Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Tổng hợp đề thi môn kỹ năng tranh tụng luật sư trong vụ việc dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (501.89 KB, 70 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
Đề thi môn: Kỹ năng tranh tụng luật sư trong vụ việc dân sự.
Mã số: LS.DS/TN-01/240
*
Chị Trần Thị Thúy và anh Trần Văn Vĩnh yêu thương nhau và quyết định tiến tới hôn nhân trên cơ sở
tự nguyện, được gia đình hai bên thừa nhận. Anh chị có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Biển
Bạch, nơi cư trú của chị Thúy cấp giấy đăng ký kết hôn vào ngày 15/5/1998.
Ngày cưới, cha mẹ chồng (cha mẹ anh Vĩnh) cho anh chị nữ trang gồm:
- 04 chỉ vàng 24k;
- 01 đôi bông tai bằng 2 chỉ vàng 9k;
Cha mẹ ruột chị Thúy cho vợ chồng chị 01 chỉ vàng 24k;
Ngoài ra, vợ chồng chị Thúy cũng tự tạo lập được 5 chỉ vàng 24k.
Toàn bộ tài sản này, sau ngày cưới, vợ chồng chị Thúy đã tiêu xài hết, chỉ còn lại đôi bông tai hiện tại
chị Thúy vẫn đang sử dụng và quản lý.
Hai vợ chồng có một con chung là Trần Anh Thư sinh ngày 18/6/1999, hiện cháu đang ở với mẹ.
Trước khi lấy nhau, anh Vĩnh được cha mẹ ruột cho một phần đất gồm 7 công đất nông nghiệp tọa
lạc tại ấp N, xã T, huyện H, tỉnh C. Sau ngày cưới, hai vợ chồng tiếp tục quản lý, sản xuất trên số công đất
này.
Một năm sau, vào năm 1999, vợ chồng anh Vĩnh được bố mẹ cho ở riêng, cha mẹ chồng tuyên bố
cho vợ chồng anh Vĩnh số đất nói trên. Sau đó, anh chị đã xây dựng một căn nhà trên diện tích đất này, phần
còn lại, hai vợ chồng tiếp tục canh tác. Năm 2000, anh chị được Ủy ban nhân dân cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đối với thửa đất đang sử dụng, với diện tích là 11.190 m
2
tờ bản đồ số 21, thửa số 38, tọa lạc tại
ấp N, xã T, huyện H, tỉnh C.
Về tình cảm, hai vợ chồng hiện tại sống ly thân, nguyên nhân là do vợ chồng thường xuyên cãi vã
mất hạnh phúc. Theo chị Thúy thì anh Vĩnh có tính ghen tuông rồi đánh đập chị. Vợ chồng thường xuyên bất
đồng quan điểm, dẫn đến mục đích hôn nhân không đạt được. Sau nhiều lần được địa phương, gia đình hòa
giải mà không được. Ngày 2/tháng 5/X anh Vĩnh và chị Thúy quyết định yêu cầu Tòa án cho họ thuận tình ly
hôn. Nếu anh Vĩnh, chị Thúy nhờ anh, chị tư vấn.
Câu hỏi 1: (1 điểm)


Vấn đề gì mà anh, chị thấy cần thiết phải trao đổi với anh Vĩnh, chị Thúy?
Câu hỏi 2: (1 điểm)
Trên cơ sở này, hãy giúp anh Vĩnh, chị Thúy viết đơn yêu cầu gửi Tòa án.
Tình tiết bổ sung
Sau khi thụ lý yêu cầu thuận tình ly hôn, qua xác minh, Tòa án được biết anh Vĩnh và chị Thúy kết
hôn năm 1998, có đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, tại Tòa án, chị Thúy cung cấp thêm thông tin là trước khi kết
hôn với chị Thúy, anh Vĩnh đã đăng ký kết hôn với chị Hồng - (một người cùng xã với anh Vĩnh). Hai người
đã có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã nơi cư trú của anh Vĩnh. Gia đình hai bên cũng có đi lại theo
đúng phong tục ở địa phương và định ngày cưới cho đôi trẻ. Trước ngày cưới, do hiểu lầm giữa hai gia đình,
nên gia đình chị Hồng không cho tổ chức lễ cưới, buộc chị Hồng phải trả lại trầu cau dạm hỏi. Sau sự kiện
này, chị Hồng bỏ đi khỏi địa phương. Anh Vĩnh cũng đã tìm kiếm chị Hồng nhưng không được. Hai năm sau,
anh Vĩnh gặp chị Thúy. Hai người đem lòng yêu nhau và sau đó đi đến hôn nhân. Sau khi cưới, anh Vĩnh và
chị Thúy đã đi đăng ký kết hôn đúng thủ tục tại Ủy ban nhân dân xã nơi cư trú của chị Thúy. Khi yêu nhau
cũng như khi cưới, chị Thúy có biết chuyện của anh Vĩnh trước khi gặp chị, nhưng cho rằng giữa anh Vĩnh và
chị Hồng chưa làm lễ cưới, chưa chung sống với nhau nên chị Thúy cũng không quan tâm.
Anh Vĩnh thừa nhận sự việc đúng như chị Thúy đã trình bày. Theo anh Vĩnh thì anh và chị Hồng đã
đăng ký kết hôn, nhưng thực tế hai người chưa chung sống với nhau, chưa là vợ chồng. Việc này địa phương
anh cũng biết rõ nên khi anh làm thủ tục đăng ký kết hôn với chị Thúy thì địa phương không gây khó khăn gì
cho anh Vĩnh.
Xác minh tại Ủy ban nhân dân xã T, nơi cư trú của anh Vĩnh, Tòa án được biết vào năm 1995, anh
Trần Văn Vĩnh có làm thủ tục đăng ký kết hôn với chị Nguyễn Thị Hồng.
Anh Vĩnh cho biết, sau khi kết hôn do không chung sống với nhau nên anh Vĩnh và chị Hồng cũng
không làm thủ tục ly hôn tại Tòa án.
Câu hỏi 3: (1 điểm)
Với tình tiết này, quan hệ hôn nhân giữa anh Vĩnh và chị Thúy sẽ được giải quyết theo thủ tục nào?
Câu hỏi 4: (1 điểm)
1
Trong trường hợp đó, việc thuận tình ly hôn đã được Tòa án thụ lý sẽ được giải quyết thế nào?
Tình tiết bổ sung
Về con, anh Vĩnh đồng ý với chị Thúy là nếu ly hôn, chị Thúy sẽ nuôi con là Trần Anh Thư, anh

Vĩnh có trách nhiệm cấp dưỡng.
Về tài sản, anh Vĩnh thừa nhận căn nhà trị giá 55.000.000 đồng là tài sản chung của vợ chồng. Anh
Vĩnh đồng ý nếu ly hôn, căn nhà sẽ chia đôi, mỗi người sử dụng một nửa căn nhà. Về thửa đất 11.190 m
2

tài sản của cha mẹ anh cho riêng anh Vĩnh từ năm 1997. Khi anh Vĩnh và chị Thúy xây nhà ở riêng thì cha
mẹ anh cho anh với chị Thúy để hai người quản lý, sản xuất tạo lập cuộc sống của vợ chồng cũng như cho
con cái sau này. Nay chị Thúy có yêu cầu ly hôn thì anh đồng ý, riêng về thửa đất thì anh không đồng ý chia
cho chị Thúy theo yêu cầu của chị Thúy mà anh sẽ trả lại đất cho bố mẹ.
Các khoản nợ chung anh chị nợ: chị Nguyễn Thị Tho 02 chỉ vàng 24k, chị Thúy có trách nhiệm trả.
Khoản nợ ông Đùm: 1,5 chỉ vàng 24k, anh Vĩnh có trách nhiệm trả.
Câu hỏi 5: (1 điểm)
Quan điểm của anh (chị) đối với tài sản chung của vợ chồng anh Vĩnh, chị Thúy?
Câu hỏi 6: (1 điểm)
Thỏa thuận về nuôi con và tranh chấp về tài sản giữa anh Vĩnh, chị Thúy có được giải quyết luôn
cùng với quan hệ hôn nhân giữa hai người hay không?
Tình tiết bổ sung
Quá trình Tòa án đang giải quyết vụ việc giữa anh Vĩnh và chị Thúy, Tòa án nhận được một đơn đề
nghị của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện H, tỉnh C. Theo đơn của Ngân hàng thì ngày
9/8/X-2 Ngân hàng có cho anh Trần Văn Vĩnh vay số tiền 85.000.000 đồng, lãi suất trong hạn là 1%, lãi suất
quá hạn là 1,5%/tháng, thời hạn vay tính đến ngày 9/8/X, bằng hình thức thế chấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số M-660711, tờ bản đồ số 21 thửa sổ 38 có diện tích 11.190 m
2
, do chị Trần Thị Thúy và anh Trần
Văn Vĩnh đứng tên chủ sử dụng.
Câu hỏi 7: (1 điểm)
Yêu cầu đòi nợ của Ngân hàng có được giải quyết trong vụ việc giữa anh Vĩnh và chị Thúy mà Tòa
án đang giải quyết hay không?
Câu hỏi 8: (1 điểm)
Nếu anh Vĩnh, chị Thúy đồng ý giải quyết luôn khoản nợ ngân hàng trong vụ án thì Tòa án có giải

