Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CỦA KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ LÀ YẾU TỐ QUAN TRỌNG ĐỂ PHÁT TRIỂN chất lượng nguồn nhân lực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.3 KB, 8 trang )

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CỦA KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ LÀ YẾU TỐ QUAN TRỌNG ĐỂ PHÁT TRIỂN
CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC
Nguyễn Thị Hồng Thoa
I. Đặt vấn đề
Khả năng cạnh tranh của nguồn nhân lực của mỗi quốc gia phụ thuộc rất
nhiều vào quá trình đào tạo của hệ thống giáo dục Đại học và Cao đẳng. Tại đó,
sinh viên không chỉ cần có những năng lực nhận thức cơ bản về chuyên môn mà họ
còn cần phải được rèn luyện những kĩ năng sống, làm việc trong môi trường thực
luôn thay đổi và nhiều thử thách. Những sinh viên tốt nghiệp ra trường phải thể hiện
được những năng lực được đánh giá bằng các thang đánh giá phù hợp với các tiêu
chuẩn chất lượng.
Tuy nhiên, thực tế hiện nay lại cho thấy một bộ phận không nhỏ sinh viên sau
khi ra trường không đáp ứng được các yêu cầu của xã hội, thể hiện ở việc phần trăm
sinh viên có việc làm đúng chuyên môn được đào tạo còn rất thấp mà nguyên do là
không đủ năng lực để phục vụ các nhiệm vụ thực tế. Điều này cho thấy sự bất cập
trong vấn đề kiểm tra đánh giá kết quả học tập của sinh viên thực sự là một điều rất
đáng quan tâm.
Hiện nay, nhiều trường Đại học và Cao đẳng trong cả nước đã đề ra nhiều
giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo. Theo đó, bên cạnh việc đổi mới, hoàn thiện
nội dung, chương trình đào tạo và phương pháp giáo dục thì tất yếu phải đổi mới
hình thức và phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập của sinh viên để phản
ánh đúng hơn chất lượng đào tạo sinh viên. Đây là cơ sở để các tổ chức xã hội có
thể lấy làm căn cứ trong việc thu nhận sinh viên ra trường đáp ứng được các yêu
cầu khác nhau của nguồn nhân lực có chất lượng.
II. Thực tiễn hệ thống kiểm tra đánh giá kết quả học tập tại trường Đại học
Hùng Vương hiện nay
Hiện nay, trong quy định trường Đại học Hùng Vương đã triển khai hệ thống
kiểm tra đánh giá kết quả học tập của sinh viên đang theo học tại trường theo hệ
thống tín chỉ, cụ thể như sau:
- Đối với các học phần chỉ có lí thuyết hoặc có cả lí thuyết và thực hành thì:
+ Trọng số của điểm thi kết thúc học phần là 70%, trung bình cộng của các


điểm còn lại được gọi là điểm đánh giá bộ phận, có trọng số 30%.
+ Số bài kiểm tra: tùy thuộc vào khối lượng từng học phần.
+ Ngoài thi và kiểm tra, tùy theo từng học phần giảng viên có thể lựa chọn
các hình thức đánh giá khác (thảo luận, tiểu luận, chuyên cần…) và phải được quy
định trong đề cương chi tiết học phần.
- Đối với các học phần thực hành, thí nghiệm: điểm trung bình cộng của điểm
các bài thực hành, thì nghiệm trong học kì. Nếu tổ chức thi thì điểm học phần là
điểm trung bình cộng của các điểm thành phần có trọng số tương ứng.
- Đối với học phần thực địa, thực tế, thực tập nghề, thực tập tốt nghiệp…:
việc tổ chức đào tạo và đánh giá kết quả học tập được quy định cụ thể trong các văn
bản riêng.
