất
đai chiếm khoảng 6-7%). Bội chi ngân sách/GDP từ năm 2006 trở về trước ở
mức thấp, nhưng từ năm 2007 đến nay ở mức cao, tuy đã có xu hướng giảm
xuống trong vài năm nay, nhưng vẫn thuộc loại cao. Trong tổng chi ngân
sách, tỷ trọng chi cho đầu tư, chi cho lĩnh vực xã hội là cần thiết, nhưng
thuộc loại cao, nhất là chi cho đầu tư cơng-thể hiện Nhà nước cịn “ơm”
nhiều q mà cần khuyến khích các nguồn lực xã hội.
4. Tiền tệ là nguyên nhân trực tiếp và bộc lộ ra cuối cùng của lạm
phát. Tốc độ tăng dư nợ tín dụng cao gấp nhiều lần tốc độ tăng GDP. Năm
2010 so với năm 2000, tín dụng cao gấp trên 13,7 lần, trong khi GDP chỉ
gấp trên 2 lần; hệ số giữa tốc độ tăng của tín dụng và của GDP lên đến trên
6,2 lần-một hệ số rất cao. Do vậy, dư nợ tín dụng/GDP đã ở mức khoảng
125%, cao gấp đơi con số tương ứng của nhiều nước. Cùng với tăng trưởng
tín dụng là tăng trưởng tổng phương tiện thanh tốn, mà tổng phương tiện


thanh tốn của Việt Nam khơng chỉ là tiền đồng mà cịn có vàng, có ngoại
tệ.
5. Tình trạng vàng hóa và Đơ la hóa khá cao, tác động tiêu cực đối với
lạm phát trên 4 mặt: hút vào đây một lượng vốn lớn của xã hội mà không
được đầu tư trực tiếp cho sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm để cân đối với
tiền; Vàng và USD trở thành phương tiện thanh toán, làm cho tổng phương
tiện thanh toán tăng lên; Giá vàng trong nước biến động, nhiều lần cao hơn
giá vàng thế giới, tác động tới nhập lậu, kéo tỷ giá biến động theo. Khi giá
vàng và tỷ giá tăng cao lại tác động đến tâm lý, đến lòng tin vào đồng nội
tệ...; Tỷ giá tăng tuy khuyến khích xuất khẩu, nhưng lại làm khuyếch đại lạm
phát ở trong nước và đây là yếu tố làm cho lạm phát của Việt Nam cao hơn
lạm phát của thế giới; làm tăng nợ quốc gia khi tính bằng VND.
6. Việc thực hiện lộ trình giá thị trường khi chuyển sang kinh tế thị
trường là tất yếu, đúng hướng, là một nội dung quan trọng của đường lối đổi

mới. Tuy nhiên, kết quả của việc thực hiện lộ trình này nếu thực hiện dồn
dập cùng một lúc sẽ tạo ra mặt bằng giá mới cao hơn, như đã từng xảy ra
trong thời kỳ lạm phát phi mã, hay vào tháng 2-3 vừa qua.
7. Giá cả thế giới tăng là một trong những yếu tố quan trọng tác động
đối với lạm phát ở trong nước xét trên các góc độ khác nhau. Tỷ lệ xuất,
nhập khẩu/GDP của Việt Nam đã tăng nhanh và hiện ở mức khá cao (năm
2000 đạt 96,5%, năm 2005 đạt 130,8%, năm 2010 đạt 154,4%, khả năng
năm 2011 sẽ cịn cao hơn)-tức là có độ mở khá cao, đứng thứ 5 thế giới-nên
biến động giá cả trên thế giới sẽ tác động nhiều đến biến động giá ở Việt
Nam hơn các nước khác. Giá thế giới tăng sẽ làm cho chi phí đẩy ở trong
nước tính bằng VND tăng kép: vừa tăng do đơn giá tính bằng USD tăng, vừa
tăng do tính bằng VND tăng.
8. Ngồi ra, cũng cần tính đến sự chuyển động của dịng tiền giữa các
kênh đầu tư. Từ quý II/2007, thị trường chứng khoán sau khi lên đỉnh đã đao
xuống mạnh, làm cho một lượng tiền lớn từ kênh này chuyển sang làm cho
giá bất động sản bốc lên và giá tiêu dùng tăng cao vào cuối năm 2007, đạt
đỉnh điểm vào năm 2008. Giá vàng, giá bất động sản tăng cao vào năm
2009, đầu năm 2010 cũng đã hút một lượng tiền lớn vào đây, nên CPI cũng
tăng chậm lại. Từ cuối 2010, chứng khốn và bất động sản đều giảm, góp
phần làm cho sức ép tăng giá tiêu dùng cao lên. Sự chuyển động của dịng
tiền giữa các kênh cũng góp phần tạo lên sự cộng hưởng và chia sẻ dòng tiền
với thị trường tiêu dùng.
II. Dự báo lạm phát ờ Việt Nam thời gian tới và các giải pháp
Năm 2011, khi đối mặt với sự gia tăng lạm phát và những vấn đề bất
ổn vĩ mô, Việt Nam đã phải tập trung nguồn lực để quyết liệt chống lạm
phát. Có thể khẳng định đến thời điểm này, mục tiêu kiềm chế lạm phát 18%


trong cả năm 2011 là khả thi. Đây là mức lạm phát khá cao trong bối cảnh
tăng trưởng 2011 của Việt Nam chỉ đạt khoảng 6%. Tuy nhiên, với những gì