quyết được không?
Tình tiết bổ sung
Về yêu cầu của Ngân hàng, chị Thúy cho biết chị có biết việc vay tiền Ngân hàng của anh Vĩnh,
nhưng đó là việc anh Vĩnh vay tiền giúp cha của anh Vĩnh là ông Đùm để mua máy cày sản xuất riêng chứ
không phải phục vụ cho cuộc sống chung giữa chị Thúy và anh Vĩnh. Theo chị Thúy, chị không có trách
nhiệm đối với khoản nợ này.
Câu hỏi 9: (1 điểm)
Quan điểm của anh, chị về việc xác định ai là người phải trả nợ cho Ngân hàng?
Tình tiết bổ sung
Về khoản nợ, anh Vĩnh cũng thừa nhận sự việc đúng như lời khai của chị Thúy, anh Vĩnh nhận trách
nhiệm trả khoản nợ này cho ngân hàng và chị Thúy không phải có trách nhiệm đối với khoản nợ.
Câu hỏi 10: (1 điểm)
Trình bày lập luận của anh (chị) về việc giải quyết yêu cầu đòi nợ của ngân hàng?
(Học viên được sử dụng các văn bản pháp luật)
2
HỌC VIỆN TƯ PHÁP
Đề thi môn: Kỹ năng tranh tụng cña LuËt s trong c¸c vụ việc dân sự
Mã số: LS.DS/TN-02/240
*
Theo đơn trình bày của chị Chiêm Thị Thanh Tâm, sinh năm 1967 thì năm 1990, chị và anh Trần
Đình Thạch cùng cư trú tại tổ 1, ấp 1, xã Nha Bích, huyện B, tỉnh T được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới
theo đúng phong tục, tập quán tại địa phương.
Sau khi lấy nhau, hai người được bố mẹ cho đất làm nhà ở riêng. Năm 1992, anh chị sinh con đầu
lòng là cháu Trần Đình Long. Một năm sau, do lỡ kế hoạch, chị Tâm sinh cháu thứ hai là Trần Thu Hoa. Do
sinh con quá gần nhau, sức khỏe chị Tâm ngày càng yếu, con cái lại thường xuyên đau ốm nên kinh tế gia
đình sa sút. Nương rẫy, ruộng vườn cũng được đầu tư trồng cây, hết củ mì, đến trồng mía, nhưng một phần
do thiên tai, phần khác là do các nhà máy chế biến không bán được sản phẩm nên không thu mua nguyên liệu
càng đẩy cuộc sống của vợ chồng vào hoàn cảnh khó khăn. Năm 1997, anh Thạch nói với chị Tâm là anh cần
phải lên thành phố tìm việc kiếm sống cho gia đình. Mặc dù chị Tâm không muốn nhưng hoàn cảnh gia đình
không thể khác được. Một hai năm đầu, anh Thạch cũng có một vài lần về thăm gia đình. Sau đó từ năm 1999

đến nay, chị Tâm không thấy anh Thạch về nhà nữa. Chị Tâm cũng đã gửi con cho ông bà nội trông để lên
thành phố tìm chồng nhưng không tìm được.
Tháng 5 năm X, chị Tâm có đơn xin ly hôn gửi Tòa án B, tỉnh T. Theo chị Tâm, là phận gái từ khi
cưới cho đến ngày hai vợ chồng có hai con chung, rồi anh Thạch ra đi, sự chờ đợi của chị cũng có giới hạn.
Xét thấy anh Thạch vô trách nhiệm với vợ con, không có thiện ý xây dựng hạnh phúc gia đình, chị Tâm tha
thiết đề nghị Tòa án cho chị được ly hôn với anh Thạch theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.
Câu hỏi 1: (1 điểm)
Anh (chị) hãy cho biết điều kiện quan trọng nhất để Tòa án có thể thụ lý yêu cầu xin ly hôn của chị
Tâm?
Tình tiết bổ sung
Năm 2003, chị Tâm nghe có người nói gặp anh Thạch ở Campuchia, anh Thạch nói anh đang tìm
đường để đi định cư ở Mỹ hoặc ở một nước nào đó. Từ đó đến nay chị Tâm không có bất kỳ một tin tức nào
của anh Thạch. Cũng vì không có tin tức gì của con, bố mẹ anh Thạch cũng đã tuyên bố từ anh Thạch, không
coi anh Thạch là con nữa. Hiện tại không ai biết anh Thạch đang ở đâu, ở Việt Nam hay ở nước ngoài.
Câu hỏi 2: (1 điểm)
Nếu được tư vấn cho chị Tâm trước khi khởi kiện yêu cầu ly hôn, anh (chị) có thể tư vấn cho chị Tâm
như thế nào?
Câu hỏi 3: (1 điểm)
Trên cơ sở này, giúp chị Tâm làm đơn yêu cầu gửi Tòa án?
Tình tiết bổ sung
Xác minh của Tòa án được biết những thông tin mà chị Tâm trình bày là đúng sự thật. Năm 1997,
anh Thạch bỏ đi khỏi địa phương và từ đó đến nay không có tin tức gì. Bản thân bố mẹ đẻ của anh Thạch hiện
cũng không biết chính xác anh Thạch đang ở đâu vì anh Thạch cũng không có liên hệ với bố mẹ. Năm 2003,
gia đình anh Thạch cũng có nhận được tin đồn hình như anh Thạch đã vượt biên ra nước ngoài. Còn chính
thức thế nào thì vợ con, bố mẹ anh Thạch đều không có tin tức gì.
Câu hỏi 4: (1 điểm)
Hãy cho biết quy định của pháp luật về việc giải quyết những yêu cầu của chị Tâm?
Tình tiết bổ sung
Sau khi trao đổi, chị Tâm đồng ý với những trao đổi của anh (chị) và đề nghị anh (chị) bảo vệ quyền
lợi của chị Tâm.

Câu hỏi 5: (1 điểm)
Căn cứ vào quy định của pháp luật hiện hành, anh (chị) hãy xác định những thủ tục cần thiết để yêu
cầu Tòa án giải quyết yêu cầu của chị Tâm?
Tình tiết bổ sung
Sau ba mươi lăm ngày, kể từ ngày thông báo tìm người mất tích được công bố trên đài truyền hình,
bố đẻ của anh Thạch là ông Trần Văn Quyết đến Tòa án trình bày: Do con ông là Trần Thạch đã bỏ nhà đi từ
năm 1997, để lại một vợ và hai con cùng bố mẹ già. Thất vọng vì không nhận được tin tức của anh Thạch,
ông bà đã nhiều lần tuyên bố từ anh Thạch. Việc chị Tâm gửi đơn xin ly hôn anh Thạch và yêu cầu Tòa án
tuyên bố anh Thạch mất tích, ông bà cũng biết và không có ý kiến gì, chỉ đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp
luật. Tuy nhiên, sau khi Tòa án có thông báo tìm kiếm người mất tích thì gia đình có nhận được tin tức của
3
anh Thạch. Cách đây một ngày, anh Thạch gọi điện về nhà một người quen, nhắn rằng hiện tại anh đã định cư
tại Canada và đang làm thủ tục xin về thăm gia đình. Khi đó anh sẽ ra trình diện tại Tòa án. Ông Quyết và gia
đình cũng chỉ nghe người quen nói lại, hiện tại gia đình cũng chưa liên hệ được với anh Thạch và anh Thạch
cũng chưa liên hệ với gia đình vì gia đình ông không có điện thoại. Nhưng ông Quyết cho biết, anh Thạch sẽ
liên hệ ngay với Tòa án trong một ngày gần đây.
Ngay sau khi có thông tin trên, Tòa án đã thông báo cho chị Tâm và yêu cầu chị Tâm rút lại yêu cầu
tuyên bố một người mất tích.
Câu hỏi 6: (1 điểm)
Anh (chị) có đồng ý với quan điểm giải quyết của Tòa án hay không?
Câu hỏi 7: (1 điểm)
Trong trường hợp khách hàng của anh (chị) cũng như bản thân anh (chị) không đồng ý với cách giải
quyết của Tòa án, anh (chị) phải làm gì?
Tình tiết bổ sung
Tháng 8/X, Tòa án nhận được thư viết của anh Thạch, gửi từ Canada. Trong thư, anh Thạch cho Tòa
biết hiện tại anh đang làm thủ tục xin về thăm gia đình, đoàn tụ cùng vợ con. Về phía chị Tâm, chị cho biết
chị cũng có nhận được tin tức về anh Thạch, nhưng chỉ là nghe nói chứ chưa được trực tiếp nhận thông tin từ
anh Thạch. Chị cho biết do anh Thạch đã bỏ rơi mẹ con chị trong nhiều năm, tình cảm và cuộc sống của chị
đã bị thương tổn quá nhiều, vì vậy chị vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn của mình với anh Thạch.
Câu hỏi 8: (1 điểm)

Theo anh (chị) yêu cầu tuyên bố người mất tích và yêu cầu xin ly hôn của chị Tâm cần được giải
quyết thế nào về mặt thủ tục là tốt nhất cho chị Tâm?
Tình tiết bổ sung
Thái độ của chị Tâm khi biết tin về anh Thạch làm nhiều người bất ngờ. Tìm hiểu thì được biết, sau
nhiều năm tìm và chờ đợi chồng mà không có tin tức, thời gian gần đây, chị Tâm có một người bạn trai.
Người đàn ông này đã giúp đỡ mẹ con chị nhiều và chị đã quyết định gắn bó cuộc đời mình với người đàn
ông mới. Có ý kiến cho rằng, với tình tiết này, chị Tâm khó có thể xin ly hôn được với anh Thạch, nhất là
thời điểm này đã có tin tức về anh Thạch.
Câu hỏi 9: (1 điểm)
Anh (chị) có đồng ý với ý kiến trên hay không?
Tình tiết bổ sung
Vào ngày Tòa án mở phiên tòa giải quyết yêu cầu xin ly hôn của chị Tâm, anh Thạch về nước và
cũng có mặt tại phiên tòa. Anh Thạch tha thiết đề nghị Tòa án giúp anh được đoàn tụ với vợ con. Phía chị
Tâm vẫn kiên quyết xin ly hôn.
Câu hỏi 10: (1 điểm)
Hãy trình bày những lập luận để bảo vệ quyền lợi cho chị Tâm?
(Học viên được sử dụng các văn bản pháp luật)
4
HỌC VIỆN TƯ PHÁP
Đề thi môn: Kỹ năng tranh tụng cña LuËt s trong c¸c vụ việc dân sự
Mã số: LS.DS/TN-03/240
*
Ngày 17/12/X-2 tại Sở giao dịch 3 - Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tại
thành phố Đ và ông Nguyễn Phước Cư địa chỉ 371 Phan Chu Trinh - thành phố Đ, ký kết một hợp đồng vay
tiền số 4120-0007/HĐ. Theo nội dung hợp đồng, Sở giao dịch 3 đồng ý cho ông Nguyễn Phước Cư vay với
số tiền 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng), thời hạn vay 6 tháng, với lãi suất 2,5%/tháng, thời hạn trả hết
nợ ngày 17/06/X-1 và có gia hạn thêm 6 tháng nữa đến ngày 17/12/X-1.
Tài sản thế chấp để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng vay giữa Chi nhánh 3 với ông
Nguyễn Phước Cư là 02 ngôi nhà: Ngôi nhà số 371 Phan Chu Trinh, thành phố Đ đứng tên ông Nguyễn
Phước Cư và bà Trần Thị Thiệp được thế chấp để bảo đảm cho số tiền vay là 220.000.000 đồng (hai trăm hai