Như vậy, có thể thấy, hiện nay trường Đại học Hùng Vương cũng đã và đang
triển khai các hình thức kiểm tra – đánh giá theo hướng tiếp cận với năng lực của
người học, thể hiện ở điểm: đã sử dụng phối hợp nhiều hình thức kiểm tra đánh giá
kết quả học tập của sinh viên trong trường.
Tuy nhiên, qua thực hiện thì xuất hiện một số điều bất cập, chưa thực sự hợp
lí:
- Hình thức thi, kiểm tra: chủ yếu vẫn là thi viết, thi vấn đáp và trắc nghiệm khách
quan.
+ Đề thi viết có thời gian có thể từ 60 phút đến 150 phút tùy thuộc khối lượng
của học phần, các vấn đề nêu ra trong đề nhiều nhất là 5 câu hỏi.
+ Đề thi vấn đáp có tối thiểu 2 câu hỏi nhưng thời lượng kiến thức và thời
gian kiểm tra cho sinh viên càng eo hẹp hơn, mỗi sinh viên được chuẩn bị trong thời
gian khoảng 10 phút và được trả lời trong thời gian từ 5 – 7 phút.
+ Đề trắc nghiệm có số lượng câu hỏi nhiều hơn, nhiều hình thức câu hỏi
hơn, bao quát phần kiến thức rộng hơn.
Hình thức thi và kiểm tra chưa phong phú, chủ yếu vẫn là thi viết hoặc vấn
đáp.
- Nội dung thi và kiểm tra: chủ yếu nhằm mục đích kiểm tra mức độ ghi nhớ
kiến thức mà sinh viên đã được học. Cao hơn là mức độ hiểu, khả năng giải thích

hoặc suy diễn thông tin tư liệu đã được học. Việc đánh giá về kĩ năng cũng mới chỉ
đạt được là việc lặp lại một kĩ năng nào đó hoặc hoàn thành một số kĩ năng theo chỉ
dẫn. Do vậy, nhiều sinh viên bỏ tiết không đi học nhưng vẫn thi được nhờ học thuộc
lòng (học vẹt, không cần hiểu).
- Phương pháp đánh giá sinh viên chưa thực sự động viên được sinh viên
phấn đấu vươn lên trong học tập. Việc đánh giá sinh viên của mỗi giảng viên chưa
thực sự đồng nhất, còn nhiều khác biệt giữa các môn khác nhau.
III. Một số biện pháp nhằm đổi mới nâng cao chất lượng kiểm tra đánh giá
Lí luận dạy học đại học đã chỉ ra rằng kiểm tra đánh giá là công đoạn quyết
định của quá trình dạy học. Kiểm tra đánh giá giúp giáo viên biết được hiệu quả và
chất lượng giảng dạy, điều chỉnh nội dung và phương pháp dạy học, giúp người học
biết được chất lượng học tập của bản thân, điều chỉnh phương pháp học, giúp nhà
quản lí ra quyết định về kết quả học tập của người học, điều chỉnh chương trình đào
tạo và tổ chức dạy học. Trong bối cảnh và nội hàm chất lượng đã trình bày, việc đổi
mới hình thức, phương pháp kiểm tra đánh giá trong trường đại học là cần thiết và
cấp bách. Tuy nhiên để việc đổi mới kiểm tra đánh giá có hiệu quả phải tuân theo
một số nguyên tắc cơ bản sau:
- Phải kiểm tra đánh giá theo mục tiêu đào tạo của từng môn học, đồng thời
phải kiểm tra đánh giá theo các bậc nhận thức, các bậc kĩ năng và các bậc của năng
lực tư duy mà môn học dự kiến người học phải đạt được sau khi học.
- Cần áp dụng nhiều hình thức, phương pháp kiểm tra đánh giá khác nhau,
đặc biệt cần chú trọng và ưu tiên hơn cho các hình thức: bài tập lớn, tiểu luận, tổng
luận môn học. Việc kiểm tra phải được tiến hành thường xuyên trong quá trình dạy
học.