đã diễn ra trong nửa đầu năm 2011, có thể nói con số trên đã phần nào phản
ánh những thành cơng trong nỗ lực của Chính phủ nhằm duy trì một mức
tăng trưởng khá đồng thời ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát trong
bối cảnh kinh tế thế giới đang khủng hoảng và suy thoái.
Năm 2012 được dự báo là cịn nhiều khó khăn nghiêm trọng kéo dài.
Trong hồn cảnh đó, nền kinh tế phải tạo bước ngoặt để xoay chuyển tình
hình với rất nhiều địi hỏi: ổn định vững chắc, không để lạm phát tái diễn và
hạ thấp ở mức 1 con số. 2012 còn là năm tái cấu trúc nền kinh tế với các
hành động chiến lược để thay đổi mơ hình tăng trưởng... Với tất cả những
u cầu đó, điều quan trọng trong chính sách và điều hành kinh tế 2012 là
phải củng cố được lòng tin của người dân và DN. Năm 2011, khi đối mặt với
sự gia tăng lạm phát và những vấn đề bất ổn vĩ mô, Việt Nam đã phải tập
trung nguồn lực để quyết liệt chống lạm phát. Với những chính sách thắt
chặt, cho đến cuối năm, những kết quả bước đầu đã chứng tỏ Chính phủ đã
thành cơng trong kiểm chế lạm phát. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, thành
cơng lớn hơn chính là Chính phủ đã cho thấy những thay đổi trong nhận
thức. Những hành động quyết liệt trong chính sách đầu tư và tiền tệ đã cho
thấy điều đó. Hơn thế, dù có những tác động từ chính sách, Chính phủ vẫn
vẫn kiên định mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định vĩ mô . Đặc biệt, trong
khi xây dựng chính sách 2012, chủ trương này tiếp tục được khẳng định sẽ
triển khai quyết liệt. Hơn thế, Chính phủ đã khởi động tái cơ cấu nền kinh tế
và đặt nó là nhiệm vụ quan trọng, là động lực cho sự tăng trưởng mới. Vì
thế, dù cịn nhiều khó khăn thì chính sách này đã tạo ra niềm tin cho cộng
đồng DN và người dân về định hướng và sự phát triển trong thời gian tới.
Năm 2012 bối cảnh thế giới được các chuyên gia đánh giá là cịn
nhiều khó khăn, nhất là nợ EU và khó khăn của Mỹ, Nhật Bản. Tình hình
cịn nhiều bất định, các dự báo thay đổi liên tục nhưng chiều hướng chung là
tăng trưởng chậm lại, bất ổn tăng, không thuận lợi cho tăng trưởng của Việt
Nam; tình trạng mất cân bằng toàn cầu tăng lên. Xung đột giữa tỷ giá các
đồng tiền lớn sẽ dịch chuyển các nguồn lực và dẫn tới dịch chuyển sức mạnh

giữa các quốc gia. Nguy cơ giá lương thực tăng cao do lũ lụt ở Thái Lan và
Iran bị cấm vận có thể đẩy giá dầu mỏ ở mức rất cao. Trên những khía cạnh
đó, các chuyên gia cho rằng mục tiêu và hành động của Việt Nam trong năm
2012 nên là ổn định và khơi phục lịng tin, xác lập mơ hình tăng trưởng mới.
Vừa qua, quốc hội đã thông qua Nghị quyết về kế hoạch phát triển
KT-XH năm 2012, tán thành phương án đề nghị của Chính phủ điều hành
chỉ số giá tiêu dùng CPI tăng dưới 10%. Các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu được
thống nhất thông qua bao gồm: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng


khoảng 6% - 6,5%, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 13%; nhập siêu khoảng
11% - 12% trên tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong điều kiện cho phép, phấn
đấu giảm nhập siêu xuống dưới 10% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Thời gian gần đây, các chuyên gia và các tổ chức kinh tế lớn đã đưa ra
những dự đoán về lạm phát của Việt Nam thời gian tới. Trong đó các chuyên
gia đều đồng tình cho rằng lạm phát của Việt Nam trong năm 2012 sẽ dao
động xung quanh mốc 10%. Các chuyên gia của WB(World Bank) cho rằng
bức tranh kinh tế Việt Nam sẽ “sáng màu” hơn. Tổ chức này dự báo tăng
trưởng GDP năm tới sẽ đạt mức khoảng 6,1%, trong khi lạm phát sẽ giảm về
khoảng 10,5%. Credit Suisse dự báo lạm phát năm 2012 là 10,1%; Standard
Chartered dự báo mức lạm phát của Việt Nam năm 2012 là 11,3% và rồi
giảm xuống còn 8% vào năm 2013.
Giải pháp
Để đạt được các mục tiêu và dự báo đó, Việt Nam cần có những giải
pháp cụ thể. Có thể kể đến các giải pháp cần được thực hiện quyết liệt và sát
sao, đó là: Thứ nhất, tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ. Thứ hai,
tăng cường cơng tác quản lý giá cả phù hợp với cơ chế thị trường. Thực hiện
quản lý nhà nước về giá đối với một số hàng hóa, dịch vụ độc quyền phù
hợp với cơ chế thị trường và nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế bằng
các biện pháp giám sát thị trường, kiểm sốt chi phí, áp thuế. Thứ ba, tái cơ