mươi triệu đồng); Ngôi nhà tại xã Hoà Hải, huyện Hoà Vang - tỉnh Q, có số nghiệp chủ số 157HH/TLHC, do
UBND huyện Hoà Vang cấp ngày 16/07/1994 thuộc sở hữu của vợ chồng ông Nguyễn Quốc Trị và bà Võ
Thị Lý đồng ý thế chấp cho Sở giao dịch 3 để bảo lãnh số tiền vay 80.000.000 đồng (tám mươi triệu đồng)
mà ông Cư đã vay tại Sở giao dịch 3.
Ngày 17/5/X, Sở giao dịch 3 đến văn phòng Luật sư nhờ anh (chị) giúp đỡ về mặt pháp lý yêu cầu
ông Cư trả nợ gốc và lãi theo thỏa thuận hợp đồng.
Có ý kiến cho rằng việc ngân hàng nhận thế chấp tài sản của ông Nguyễn Quốc Trị và bà Võ Thị Lý
để bảo đảm khoản tiền vay của ông Nguyễn Phước Cư là không đúng thủ tục do pháp luật quy định.
Câu hỏi 1: (1 điểm)
Ý kiến của anh (chị)?
Tình tiết bổ sung
Hợp đồng thế chấp tài sản được công chứng.
Câu hỏi 2: (1 điểm)
Căn cứ vào quy định của pháp luật, bạn hãy cho biết hợp đồng thế chấp tài sản có hiệu lực pháp luật
hay không?
Tình tiết bổ sung
Trong quá trình thực hiện hợp đồng ông Nguyễn Phước Cư đã thanh toán các khoản tiền lãi hàng
tháng cho Sở giao dịch 3. Riêng về tiền gốc thì đến ngày 17/6/X-1, ông Cư đã thanh toán được số nợ gốc
220.000.000 đồng do ngôi nhà 371 Phan Chu Trinh thế chấp bảo đảm. Ngay sau khi ông Cư trả được số nợ
này, Sở giao dịch 3 đã làm thủ tục giải chấp ngôi nhà số 371 Phan Chu Trinh, thành phố Đ cho vợ chồng ông
Cư. Số tiền vay 80.000.000 đồng còn lại, sau nhiều lần được Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn gia hạn ông Cư vẫn chưa thanh toán được.
Sở giao dịch 3 ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn muốn khởi kiện ra Toà án quận H,
thành phố Đ yêu cầu ông Nguyễn Phước Cư trả số tiền 80.000.000 đồng cả nợ gốc và lãi theo hợp đồng vay
được lập ngày 17/12/X-2.
Câu hỏi 3: (1 điểm)
Hãy giúp Sở giao dịch 3 ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn viết đơn khởi kiện.
Câu hỏi 4: (1 điểm)
Xác định các giấy tờ cần thiết trong hồ sơ khởi kiện?
Tình tiết bổ sung

Tính từ ngày lập hợp đồng vay là ngày 17/12/X-2, sau khi hết hạn hợp đồng, Chi nhánh ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn đã gia hạn nhiều lần và hạn cuối cùng là ngày 17/4/X. Ngày 20/5/X là
ngày ngân hàng khởi kiện đòi nợ ra Tòa án. Ngày 17/9/X là ngày Tòa án mở phiên tòa sơ thẩm. Giả định mức
lãi suất trần của Ngân hàng Nhà nước quy định tại thời điểm này là 0,6%/tháng.
Câu hỏi 5: (1 điểm)
Hãy tính toán số tiền gốc và tiền lãi mà Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
phải thu hồi?
Tình tiết bổ sung
Ngôi nhà tại xã Hòa Hải, Hòa Vang, tỉnh Q được xây dựng trên diện tích đất là 200 m
2
, được cấp cho
ông Nguyễn Quốc Trị và bà Võ Thị Lý. Về ngôi nhà này, UBND tỉnh Q đã có quyết định số 1324 ngày
20/08/2005 thu hồi lô đất trên và hiện nay ngôi nhà cũng không còn nữa. Nhưng có ý kiến cho rằng, trường
hợp ngôi nhà trên vẫn còn tồn tại thì phía ngân hàng cũng không thể yêu cầu thanh toán khoản nợ của ông Cư
vì việc thế chấp trong trường hợp này là vô hiệu.
5
Câu hỏi 6: (1 điểm)
Quan điểm của anh (chị)?
Tình tiết bổ sung
Quá trình giải quyết vụ án, Sở giao dịch 3 phát hiện vợ chồng ông Cư có dấu hiệu bán căn nhà mà
trước đây ông bà đã thế chấp cho ngân hàng và đã được giải chấp. Sở giao dịch 3 muốn đề nghị Tòa án áp
dụng biện pháp khẩn cấp không cho ông bà Cư bán nhà. Nhưng có ý kiến cho rằng Sở giao dịch không thể
yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này.
Câu hỏi 7: (1 điểm)
Anh (chị) hãy tư vấn cho Sở giao dịch 3 về vấn đề này?
Tình tiết bổ sung
Ông Cư thừa nhận số tiền vay giữa ông và Sở giao dịch 3, số tiền đã trả cũng như số tiền còn nợ lại
của Sở giao dịch 3. Nhưng ông cho rằng ông không vi phạm hợp đồng tín dụng. Vì số tiền 80.000.000 đồng
còn nợ Sở giao dịch 3, ông Cư không có trách nhiệm phải thanh toán, mặc dù ông là người đứng tên trong
hợp đồng vay tiền và trực tiếp nhận tiền, nhưng số tiền đó do bà Lý dùng tài sản bảo lãnh với ngân hàng để

trả nợ cho ông. Theo ông Cư, sở dĩ có việc vợ chồng bà Lý dùng nhà ở để bảo lãnh cho ông Cư vay tiền ở
ngân hàng vì bà Lý có nợ ông Cư một số tiền lớn. Khi ông Cư yêu cầu bà Lý thanh toán số tiền nợ khi đến
hạn nhưng bà Lý không chịu thanh toán. Sau nhiều lần được ông Cư gia hạn nhưng bà Lý vẫn thất hẹn không
trả được nợ, ông Cư và bà Lý thỏa thuận ông Cư sẽ vay tiền ở ngân hàng, bà Lý sẽ có trách nhiệm bảo lãnh số
tiền vay bằng tài sản thuộc sở hữu của gia đình bà. Ông Cư cũng cho biết, ông Trị là chồng bà Lý cũng đồng
ý với giải pháp này. Sau đó, ông Cư đã tiến hành thủ tục tại Sở giao dịch 3 - Chi nhánh ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Đ, với việc thế chấp và bảo lãnh như đã nói ở trên.
Vì vậy, ông Cư cho rằng ông không có trách nhiệm thanh toán số tiền 80.000.000 đồng còn nợ theo
hợp đồng vay cho Sở giao dịch 3 mà bà Lý là người phải có trách nhiệm thanh toán.
Câu hỏi 8: (1 điểm)
Bạn có đồng ý với quan điểm của ông Cư hay không?
Tình tiết bổ sung
Bà Võ Thị Lý hiện đang chấp hành án tù tại trại giam có lời khai: Năm X-2, do có nợ ông Cư một
khoản tiền, nên khi ông Cư yêu cầu bà Lý phải dùng tài sản của gia đình bà để thế chấp khoản tiền vay của
ông Cư tại ngân hàng, bà Lý buộc phải đồng ý. Thực tế, nhà đất của vợ chồng bà đã bị Uỷ ban nhân dân tỉnh
Q thu hồi trước đó mấy tháng. Bà Lý có thông báo việc này cho ông Cư nhưng ông Cư không tin vì cho rằng
bà viện lý do để trốn tránh trách nhiệm trả nợ.
Khi ông Cư vay tiền ở Sở giao dịch 3, chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
thành phố Đ, bà Lý đã cùng với chồng là ông Nguyễn Quốc Trị phải đến ký giấy thế chấp. Còn việc thực hiện
thủ tục thế chấp như vậy có đúng quy định hay chưa, bà Lý cũng không rõ.
Bà Lý cũng thừa nhận khoản nợ tiền 100 triệu đồng bà nợ ông Cư, đến thời điểm này bà chưa thể
thanh toán cho ông Cư, vì sau khi bà bị bắt và bị xét xử trong một vụ án hình sự khác, gia đình bà tan nát, con
cái mỗi người một nơi, chồng bà hiện nay ở đâu không ai biết, tài sản hiện tại không còn gì. Về quan hệ thế
chấp của bà trong vụ án dân sự ngân hàng kiện đòi nợ ông Cư, thì bà Lý đề nghị Tòa án giải quyết theo quy
định của pháp luật.
Câu hỏi 9: (1 điểm)
Hãy chuẩn bị những nội dung cơ bản trong luận cứ bảo vệ quyền lợi của Chi nhánh ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn.
Tình tiết bổ sung
Tại phiên tòa, ông Cư vẫn giữ nguyên quan điểm là ông không có trách nhiệm gì đối với khoản nợ