- Kết quả kiểm tra đánh giá phải được sử dụng để đánh giá chất lượng giảng
dạy, chất lượng học tập và chất lượng đào tạo (chất lượng chương trình, nội dung,
phương tiện và tổ chức đào tạo).
Theo đó, đổi mới hình thức và phương pháp kiểm tra đánh giá, theo tôi nên
có những việc làm cụ thể như sau:
1. Áp dụng nhiều hình thức thi, kiểm tra một cách linh hoạt và phù hợp. Mỗi

hình thức đều có những ưu, nhược điểm riêng nên cần phải căn cứ vào đặc trưng
môn học, đặc trưng nghề nghiệp tương lai, khối lượng kiến thức mà chúng ta có sự
lựa chọn, phối hợp vận dụng linh hoạt các hình thức nhằm đạt được hiệu quả cao và
công bằng.
2. Nội dung thi phải đảm bảo toàn diện, gắn liền lí luận với thực tiễn, tránh
tình trạng chỉ tái hiện đơn thuần lí thuyết mà thiếu tính vận dụng sáng tạo. Điều này
có thể làm được nếu giáo viên tích cực thiết kế các đề thi mở, tạo điều kiện cho sinh
viên thể hiện vốn hiểu biết của mình cũng như tạo điều kiện cho họ được rèn luyện
kĩ năng nghiệp vụ và được bộc lộ các khả năng tư duy phong phú của mình.
3. Tùy thuộc đặc trưng của từng môn học, cho phép lựa chọn trọng số điểm
kiểm tra và điểm thi kết thúc học phần phù hợp nhằm đảm bảo tính chính xác đồng
thời cũng tạo động lực thúc đẩy sự thi đua học tập ở sinh viên.
4. Quan tâm, chú trọng hơn đến các hình thức kiểm tra đánh giá: tiểu luận,
bài tập lớn, tổng luận môn học. Bởi vì các hình thức này có ưu thế trong việc phát
triển tư duy độc lập, sáng tạo, phản ánh khả năng thao tác của người học một cách
cụ thể và rõ ràng. Chúng đòi hỏi khả năng tự học, tự tìm kiếm thông tin, xử lí thông
tin và phương pháp giải quyết vấn đề của sinh viên và nó phải trải qua một thời gian
cần thiết. Nếu được thiết kế đúng mục tiêu và có sự quan tâm, chú trọng đúng mức
của giáo viên (không để cơ hội cho sinh viên sao chép tài liệu đơn thuần) thì khi
sinh viên thực hiện nghiên cứu các đề tài sẽ phải thực hiện tối đa nhất những năng
lực tư duy và năng lực thao tác của bản thân mà nhờ đó các năng lực độc lập và
sáng tạo thể hiện và phát triển. Bên cạnh đó, sinh viên cũng phải tập trung thời gian
để hoàn thành các bài kiểm tra này nên tránh được thời gian nhàn rỗi, mùa vụ như
các hình thức kiểm tra, đánh giá khác. Kết quả của các báo cáo đề tài này cho phép
giáo viên có thể đánh giá được sinh viên về mức độ nhận thức về kiến thức, kĩ năng,
đặc biệt là đánh giá được khả năng thao tác tư duy độc lập và khả năng sáng tạo
trong học tập và nghiên cứu của sinh viên. Đây cũng chính là mục tiêu cao nhất của
giáo dục đại học.
5. Kết hợp kiểu đánh giá truyền thống và kiểu đánh giá thực.
Đánh giá thực được hiểu là hình thức mà người học được yêu cầu thực hiện

những nhiệm vụ thực sự diễn ra trong cuộc sống đòi hỏi phải vận dụng một cách có
ý nghĩa kiến thức và kĩ năng thiết yếu. Đặc trưng của hình thức này:
+ Yêu cầu sinh viên phải kiến tạo một sản phẩm chứ không phải chọn hay
viết ra một câu trả lời đúng
+ Đo lường cả quá trình và cả sản phẩm của quá trình đó
+ Trình bày một vấn đề thực, cho phép sinh viên bộc lộ khả năng vận dụng
kiến thức vào tình huống thực tế.