cấu nền kinh tế gắn bó chặt chẽ với đổi mới mơ hình tăng trưởng theo hướng
nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Thứ tư, tạo động lực từ
áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ cao để tăng sức cạnh tranh của
sản phẩm. Thứ năm, thúc đẩy phát triển sản xuất trong nước. Thứ sáu, tăng
cường cơng tác phân tích, dự báo tình hình thế giới, khắc phục triệt để
nguyên nhân lạm phát do yếu tố tâm lý. Trên đây chỉ là những giải pháp
mang tính chung nhất và có tính duy trì lâu dài trong bối cảnh thế giới tiếp
tục diễn biến như hiện nay. Trong thực tế, tùy thuộc vào tình hình thế giới có
thể có nhiều thay đổi mà Việt Nam cũng cần có những thay đổi linh hoạt để
phù hợp với nền kinh tế thế giới.


Kết luận
Lạm phát được xem là sự gia tăng liên tục của mức giá chung trong
nền kinh tế trong một thời gian dài. Bản chất của lạm phát thuần túy là một
hiện tượng kinh tế, nên khi nghiên cứu và xem xét lạm phát phải xuất phát từ
góc độ kinh tế, thì mới có thể đi sâu vào nó. Trên thực tế, ở các nước khác
nhau, trong từng thời kỳ, giai đoạn khác nhau thì cơ chế biểu hiện cũng như
nguyên nhân gây ra nó và những tác động của nó đến các nền kinh tế là khác
nhau. Vì vậy, các nước sẽ có những chính sách về lạm phát phù hợp với điều
kiện và các mục tiêu kinh tế-xã hội ở hiện tại cũng như trong tương lai của
nước mình .
Những vấn đề cơ bản của lạm phát đã được trình bày ở trên có thể
giúp người đọc hiểu một cách tổng quan về lạm phát. Để có cái nhìn sâu hơn
về lạm phát thì phải nghiên cứu nó trong thực tế với những hình thái, diễn
tiến khác nhau ở những nền kinh tế thị trường khác nhau. Ổn định lạm phát
là một hành vi của Chính phủ và Ngân hàng nhà nước khi có lạm phát xảy
ra. Muốn bình ổn hiệu quả thì nên tìm ra những nguyên nhân của lạm phát
và từ đó có những liệu pháp thích hợp. Điều cần khẳng định ở đây là khơng
có liệu pháp nào hồn hảo, mọi liệu pháp đều có giá phải trả của nó, quan

trọng là chúng ta sẽ chấp nhận hi sinh cái gì và để đạt được điều gì.
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới nói chung đang gặp nhiều khó
khăn, vẫn cịn những dấu hiệu của khủng hoảng và suy thối, đồng thời Việt
Nam có một nền kinh tế thị trường còn non trẻ, gặp nhiều khó khăn do q
khứ để lại thì cần thiết Chính phủ và Ngân hàng trung ương cần có những
chính sách điều hành kinh tế vĩ mơ, chính sách tiền tệ chặt chẽ và điều hành
sát sao để ổn định nền kinh tế vĩ mơ, duy trì mục tiêu tăng trưởng và quan
trọng là kiềm chế được lạm phát
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều cho việc thực hiện đề án này, song trong
quá trinh thực hiện không tránh khỏi sai sót, em rất mong thầy cơ góp ý,
chỉnh sửa để bài viết của em trở nên hoàn thiện hơn.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô, đặc biệt là TS. Cao
Thị Ý Nhi đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề án này!


Danh mục tài liệu tham khảo
-Giáo trình Lý thuyết tài chính-tiền tệ, tác giả: TS. Nguyễn Hữu Tài, chương
Lạm phát-tiền tệ
-Giáo trình Nghiệp vụ Ngân hàng trung ương, tác giả: Hoàng Xuân Quế
-Tiền tệ và hoạt động ngân hàng, tác giả: Lê Vinh Danh, chương Lạm phát
-Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính(bản dịch), tác giả: Frederic
Mishkin, chương Lạm phát
-Các địa chỉ tham khảo trên mạng internet:
Trang web bách khoa toàn thư mở
/>Trang web ngân hàng nhà nước Việt Nam
/>Trang web tổng cục thống kê
/>



×