còn lại vì theo hợp đồng vay, số nợ gốc này đã được bảo đảm bằng căn nhà của vợ chồng bà Lý. Chính ngân
hàng là người đã ký vào hợp đồng thế chấp với vợ chồng bà Lý. Vậy ngân hàng phải đòi nợ vợ chồng bà Lý.
Sau khi trình bày xong, ông Cư bỏ ra về. Hội đồng xét xử đã phải hội ý về tình huống này để quyết định có
phải hoãn phiên tòa hay không.
Câu hỏi 10: (1 điểm)
Là luật sư của phía ngân hàng, anh (chị) hãy trình bày lập luận của mình về việc Hội đồng xét xử
không thể hoãn phiên tòa.
(Học viên được sử dụng các văn bản pháp luật)
6
HỌC VIỆN TƯ PHÁP
Đề thi môn: Kỹ năng tranh tụng cña LuËt s trong c¸c vụ việc dân sự
Mã số: LS.DS/TN-04/240
*
Chị Hoàng Thị Định kết hôn với anh Hà Thanh Chiến năm 1982, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký
kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã. Vợ chồng chung sống hạnh phúc tại xã T, huyện C, tỉnh H đến năm 1997 thì
phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do chị Định nghi ngờ anh Chiến có quan hệ bất chính với người đàn bà
khác. Từ đó, vợ chồng thường xuyên xô xát, cãi vã nhau. Gia đình hai bên, chính quyền địa phương và các
đoàn thể giúp đỡ nhiều lần nhưng tình cảm vợ chồng không hàn gắn được. Tháng 7 năm X, chị Định có đơn
xin ly hôn.
Về con chung, vợ chồng chị Định có hai con chung:
- Cháu Hà Thị Thanh Hương sinh năm 1983;
- Cháu Hà Mạnh Thắng sinh năm 1985.
Hiện tại, hai cháu ở với mẹ.
Về tài sản chung: Một nhà cấp 3 diện tích 93,79 m
2
trên diện tích đất 137 m
2
(đất thuê 40 năm); một
nhà bán mái diện tích sử dụng 24,9 m
2

và một số tài sản khác. Tổng giá trị tài sản được xác định khoảng gần
200 triệu đồng.
Về các khoản nợ: Vợ chồng có các khoản nợ như sau:
- Nợ Ngân hàng nông nghiệp tỉnh H cả gốc và lãi tính đến ngày 31/11/X-1 là 81.918.700 đồng;
- Nợ bà Hoàng Thị Tâm số tiền 50 triệu đồng;
- Nợ anh Nguyễn Văn Dự số tiền 15 triệu đồng;
- Nợ anh Hoàng Thanh Bình số tiền 8 triệu đồng;
- Nợ anh Nguyễn Văn Kiên số tiền 8 triệu đồng.
Ly hôn, chị Định xin được nuôi hai con, yêu cầu anh Chiến hàng tháng đóng góp 500.000 đồng nuôi
con.
Câu hỏi 1: (1 điểm)
Trao đổi với chị Định những nội dung cần thiết trước khi khởi kiện?
Câu hỏi 2: (1 điểm)
Anh (chị) hãy giúp chị Định viết một đơn khởi kiện trên cơ sở những nội dung đã trao đổi thống nhất
với chị Định?
Tình tiết bổ sung
Anh Chiến cũng thừa nhận thời điểm kết hôn và quá trình chung sống, mâu thuẫn giữa vợ chồng anh
đúng như chị Định đã trình bày. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp, chị Định lại thường
xuyên ghen tuông vô cớ. Anh Chiến cũng đồng ý xin ly hôn với chị Định.
Về con chung: Anh Chiến nhất trí để chị Định nuôi con. Hàng tháng, anh Chiến đóng góp mỗi tháng
500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng chẵn)
Về tài sản chung: Nhất trí với chị Định, nhưng anh Chiến xin được sử dụng toàn bộ tài sản và thanh
toán chênh lệch tài sản cho chị Định 100 triệu đồng. Anh Chiến chịu trách nhiệm thanh toán tất cả các khoản
nợ, bao gồm nợ Ngân hàng, nợ anh Bình, nợ chị Tâm, nợ anh Dự, nợ anh Kiên. Tổng số tiền nợ là
103.918.000 đồng.
Chị Định cũng nhất trí với anh Chiến về việc phân chia tài sản như đề xuất của anh Chiến.
Câu hỏi 3: (1 điểm)
Với tư cách là luật sư bảo vệ cho chị Định, anh (chị) tư vấn cho chị Định cũng như anh Chiến phải
làm gì để thỏa thuận của hai người có cơ sở chấp nhận?
Câu hỏi 4: (1 điểm)

Trên cơ sở đó, xác định những chứng cứ, tài liệu mà anh (chị) cần phải giúp chị Định bổ sung trong
hồ sơ khởi kiện.
Tình tiết bổ sung
Lời khai của chị Trần Thị Cúc là người đại diện theo ủy quyền cho Ngân hàng nông nghiệp tỉnh H
ngày 4/9/X như sau: Ngày 11/11/X-5, Ngân hàng nông nghiệp tỉnh cho vợ chồng anh Chiến, chị Định vay 80
triệu, lãi suất 1,05%/tháng, thời hạn trả nợ 4/12/X. Khi vay có thế chấp tài sản là nhà đất của vợ chồng anh
Chiến. Quá trình vay nợ, vợ chồng anh Chiến thực hiện đúng nghĩa vụ. Tất cả các khoản lãi đều được trả đầy
đủ theo đúng hợp đồng vay. Riêng tiền gốc thì vợ chồng anh Chiến phải thanh toán khi đến hạn. Tính đến
ngày 31/11/X-1, vợ chồng anh Chiến phải trả gốc và lãi là 81.918.700 đồng. Quan điểm của Ngân hàng là
7
nghĩa vụ trả nợ của vợ chồng anh Chiến sẽ theo đúng hợp đồng vay. Trường hợp anh Chiến, chị Định không
thực hiện thì sẽ xử lý tài sản thế chấp theo pháp luật.
Quan điểm của Tòa án thì cho rằng, do đây là vụ án ly hôn của vợ chồng anh Chiến, chị Định nên
quan hệ tài sản của vợ chồng, trong đó có khoản nợ chung cần được giải quyết luôn trong vụ án ly hôn này.
Phía khách hàng của anh (chị) là chị Định cũng muốn Tòa án giải quyết luôn khoản tiền nợ của Ngân
hàng.
Câu hỏi 5: (1 điểm)
Quan điểm của anh, chị về vấn đề trên?
Tình tiết bổ sung
Lời khai của chị Tâm ngày 4/9/X như sau: Chị Tâm có cho vợ chồng anh Chiến, chị Định vay 50
triệu đồng làm nhiều lần. Các lần vay đều có mặt đầy đủ cả hai vợ chồng. Vì quen biết nên chị Tâm cho vợ
chồng anh Chiến vay không tính lãi. Nay anh chị ly hôn, chị Tâm đề nghị hai người phải có trách nhiệm
thanh toán khoản nợ cho chị Tâm.
Lời khai của anh Dự ngày 4/9/X: Ngày 10/2/X-5, anh Dự cho vợ chồng anh Chiến vay 15 triệu. Khi
vay, hai bên thỏa thuận lãi suất là 1%. Vợ chồng anh Chiến đã trả đều lãi. Nay vợ chồng ly hôn, anh Dự đề
nghị vợ chồng phải có trách nhiệm trả nợ cho anh Dự.
Cùng ngày 4/9/X, Tòa án còn lấy lời khai của anh Kiên. Anh Kiên cho biết ngày 10/1/X-3, anh Kiên
có cho vợ chồng anh Chiến vay 8 triệu đồng, lãi suất 1%/tháng. Vợ chồng anh Chiến thực hiện đầy đủ nghĩa
vụ trả lãi hàng tháng. Nay vợ chồng ly hôn, anh Kiên yêu cầu vợ chồng anh Chiến phải có trách nhiệm trả nợ
cho anh.