+ Cho phép sinh viên bộc lộ quá trình học tập và tư duy của học thông qua
việc thực hiện bài thi.
Ưu việt của hình thức đánh giá này, đó là:
+ Đánh giá thực yêu cầu sinh viên thể hiện sự hiểu biết thông qua việc hoàn
thành nhiệm vụ.
+ Đánh giá thực yêu cầu sinh viên trình diễn năng lực của học trong một công
việc cụ thể
+ Đánh giá thực thường yêu cầu sinh viên phải phân tích, tổng hợp một cách
có phê phán những kiến thức học học được trong bối cảnh thực và trong quá trình
đó họ sáng tạo ra ý tưởng mới.
Kiểu đánh giá thực này bổ sung cho kiểu đánh giá truyền thống đã có trước
đó, tuy nhiên nó có nhiều điểm ưu việt hơn. Ta có thể so sánh đặc trưng của hai kiểu
đánh giá này như sau:
Đánh giá truyền thống Đánh giá thực
Lựa chọn/viết câu trả lời Trình diễn hoàn thành 1 nhiệm vụ
Mô phỏng Trong đời sống thực
Tái hiện / tái nhận Kiến tạo / vận dụng
Do giảng viên làm Do sinh viên làm
Minh chứng gián tiếp Minh chứng trực tiếp
Một trong những chức năng cơ bản của đánh giá là định hướng. Hai kiểu
đánh giá có tác động không nhỏ tới việc sử dụng các phương pháp dạy học khác
nhau để có thể hoàn thành bài thi. Theo mô hình đánh giá truyền thống, giảng viên
được khuyến khích dạy học để sinh viên trả lời được những kiểu câu hỏi thường

gặp trong các bài kiểm tra – thi khác nhau.
Thông thường, 1 bài thi truyền thống chỉ bao gồm một số mẫu kiến thức nhất
định trong vô số kiến thức, kĩ năng được dạy trong chương trình, để rồi từ đó phỏng
đoán mức độ nắm vững kiến thức về tất cả những gì liên quan. Nếu giảng viên trong
quá trình dạy học tập trung chủ yếu vào các mẫu kiến thức sẽ được thi thì việc
trình diễn tốt kiến thức có liên quan tới những mẫu đó không có nghĩa đã phản
ánh kiến thức về toàn bộ môn học. Do vậy, những mẫu kiến thức sẽ có trong bài thi
bao giờ cũng được bảo mật nghiêm ngặt, và kết quả là giảng viên không được phép
dạy những gì sẽ thi.
Với mô hình đánh giá thực, giảng viên được khuyến khích để dạy những gì
sinh viên phải thi để họ thi tốt. Sinh viên cần học để thực hiện tốt những nhiệm vụ
có ý nghĩa thực. Để hỗ trợ sinh viên thực hiện tốt những nhiệm vụ này, trong quá
trình giảng dạy, giảng viên cần chỉ cho sinh viên biết cách thực hiện nào là tốt,
cách nào là không tốt. Ngoài ra, trước đó, sinh viên còn được cung cấp một bản
liệt kê những tiêu chí cần đạt để được đánh giá cao nhất. Và một khi sinh viên biết
thế nào là hoàn thành tốt một nhiệm vụ, biết những dấu hiệu (minh chứng) đặc trưng
của việc hoàn thành tốt nhiệm vụ, họ sẽ phát huy những kiến thức, kĩ năng cần thiết
đã được học để hoàn thành tốt nhiệm vụ đó. Ngoài ra, đánh giá đích thực còn
khuyến khích tích hợp việc dạy - học với kiểm tra – đánh giá. Đánh giá truyền
thống thường tách rời khỏi quá trình dạy học, tức là bài trắc nghiệm (bài thi,
kiểm tra) chỉ được tiến hành khi các kiến thức, kĩ năng đã được giảng dạy xong.