Anh Bình cũng cho biết khoảng tháng 10/X-4, anh Bình có cho vợ chồng anh Chiến vay 8 triệu đồng.
Vì quen biết nên anh Bình không tính lãi, hẹn khi nào có tiền thì trả. Nhưng nay vợ chồng ly hôn, anh Bình
đề nghị vợ chồng anh Chiến phải có trách nhiệm trả nợ cho anh Bình.
Câu hỏi 6: (1 điểm)
Hãy cho biết hướng giải quyết đối với những khoản nợ trên?
Tình tiết bổ sung
Quá trình giải quyết, Tòa án tiến hành hòa giải đoàn tụ nhưng không thành. Cả chị Định và anh Chiến
đều cương quyết xin ly hôn. Đồng thời hai bên cũng thỏa thuận được về người nuôi con là chị Định và anh
Chiến hàng tháng chịu trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con là 500.000 đồng. Hai bên cũng thỏa thuận toàn bộ tài
sản chung sẽ thuộc quyền quản lý của chị Định, chị Định có trách nhiệm thanh toán cho anh Chiến số tiền
chênh lệch là 70 triệu đồng. Chị Định có trách nhiệm thanh toán tất cả các khoản nợ chung của vợ chồng.
Câu hỏi 7: (1 điểm)
Có ý kiến cho rằng, trong vụ án ly hôn này, con chung giữa anh Chiến và chị Định đều đã trưởng
thành. Bố mẹ không còn phải có trách nhiệm đối với con nên không cần thiết phải giải quyết quan hệ đối với
con trong vụ án này.
Ý kiến của anh (chị)?
Câu hỏi 8: (1 điểm)
Đối với việc giải quyết quan hệ về nợ chung vợ chồng, có ý kiến cho rằng, chưa đủ cơ sở để Tòa án
công nhận sự thỏa thuận của vợ chồng.
Anh (chị) có đồng ý với ý kiến đó hay không?
Tình tiết bổ sung
Trên cơ sở sự thỏa thuận của anh Chiến, chị Định, Tòa án đã ra quyết định công nhận thuận tình ly
hôn giữa chị Định và anh Chiến, trong đó bao gồm cả quyết định về quan hệ hôn nhân, về con, về tài sản và
nợ chung đúng như nội dung trên.
Câu hỏi 9: (1 điểm)
Căn cứ quy định của pháp luật, hãy cho biết Tòa án ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn trong
trường hợp này có đúng hay không?
Tình tiết bổ sung
Tòa án đã ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tại phiên tòa, chị Định, anh Chiến vẫn giữ nguyên các
quan điểm. Phía các chủ nợ giữ nguyên yêu cầu đòi nợ. Riêng đại diện ngân hàng cũng giữ nguyên yêu cầu là

chưa buộc vợ chồng anh Chiến, chị Định phải trả nợ trước thời hạn.
Câu hỏi 10: (1 điểm)
Hãy trình bày những lập luận cơ bản để bảo vệ quyền lợi của chị Định?
(Học viên được sử dụng các văn bản pháp luật)
8
HỌC VIỆN TƯ PHÁP
Đề thi môn: Kỹ năng tranh tụng cña LuËt s trong c¸c vụ việc dân sự
Mã số: LS.DS/TN-05/240
*
Ngày 2/4/2002, Vợ chồng bà Nguyễn Thị M và ông Phạm Văn P, trú tại số 2, ngõ 16, Đường Nguyễn
Ngọc Nại, quận T, thành phố N và bà Trần Thị T, trú tại 72, Đường Nguyễn Viết Xuân, quận T, thành phố N
có thoả thuận mua bán một căn nhà mái bằng 01 tầng diện tích 80 m
2
trên tổng diện tích 100 m
2
. Người bán là
vợ chồng bà M, ông P; người mua là bà T. Nguồn gốc căn nhà này là do cơ quan quân đội cấp cho vợ chồng
bà M và ông P từ năm 1982. Giá ngôi nhà và đất được hai bên thỏa thuận là 1.700.000.000 đồng (một tỷ bảy
trăm triệu đồng).
Cùng ngày hai bên có làm giấy giao nhận một số tiền là 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng) và
hẹn khi nào bên mua bàn giao nốt số tiền còn lại thì bên bán sẽ giao nhà. Việc bàn giao số tiền trên có sự
chứng kiến của anh Phan Hồng Vinh, người hàng xóm của bà T, đồng thời số tiền được giao tại Chi nhánh
Ngân hàng nông nghiệp quận T. Số tiền cũng được chuyển vào tài khoản cá nhân của bà M tại Chi nhánh
ngân hàng này. Giấy giao nhận không ghi thoả thuận thời gian cụ thể giao nốt tiền mà chỉ thoả thuận khi nào
bà T bán được ngôi nhà của mình tại 343 Bạch Đằng, quận H, thành phố H thì sẽ trả hết cho vợ chồng bà M.
Theo bà M, sau nhiều lần yêu cầu bà T thanh toán nốt số tiền còn lại thông qua anh Vinh, nhưng
không thấy bà T trả lời. Cho nên, ngày 4/8/2002 bà M làm hợp đồng mua bán chính ngôi nhà đã thoả thuận
bán cho bà T với anh Chu Xuân A với giá 2.000.000.000 đồng (hai tỷ đồng). Hợp đồng này chưa được công
chứng, chứng thực, nhưng hai bên trên thực tế đã bàn giao nhà ngay sau khi ký hợp đồng. Anh A đã phá ngôi
nhà cũ và xây thành 02 căn hộ 04 tầng và lại bán ngay cho 02 chủ khác vào tháng 6/2003 với giá

3.200.000.000 đồng (ba tỷ hai trăm triệu đồng).
Biết được sự việc, bà T đã phản đối vì không nhận được yêu cầu nào của bà M và đề nghị bà M tôn
trọng hợp đồng đã ký kết. Thực tế hai bên cũng làm giấy mua bán, tuy giấy tờ mua bán chưa được cơ quan có
thẩm quyền chứng thực. Bà T cũng đã thanh toán cho bà M số tiền là 200.000.000 đồng. Nhưng bà M không
chấp nhận, vì thực tế bà cũng đã bán nhà và bàn giao nhà cho người khác từ năm 2002. Ngày 20/5/X Bà T
muốn khởi kiện yêu cầu bà M thực hiện hợp đồng mua bán đã ký kết với bà T.
Bà T nhờ anh (chị) tư vấn.
Câu hỏi 1: (1 điểm)
Theo anh (chị) bà T có nên khởi kiện bà M hay không?
Tình tiết bổ sung
Bà T cho biết sở dĩ có chuyện bà M bán nhà trong suốt thời gian dài như vậy mà bà không có ý kiến
gì vì trong thời gian này bà T không sinh sống ở thành phố N mà đang sống cùng con trai ở thành phố M.
Qua một người quen là anh Vinh, bà T biết vợ chồng bà M có nhu cầu bán nhà nên thông qua anh Vinh, bà đã
thỏa thuận mua nhà với vợ chồng bà M. Khi mua có viết giấy nhưng trong giấy mua không nói đến thời hạn
kết thúc hợp đồng mua vì thực tế bà T chưa thực sự có nhu cầu về chỗ ở. Bà T cho rằng người có lỗi trong
trường hợp này là vợ chồng bà M, nhưng do nhà đã bán, người mua đã xây nhà mới, đã chuyển qua nhiều chủ
khác nên bà T quyết định yêu cầu bà M trả lại cho mình số tiền đã giao là 200.000.000 đồng.
Câu hỏi 2: (1 điểm)
Ngoài số tiền 200.000.000 đồng, bà T có quyền yêu cầu bà M phải chịu khoản tiền phạt hợp đồng do
không thực hiện hợp đồng hay không?
Tình tiết bổ sung
Bà M thừa nhận các nội dung như bà T trình bày, nhưng không đồng ý cho rằng bà M là người có lỗi.
Theo bà M, sau khi nhận tiền của bà T từ tháng 4/2002, bà đã nhiều lần liên lạc với bà T yêu cầu thanh lý hợp
đồng vì vợ chồng bà đang cần tiền nhưng không thấy bà T trả lời. Trước đó bà M có thỏa thuận miệng với bà
T là sau ba tháng, nếu bà T không trả nốt tiền thì bà M sẽ bán nhà nếu gặp khách. Từ đó đến giờ, bà T mới
gặp bà để yêu cầu đòi nhà thì bà không thể chấp nhận được vì bà M đã bán nhà cho người khác. Bà M đồng ý
sẽ trả lại cho bà T 200.000.000 đồng, nhưng hiện tại số tiền đó được gửi ở ngân hàng chưa đến kỳ rút tiền và
hẹn khi nào đến hạn rút tiền thì sẽ trả dần cho bà T, mỗi lần 30.000.000 đồng. Bà T không đồng ý. Trên thực
tế, từ đó đến nay, bà M vẫn chưa trả tiền cho bà T. Ngày 5/6/X, bà T đã khởi kiện ra Toà án yêu cầu bà M trả
lại số tiền 200.000.000 đồng và bồi thường thiệt hại.

Câu hỏi 3: (1 điểm)
Anh (chị) hãy giúp bà T làm đơn khởi kiện.
9
Câu hỏi 4: (1 điểm)
Xác định những giấy tờ cần thiết kèm theo đơn khởi kiện.
Tình tiết bổ sung
Bà M uỷ quyền cho luật sư Nguyễn Văn K, trưởng Văn phòng luật sư X có trụ sở tại 90 Tô Hiệu,
Quan hoa, quận C. thành phố N. Trong biên bản lấy lời khai lần 2, luật sư K cho rằng bà T không phải là
người trực tiếp giao dịch mua bán với thân chủ của mình. Do đó, Luật sư đề nghị Toà án xác định nhân thân
và tư cách của nguyên đơn, đồng thời không công nhận chứng cứ do nguyên đơn đưa ra - đó là Giấy biên
nhận số tiền 200.000.000 đồng mà nguyên đơn khai rằng là do chính bà M viết.
Câu hỏi 5: (1 điểm)
Theo anh (chị) đề nghị của luật sư K có ý nghĩa gì cho việc bảo vệ quyền lợi của bà M hay không?
Tình tiết bổ sung
Vì biết được bị đơn có tài khoản cá nhân tại Ngân hàng nông nghiệp Quận T, bà T muốn đề nghị Toà
án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với tài khoản của bà M. Mặt khác, bà T cho rằng số tiền trong tài
khoản của bị đơn có thể không đủ số tiền để trả cho bà, nên bà T muốn Tòa án áp dụng thêm biện pháp kê
biên tài sản là ngôi nhà mà bà M đang cư trú.
Câu hỏi 6: (1 điểm)
Quan điểm của anh (chị) đối với yêu cầu của bà T về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời?
Câu hỏi 7: (1 điểm)
Trên cơ sở quan điểm này, hãy giúp bà T làm đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời?
Tình tiết bổ sung
Quá trình giải quyết, ngoài yêu cầu đòi bà M phải trả lại số tiền 200.000.000 đồng, bà T còn đề nghị
Tòa án giải quyết bồi thường thiệt hại tính theo tỷ lệ số tiền đã giao so với giá trị nhà đất vào thời điểm xét xử
sơ thẩm. Đồng thời còn yêu cầu bà M phải trả lãi đối với số tiền 200.000.000 đồng theo quy định của pháp
luật.
Câu hỏi 8: (1 điểm)
Yêu cầu của bà T có cơ sở chấp nhận không?

Tình tiết bổ sung
Trong phần mở đầu phiên tòa, sau khi đã kiểm tra căn cước của đương sự, bà M đã tự ý bỏ về không
tiếp tục tham gia phiên tòa mà không nêu ra bất kỳ lý do nào. Hội đồng xét xử đã hoãn phiên tòa.
Câu hỏi 9: (1 điểm)
Không đồng ý với việc hoãn phiên tòa, anh (chị) phải làm gì?
Tình tiết bổ sung
Tại phiên tòa, bà M không thừa nhận chữ viết và chữ ký của bà trong giấy biên nhận số tiền
200.000.000 đồng. Hội đồng xét xử công bố biên bản lấy lời khai ngày 11/11/2005, người được lấy lời khai là
bà M, trong đó bà M thừa nhận vào khoảng năm 2002, bà có thỏa thuận bán nhà cho bà T và có viết giấy biên
nhận số tiền 200.000.000 đồng. Bà M cho rằng, hiện tại bà đã già hiện nay 73 tuổi, trí nhớ không minh mẫn,
lúc nhớ, lúc quên nên đã nhận là có viết giấy biên nhận số tiền của bà T. Thực ra bà không nhận tiền của bà T
và cũng không viết giấy biên nhận. Bà M đề nghị Tòa án cho hoãn phiên tòa để giám định chữ viết của bà M.
Không đồng ý với yêu cầu của bà M vì cho rằng bà M làm vậy là để cố tình kéo dài thời gian kết thúc
vụ án, kéo dài thời gian phải thanh toán tiền cho bà T nên đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu của bà M.
Câu hỏi 10: (1 điểm)
Hãy trình bày lập luận của mình tại phiên tòa về vấn đề trên.
(Học viên được sử dụng các văn bản pháp luật)
10
HỌC VIỆN TƯ PHÁP
Đề thi môn: Kỹ năng tranh tụng cña LuËt s trong c¸c vụ việc dân sự
Mã số: LS.DS/TN-06/240
*
Vào lúc 19h10 ngày 19/2/X, tại đường Quốc Phòng thuộc thôn 4 Điện Dương, huyện Đ, tỉnh H giữa
xe môtô do Trần Văn Công điều khiển với xe môtô do Nguyễn Văn Vinh điều khiển chở phía sau cháu
Nguyễn Quang 5 tuổi và Nguyễn Thị Ba. Hậu quả là cả ba người trên xe của Vinh đều bị thương nặng.
Diễn biến như sau: Tối hôm đó, Công đi mua thức ăn cho tôm. Sau khi mua xong thức ăn cho tôm,
Công điều khiển xe môtô chạy về hướng thôn 5 Điện Dương, đoạn đường quốc phòng rộng 3m và dọc 2 bên
đường là khu vực dân cư, Công cho xe chạy với tốc độ 55km/h (lời khai của Công). Khi đến đoạn đường chợ
chiều thuộc thôn 4 xã Điện Dương, Công phát hiện hướng ngược chiều có xe môtô do Nguyễn Văn Vinh điều
khiển chở phía sau là Nguyễn Quang 5 tuổi và Nguyễn Thị Ba đang chạy đến nhưng chạy giữa đường. Thấy

vậy, Công lấn trái và bọc qua bên phải xe môtô ngược chiều để tránh. Khi bọc qua phải thì va vào dọc theo
bên phải xe ngược chiều nên làm cho xe của Vinh ngã qua trái và nằm gần giữa đường bên phải theo hướng
đi của Vinh, còn xe của Công điều khiển chạy luôn về phía trước và đâm qua bên trái đường dài 20m10 mới
nằm lại. Qua hiện trường để lại có nhiều mảnh vỡ nhựa của đèn, yếm xe bị bể và điểm cày xước của xe của
Vinh điều khiển, vị trí này cách mép đường bên trái hướng đi xe của Vinh là 1m70, cũng như biên bản khám
hai xe đều thấy hai xe bị bể các dụng cụ như trên. Xác minh các mảnh vỡ của xe cho thấy đó là điểm va chạm
của xe.
Hậu quả của tai nạn:
- Trần Văn Công: Gãy xương đùi trái đoạn 1/3 trên, gãy đầu trên xương chày phải phức tạo, kèm gãy
xương mác, gãy 1/3 dưới xương quay tay phải, gãy các xương bàn tay 2,3,4,5 và xương đốt một ngón 3 bàn
tay phải. Đã được giám định thương tích là 50%.
- Nguyễn Văn Vinh: Gãy kín đầu dưới xương mác chân phải được giám định thương tích là 9%.
- Nguyễn Thị Ba: Gãy kín đi lệch đoạn 1/3 dưới xương cánh tay phải, gãy đầu dưới xương quay tay
phải được giám định thương tích là 28%.
Riêng cháu Quang năm tuổi may mắn không bị sao.
Cơ quan công an đã kết luận:
“Căn cứ vào hiện trường để lại, các dấu vết để lại trên hai xe và tài liệu trong hồ sơ thì nguyên nhân
của tai nạn là do:
- Trần Văn Công điều khiển xe môtô chạy vượt quá tốc độ cho phép và chạy lấn sang phần đường
bên trái nên đã va vào xe môtô ngược chiều để xảy ra tai nạn.
- Đối với Nguyễn Văn Vinh trong vụ tai nạn này không có lỗi vì Vinh đã đi đúng phần đường quy
định. Riêng bản thân không có giấy phép lái xe sẽ bị xử phạt hành chính theo Nghị định 39/CP của Chính
phủ.
Như vậy, hành vi của Trần Văn Công đã vi phạm khoản 1 Điều 9 Luật giao thông đường bộ Việt
Nam đã được Quốc hội khoá 9 Kỳ họp thứ X thông qua ngày 29/6/2001, nhưng vì thương tích của người bị
hại còn thấp chưa đủ điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Trần Văn Công.
Do đó công an huyện Đ xử lý hành chính đối với Trần Văn Công. Về trách nhiệm dân sự thì bản thân
Công có trách nhiệm bồi thường cho bên bị hại theo chứng từ hợp lệ, do hai bên thỏa thuận hoặc giải quyết
theo quy định của pháp luật”.
Kết luận điều tra của cơ quan công an đã được thông báo tới các đương sự.

Câu hỏi 1: (1 điểm)
Hồ sơ vụ tai nạn có được cơ quan công an chuyển sang để Toà án giải quyết về trách nhiệm bồi
thường dân sự hay không?
Tình tiết bổ sung
Sau khi được cơ quan thông báo, gia đình người bị hại đã làm đơn khởi kiện Trần Văn Công ra Toà án.
Câu hỏi 2: (1 điểm)
Những người bị hại có thể làm chung một đơn khởi kiện hay mỗi người phải làm riêng một đơn khởi
kiện?
Câu hỏi 3: (1 điểm)
Xác định những giấy tờ cần thiết được gửi kèm theo đơn khởi kiện?
Tình tiết bổ sung
Trong hồ sơ vụ tai nạn do cơ quan công an chuyển giao cho cơ quan Toà án có một “Đơn xin nhận lại
xe” viết ngày 2/8/X. Nội dung của đơn này như sau:
11
“Tên tôi là: Trần Thị Hồng Ánh, là chủ xe mang biển số ….
Tôi viết giấy này xin nhận lại xe của tôi vì vào ngày 19/2/X, tôi có cho em trai tôi là Trần Văn Công
mượn xe và trong quá trình điều khiển xe thì em tôi đã bị tai nạn giao thông. Và hiện giờ xe còn đang bị tạm
giữ tại cơ quan công an huyện Đ.
Trong khi chờ đợi sự chấp thuận của cấp trên, tôi xin thành thật biết ơn”.
Đoạn cuối trong đơn này có ghi: “Đã nhận lại xe mang biển số, tình trạng xe đúng như biên bản
khám nghiệm ngày 25/2/X” và chữ ký của Trần Thị Hồng Ánh.
Câu hỏi 4: (1 điểm)
Việc cơ quan công an giải quyết trả lại xe theo đơn trình bày của chị Ánh là đúng hay không?
Câu hỏi 5: (1 điểm)
Tài liệu này có ý nghĩa như thế nào đối với việc giải quyết vụ án dân sự yêu cầu bồi thường thiệt hại
về sức khỏe của các bị hại?
Tình tiết bổ sung
Hồ sơ vụ tại nạn cũng có lưu một bản sao Giấy chứng nhận bảo hiểm mô tô - xe máy số No 637400
ghi tên chủ xe Trần Thị Hồng Ánh, số biển kiểm soát, loại xe C100; thời hạn bảo hiểm từ 15h ngày 12/10/X-
1 đến …h ngày 11/10/X. Phần mức trách nhiệm hoàn toàn bỏ trống.