Trong mô hình đánh giá thực, một nhiệm vụ thực được dùng để đo lường, đánh
giá năng lực vận dụng kiến thức của sinh viên, đồng thời, cũng được dùng như một
phương tiện để sinh viên học tập. Thí dụ, khi đưa ra một vấn đề để sinh viên giải
quyết, sinh viên sẽ học được nhiều điều trong quá trình tìm ra các giải pháp, còn
giảng viên hỗ trợ sinh viên trong quá trình đó. Và các giải pháp do sinh viên tìm
ra để giải quyết vấn đề trở thành bài làm giúp giảng viên đánh giá sinh viên đã
vận dụng kiến thức một cách có ý nghĩa như thế nào. Mặt khác, đánh giá thực là
động lực để sinh viên thể hiện những cách thức hoàn thành một nhiệm vụ một
cách đa dạng. Những sinh viên khác nhau có những điểm mạnh, điểm yếu khác

nhau, do vậy, họ cũng có những cách trình diễn những gì họ học được bằng những
cách khác nhau. Trong mô hình đánh giá truyền thống, sinh viên ít có cơ hội để
trình diễn những gì họ học được bằng nhiều cách khác nhau.
Tuy nhiên, bài thi viết (trắc nghiệm, tự luận) hoặc vấn đáp được thiết kế tốt
cho phép xác định vị trí của từng sinh viên so với những sinh viên khác trong cùng
một lĩnh vực.
Như đã nói ở trên, 2 kiểu đánh giá truyền thống và đánh giá thực không loại
trừ nhau, mà bổ sung cho nhau, đảm bảo có những kiểu đánh giá đa dạng, nhiều
biến thể để sao cho đủ số mẫu cần thiết và đủ các công cụ đo để có thể đo lường
đánh giá chính xác kết quả học tập của sinh viên, để giúp họ tiến bộ không ngừng
và đặc biệt là giúp họ gắn kết những kiến thức, kĩ năng học được trong nhà trường
với đời sống thực và khi họ ra trường họ sẽ sẵn sàng tham gia vào cuộc sống lao
động.
Một bài đánh giá thực được tiến hành theo 4 bước:
- Bước 1. Xác định chuẩn - điều sinh viên cần và có thể thực hiện. Xác định
chuẩn là xác định những điều sinh viên cần biết và có thể làm được. Có 3 loại chuẩn
là chuẩn nội dung, chuẩn quá trình, chuẩn giá trị.
- Bước 2. Xây dựng nhiệm vụ - điều sinh viên phải thực hiện để chứng tỏ đã đạt
chuẩn. Nhiệm vụ thực là một bài tập được thiết kế để đánh giá năng lực vận dụng
kiến thức, kỹ năng do chuẩn xác định và giải quyết những thách thức trong thế giới
thực. Trong nhà trường, thường chúng ta chỉ quan tâm đến lượng kiến thức mà
sinh viên thu nhận được chứ ít khi đánh giá được họ sẽ sử dụng những kiến thức đó
trong cuộc sống ra sao. Do vậy một bài thi chỉ có ý nghĩa khi nó yêu cầu sinh viên
thực hiện một nhiệm vụ thực. Những kiểu nhiệm vụ thực có thể là: Câu hỏi kiến tạo,
Bài tập thực - sản phẩm.