Câu hỏi 6: (1 điểm)
Theo anh (chị) cơ quan bảo hiểm có trách nhiệm trong vụ tai nạn giao thông này hay không?
Tình tiết bổ sung
Về phía các nguyên đơn trong vụ kiện dân sự, Nguyễn Văn Vinh và Nguyễn Thị Ba đã kê ra các
khoản tiền hại sau đây:
1/Nguyễn Văn Vinh:
- Thuốc điều trị: 262.000 đ
- Tiền công lao động: 45 ngày x 40.000 đ/ngày
Tổng cộng: 1.800.000 đ
- Tiền ăn 45 ngày x 25.000 đ/ngày 1.005.000 đ
Tổng cộng: 3.187.000 đ
2/ Nguyễn Thị Ba:
- Tiền thuốc: 2.518.000 đ
- Tiền công chăm sóc: 60 ngày x 40.000đ/ngày
Tổng cộng: 2.400.000 đ
- Tiền xe đi lại: 300.000 đ
- Tiền công lao động:
60 ngày x 30.000 đ/ngày 1.800.000 đ
Tổng cộng: 10.500.000đ.
3/ Tiền sửa xe: 300.000 đ
Tổng cộng toàn bộ số tiền yêu cầu bồi thường là 13.987.000 đồng.
Câu hỏi 7: (1 điểm)
Theo anh (chị) yêu cầu bồi thường của nguyên đơn có cơ sở để chấp nhận hay không?
Tình tiết bổ sung
Phía bị đơn, anh Trần Văn Công cho rằng trước khi xảy ra tai nạn, anh Vinh đã điều khiển xe đi lấn
sang phần đường của anh Công, làm anh Công phải lách qua trái gây tai nạn. Do vậy, anh Công không chấp
nhận bồi thường thiệt hại cho anh Vinh vì anh Vinh cũng có lỗi trong tai nạn giao thông. Riêng chị Ba là
người ngồi sau nên anh Công chấp nhận bồi thường cho chị Ba số tiền thuốc điều trị là 2.518.000 đồng.
Ngoài ra anh Công không chấp nhận bồi thường bất kỳ một khoản nào khác. Anh Công là nông dân, hiện tại
đang bị thương tích cũng rất nặng và khó có khả năng để thực hiện việc bồi thường.

Câu hỏi 8: (1 điểm)
Quan điểm của anh (chị) về việc xác định trách nhiệm bồi thường trong vụ án?
Tình tiết bổ sung
Tòa án đã mở phiên tòa giải quyết vụ án. Triệu tập tham gia phiên tòa có anh Công, anh Vinh, chị Ba
và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của anh Vinh, chị Ba.
Câu hỏi 9: (1 điểm)
Tòa án đã triệu tập đầy đủ những người phải tham gia tố tụng hay chưa?
Tình tiết bổ sung
Có ý kiến cho rằng, trong vụ án này, Tòa án cần phải triệu tập cơ quan bảo hiểm tham gia tố tụng.
12
Câu hỏi 10: (1 điểm)
Trong trường hợp đồng ý với quan điểm này, anh, chị hãy trình bày lập luận của mình để thuyết phục
hội đồng xét xử hoãn phiên tòa để triệu tập thêm cơ quan bảo hiểm.
(Học viên được sử dụng các văn bản pháp luật)
HỌC VIỆN TƯ PHÁP
Đề thi môn: Kỹ năng tranh tụng cña LuËt s trong c¸c vụ việc dân sự
Mã số: LS.DS/TN-07/240
*
Theo lời trình bày của anh Trần Văn Khoa: Ngày 18/11/X-4 anh vay của bà Phương ở xã Tân Lý,
huyện C, Tiền Giang 13 chỉ vàng. Hai bên thỏa thuận mỗi quý trả lãi là 2.5 chỉ vàng. Anh trả lãi đến tháng
2/X-3 thì ngưng. Tháng 4/X-2 phía bà Phương ngang nhiên chiếm 500m
2
đất trên phần diện tích 990m
2
đất
thuộc quyền sử dụng của anh Khoa (Mảnh đất 990m
2
này anh Khoa đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số 01041/QSDĐ ngày 20/4/1998 tọa lạc tại xã Tân Lý, huyện C, Tiền Giang). Bà Phương tuyên bố
với vợ chồng anh lấy đất để cấn trừ nợ. Sau đó bà Phương đã xây nhà cho con là vợ chồng chị Hà Minh ở

trên diện tích 300m
2
. Ngoài ra, phần còn lại 200m
2
bà Phương tự cho ông Luật thuê, thu lợi. Anh Khoa đã
nhiều lần yêu cầu bà Phương, vợ chồng chị Hà Minh trả đất nhưng bà Phương và vợ chồng chị Hà Minh
không trả. Đầu năm X-1 vợ chồng chị Hà Minh đổ đất và vật liệu xây dựng nhà kiên cố trên đất, vợ chồng
anh Khoa đã phản đối quyết liệt, hai bên xô sát công an xã Tân Lý đã đến lập biên bản yêu cầu các bên giữ
nguyên hiện trạng chờ giải quyết. Nay, anh Khoa yêu cầu bà Phương và vợ chồng chị Hà Minh dỡ nhà trả lại
cho vợ chồng anh toàn bộ diện tích đất lấn chiếm. Số tiền vợ chồng anh Khoa nợ là 13 chỉ vàng 24k vợ chồng
anh Khoa sẽ trả nếu bà Phương yêu cầu
Ngày 1/3/X anh Khoa đến nhờ anh (chị) khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Câu hỏi 1: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy giúp anh Khoa soạn thảo đơn khởi kiện và chuẩn bị hồ sơ khởi kiện.
Tình tiết bổ sung
Theo lời trình bày của bà Phương và chị Hà Minh: Vào năm X-4, anh Khoa có vay của vợ chồng bà
Phương 13 chỉ vàng 24K và thế chấp một sổ kê khai diện tích đất số 124/TC/TN diện tích 0,41ha để làm ăn.
Sau đó, năm X-3, X-2 vợ chồng anh Khoa nhiều lần đến vay tiền và vàng. Việc vay mượn những lần tiếp
theo này hai bên không làm biên nhận và không lập hợp đồng. Cứ 4 tháng một lần chị Diệp (vợ anh Khoa)
viết giấy cộng trả lãi (lãi 4%) tổng cộng 6 lần: lần 1 là 0,5 chỉ vàng 24K; lần 2 là 8,5 chỉ vàng 24K; lần 3 là 3
triệu đồng; lần 4 là 1 triệu đồng; lần 5 là 7 triệu đồng; lần 6 là 2,5 chỉ vàng 24K. Ngoài ra, còn mượn thêm 10
triệu đồng không làm giấy biên nhận. Tổng cộng vàng và tiền quy ra vàng là 7,3 cây tiền vốn và lãi trả hàng
tháng. Bà Phương đã đòi nhiều lần nhưng vợ chồng anh Khoa không trả. Vì vậy, 2 bên thỏa thuận sang
nhượng diện tích đất 500m
2
vì chỗ quen biết nên không làm giấy tờ. Sau khi sang nhượng bà Phương tiến
hành san lấp mặt bằng và trồng chuối dừa, tổng chi phí là 18 triệu đồng. Năm X-2 bà Phương cho anh Luật
thuê mặt bằng sửa xe trong thời hạn 3 năm. Bà Phương yêu cầu được tiến hành thủ tục chuyển nhượng quyền
sử dụng đất.
Vụ kiện này có nhiều ý kiến về việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp:

(i) Đòi lại tài sản là quyền sử dụng đất và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất;
(ii) Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng vay tài sản;
(iii) Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Câu hỏi 2: (1,5 điểm)
Nêu ý kiến của anh (chị) về việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp?
Câu hỏi 3: (1 điểm)
Anh (chị) xác định trọng tâm vấn đề cần chứng minh trong hồ sơ vụ kiện này?
Tình tiết bổ sung
Qua xác minh về nguồn gốc và diện tích đất, địa chính xã Tân Lý, huyện C, Tiền Giang cho biết diện
tích đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng của vợ chồng anh Khoa. Ngoài ra, anh Khoa còn thế chấp quyền sử
dụng đất này tại ngân hàng T, huyện C, Tiền Giang. Tòa án nhân dân huyện C, Tiền Giang đã gửi thông báo
thụ lý vụ kiện đến ngân hàng T nhưng Ngân hàng T đã có công văn từ chối tham gia tố tụng. Ngân hàng T
cho rằng đợi đến hạn nếu vợ chồng anh Khoa không thực hiện việc trả nợ, ngân hàng T sẽ khởi kiện thành
một vụ kiện khác.
Câu hỏi 4: (1 điểm)
13
Anh (chị) hãy xác định tư cách đương sự trong vụ án?
Tình tiết bổ sung
Tại phiên tòa, bà Phương và anh Khoa đều thừa nhận năm X -4 anh Khoa có vay của vợ chồng bà
Phương 13 chỉ vàng 24K và thế chấp một sổ kê khai diện tích đất số 124/TC/TN diện tích 0,41ha để làm ăn.
Ngoài ra, theo bà Phương: Tổng cộng các lần anh Khoa vay tiếp theo cả vốn và lãi tính đến tháng 4
năm X-3 là 35 triệu đồng. Bà Phương xuất trình cho Hội đồng xét xử giấy tính nợ do chị Diệp vợ anh Khoa
viết nhưng không có chữ ký của chị Diệp ở dưới tờ văn bản nhận nợ này. Vì không có khả năng trả được nợ
nên vợ chồng anh Khoa đã đồng ý cắt đất giao cho bà Phương. Diện tích đất giao được 2 bên xác định tương
đương với số vàng và tiền anh Khoa vay vào thời điểm vay. Anh Khoa đã tự nguyện làm hàng rào để xác
định ranh giới đất giao cho bà Phương. Sau đó bà Phương cùng vợ chồng chị Hà Minh tiến hành xây dựng
nhà, việc xây dựng nhà kéo dài 2 tháng, anh Khoa không ngăn cản, đồng thời cũng không bị cơ quan chức
năng xử phạt vi phạm hành chính. Bà Phương cho rằng bà không lấn chiếm đất của anh Khoa. Đây là sự thỏa
thuận đồng tình chuyển nhượng đất bằng miệng. Bà Phương yêu cầu anh Khoa tiếp tục lập thủ tục sang tên
đất cho bà.