- Bước 3. Xác định các tiêu chí - những dấu hiệu đặc trưng cho việc thực hiện
tốt nhiệm vụ. Tiêu chí là những chỉ số (những đặc trưng) của việc hoàn thành tốt
nhiệm vụ, giúp trả lời câu hỏi: Chúng ta sẽ đánh giá sinh viên hoàn thành nhiệm vụ
đó như thế nào? Để trả lời câu hỏi này cần xây dựng những tiêu chí đặc trưng
riêng cho việc hoàn thành tốt nhiệm vụ. Giảng viên sẽ dùng các tiêu chí này để đánh

giá sinh viên đã hoàn thành nhiệm vụ ở mức nào, tức là họ đáp ứng chuẩn ở mức
nào.
- Bước 4. Xây dựng bảng hướng dẫn nhằm phân biệt các mức độ hoàn thành,
mức độ đạt được các tiêu chí. Bản hướng dẫn (kèm biểu điểm) là bản cung cấp
những miêu tả hoặc các chỉ số thực hiện chỉ từng mức độ hoàn thành nhiệm vụ
ứng với các tiêu chí (đồng thời là điểm số cho các tiêu chí đó ở mức đó). Như vậy
bản hướng dẫn giúp đánh giá chính xác mức độ đạt chuẩn của sinh viên và cung cấp
thông tin phản hồi để họ tiến bộ không ngừng.
Đánh giá thực không loại trừ đánh giá truyền thống mà chỉ là sự bổ sung
hoàn hảo giúp người dạy cũng như người học gắn kết những kiến thức, kỹ
năng được học trong trường với cuộc sống thực, giúp người học có ý thức hơn với
những nhiệm vụ mà họ sẽ phải thực hiện khi tốt nghiệp. Quá trình dạy học trong
trường cũng nhờ đó mà trở nên sống động hơn, giảng viên sẽ tìm tòi, sáng tạo hơn
để tìm ra các bài tập hay, hỗ trợ sinh viên thực hiện các nhiệm vụ đó. Sinh viên sẽ
khát khao hơn trong quá trình tiếp nhận tri thức, rèn luyện kỹ năng để làm một việc
có ý nghĩa hơn ngay từ khi còn trên ghế nhà trường. Đương nhiên để có thể thiết
kế được 1 bộ hồ sơ đánh giá kết quả học tập của sinh viên (trong đó có những
bài đánh giá thực), để đánh giá thực sự là vì sự tiến bộ không ngừng của
người học, phải đầu tư thời gian, tiền bạc. Nhưng để giáo dục đại học đào tạo ra
nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn
mới, các nhà hoạch định chính sách, các nhà trường, các giảng viên phải
dành ưu tiên thích đáng cho kiểm tra đánh giá thực này.
IV. Kết luận
Xã hội thực tế, môi trường công việc thực tế sẽ là thước đo chính xác nhất kết
quả của giáo dục. Chính vì lẽ đó, việc đổi mới kiểm tra đánh giá sao cho phản ánh
đúng nhất chất lượng đào tạo nhất là bậc đại học, cao đẳng càng có ý nghĩa thực tiễn
và tầm quan trọng vô cùng đặc biệt.
Việc đổi mới phải tiến hành có kế hoạch, có hệ thống, cụ thể và phải đồng bộ
trong các trường và trong các khoa bộ phận trong trường. Phải thực sự đầu tư thời
gian, tâm huyết cũng như các điều kiện tài chính để sau mỗi lần đổi mới kết quả thu

được phải cho thấy sự phù hợp hơn với thực tiễn đáp ứng được các yêu cầu của xã
hội. Từ kết quả của kiểm tra đánh giá trong giáo dục đại học, xã hội có cơ sở để sử
dụng nguồn nhân lực phù hợp với đào tạo, cho ra hiệu quả công việc đạt tối ưu. Khi
bộ công cụ kiểm tra đánh giá ngày càng được hoàn thiện và đáp ứng được các tiêu
chí chuẩn mực và hợp lí thì bản thân các sinh viên và các nhà giáo dục, nhà sư
phạm sẽ có những điều chỉnh kịp thời và phù hợp sao cho nguồn nhân lực cung cấp
cho xã hội đạt được chất lượng tốt nhất.

×