Anh Khoa không thừa nhận số nợ 35.000.000 đồng như bà Phương khai. Anh Khoa chỉ thừa nhận có
nợ 13 chỉ vàng 24 K, vợ chồng anh đã trả lãi đến năm 2. Việc anh đưa sổ nông nghiệp kê khai nộp thuế cho
bà Phương để làm tin không thể xem là thế chấp và nếu thế chấp cũng trái pháp luật. Anh Khoa khẳng định
không hề cắt đất để cấn trừ nợ cho bà Phương, không có bất kỳ một văn bản nào thể hiện sự thỏa thuận về
việc chuyển nhượng đất giữa hai bên. Thực tế, anh Khoa vẫn đứng tên chủ sử dụng hợp pháp diện tích đất
tranh chấp này.
Câu hỏi 5: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy xác định trọng tâm vấn đề cần hỏi và tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm.
Tình tiết bổ sung
Tại phiên tòa, chị Diệp không thừa nhận chữ viết trên giấy tính nợ mà bà Phương xuất trình cho Hội
đồng xét xử là của chị Diệp. Vì vậy, bà Phương đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa để giám định chữ
viết của chị Diệp làm căn cứ để giải quyết vụ án.
Câu hỏi 6: (1 điểm)
Theo anh (chị) yêu cầu này của bà Phương có được Hội đồng xét xử chấp nhận hay không?
Tình tiết bổ sung
Tại phiên tòa, luật sư bảo vệ quyền lợi cho bà Phương phân tích rằng: Có việc vay nợ tiền vàng giữa
anh Khoa và chị Phương. Sau đó anh Khoa cắt đất cấn trừ nợ, hiện tại bà Phương và vợ chồng chị Hà Minh
đã xây dựng nhà kiên cố và cho ông Luật thuê làm cơ sở hàn gò. Việc xây dựng nhà của bà Phương phía
nguyên đơn không xuất trình được bất cứ một giấy tờ gì để chứng minh bị cơ quan chức năng xử phạt vi
phạm hành chính đối với việc xây dựng của bà Phương. Vì vậy, có căn cứ để xác định có việc thỏa thuận
chuyển nhượng đất miệng giữa bà Phương và vợ chồng anh Khoa, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào mục
b3, tiểu mục 2.3, mục 2, phần II, Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán
TANDTC buộc anh Khoa tiếp tục thực hiện hợp đồng.
Câu hỏi 7: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy trình bày bản luận cứ để bảo vệ quyền lợi cho vợ chồng anh Khoa tại phiên tòa sơ thẩm.
Tình tiết bổ sung
Bản án sơ thẩm số 259/DSST ngày 29/12/X của TAND huyện C, Tiền Giang đã quyết định:
“1. Bác yêu cầu khởi kiện của anh Khoa;
Buộc anh Khoa phải có nghĩa vụ lập thủ tục tách quyền sử dụng đất cho bà Phương diện tích 500m
2

đất trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01041/QSDĐ/1541/QĐ-UB ngày 30/5/1998 cấp cho hộ anh
Khoa (kèm theo sơ đồ);
2. Bà Phương được quyền đăng ký kê khai diện tích đất theo quyết định đã tuyên. Thời gian thực hiện
khi án có hiệu lực pháp luật;
3. Kiến nghị UBND huyện C điều chỉnh diện tích đất theo khoản 3 của quyết định này;
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự”.
Anh Khoa không đồng ý với toàn bộ quyết định của bản án sơ thẩm số 259/DSST ngày 29/12/X của
TAND huyện C, Tiền Giang và muốn kháng cáo toàn bộ bản án này.
Câu hỏi 8: (1 điểm)
Anh (chị) hãy giúp anh Khoa soạn thảo đơn kháng cáo.
(Học viên được sử dụng các văn bản pháp luật)
14
HỌC VIỆN TƯ PHÁP
Đề thi môn: Kỹ năng tranh tụng cña LuËt s trong c¸c vụ việc dân sự
Mã số: LS.DS/TN-08/240
*
Theo lời trình bày của Bà Kim: Căn nhà số 4/61 Lê Đức Thọ, phường X, quận G, Tp. H có nguồn gốc
là của ông Hoàng Văn Nam và bà Phan Thị Khánh. Bà Khánh chết ngày 08/8/2002, ông Nam chết ngày
01/6/2004. Ông Nam, bà Khánh có hai con chung là chị Thu hiện cư trú tại số nhà 38 phố T, quận M, Tp. H
và anh Hoàng Văn hiện đang định cư tại Hoa Kỳ.
Ngày 01/8/2004 chị Thu và bà Kim có thỏa thuận lập hợp đồng chuyển nhượng căn nhà số 4/61 Lê
Đức Thọ, phường X, quận G, Tp. H cho bà Kim, trị giá nhà bán là 1 tỷ đồng. Hợp đồng được lập thành văn
bản nhưng không có xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Theo thỏa thuận hợp đồng bà Kim đã trả
trước cho chị Thu số tiền 650.000.000 đồng (sáu trăm năm mươi triệu đồng). Sau khi nhận được khoản tiền
này chị Thu có giao cho bà Kim 01 (bản sao) giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà đứng tên ông Hoàng Văn
Nam (giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 7135/2002 ngày 18/3/2002); 01 tờ khai
sử dụng đất ngày 23/5/2003; tờ cam kết ngày 01/8/2004 đã được sự thỏa thuận đồng ý của em chị Thu là anh
Hoàng Văn cho chị Thu được toàn quyền định đoạt căn nhà này. Sau khi bà Kim giao tiền, chị Thu viết giấy
biên nhận tiền và hẹn 02 tháng khi làm xong giấy tờ nhà giao cho bà Kim thì bà Kim trả hết số tiền còn lại
cho chị Thu là 350.000.000 đồng (ba trăm năm mươi triệu đồng). Chị Thu cam kết: “Nếu có gì thay đổi

không thực hiện đúng như thỏa thuận trong hợp đồng thì chị Thu sẽ chịu trách nhiệm trước pháp luật và bồi
thường cho bà Kim thỏa đáng”.
Sau 2 tháng kể từ ngày ký hợp đồng, chị Thu đã không thực hiện các thỏa thuận trong hợp đồng. Bà
Kim đã nhiều lần đàm phán yêu cầu chị Thu thực hiện hợp đồng nhưng chị Thu đưa ra nhiều lý do về việc
chậm thực hiện nghĩa vụ của mình. Ngày 06/5/2005 chị Thu thương lượng với bà Kim đề nghị đưa thêm
85.000.000 đồng (tám mươi lăm triệu đồng), chị Thu hứa sẽ giao nhà vào cuối tháng 7/2005 và tự ý viết giấy
thực hiện giao tiền lần 2 đưa cho bà Kim cùng với giấy đồng ý để bà Kim đến gặp bà Đồng Thị Thảo (người
đã nhận cầm giấy tờ nhà của chị Thu) để bà Kim đến chuộc lại giấy tờ nhà nói trên và khi giao nhà thì bà
Kim chỉ còn phải giao nốt số tiền mua nhà là 260.000.000 đồng (hai trăm sáu mươi triệu đồng). Do chị Thu
đã không thực hiện đúng việc thỏa thuận ban đầu nên bà Kim đã không chấp nhận đề nghị này của chị Thu.
Ngày 20/7/X bà Kim muốn khởi kiện ra Tòa xin hủy hợp đồng mua bán nhà, yêu cầu chị Thu thanh
toán lại số tiền đã nhận cho bà là 650.000.000 đồng (sáu trăm năm mươi triệu đồng).
Câu hỏi 1: (1 điểm)
Anh (chị) hãy xác định Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp này?
Câu hỏi 2: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy giúp bà Thu soạn thảo đơn khởi kiện và chuẩn bị hồ sơ khởi kiện cho phía nguyên đơn
Tình tiết bổ sung
Tòa án thụ lý vụ án, sau khi nhận được thông báo về vụ kiện. Chị Thu có đơn trình bày gửi Tòa với nội
dung: Căn nhà 4/61 Lê Đức Thọ là của cha mẹ chị là ông Hoàng Văn Nam và bà Phan Thị Khánh đã chết để
lại, chị không có quyền quyết định. Năm 2003 chị Thu đã thế chấp giấy tờ nhà 4/61 Lê Đức Thọ, phường X,
quận G, Tp. H cho bà Đồng Thị Thảo để vay số tiền 80.000.000 đồng (tám mươi triệu đồng) với lãi suất
13%/tháng. Chị Thu xác nhận có ghi hợp đồng bán nhà cho bà Kim với giá 1.000.000.000 đồng (một tỷ
đồng), theo hợp đồng chị Thu đã nhận trước 650.000.000 đồng (sáu trăm năm mươi triệu đồng) nhưng thực tế
chị Thu cho rằng chị không nhận số tiền này. Chị Thu khẳng định chỉ có nợ của bà Kim số tiền 70.000.000
đồng (bảy mươi triệu đồng), không có giấy nợ. Nay chị Thu chỉ đồng ý trả nợ cho bà Kim số tiền 70.000.000
đồng bằng cách trả góp mỗi tháng 2 triệu đồng.
Anh Hoàng Văn gửi đơn trình bày với nội dung: Hợp đồng mua bán nhà ngày 01/8/2004 do chị Thu
lập là không hợp lệ, anh Văn không hề có sự ủy quyền nào cho chị Thu được toàn quyền định đoạt căn nhà
này. Anh được biết chị Thu viết giấy mua bán nhà theo yêu cầu của bà Kim, thực tế chị Thu không nhận tiền.
Nay có việc tranh chấp giữa bà Kim với chị Thu về việc đòi tiền, anh Văn không liên quan.

Câu hỏi 3: (1 điểm)
Anh (chị) hãy xác định tư cách đương sự trong vụ án này?
Câu hỏi 4: (1 điểm)
Anh (chị) hãy xác định trọng tâm vấn đề cần chứng minh trong vụ án này?
Tình tiết bổ sung
15
Theo lời trình bày của bà Thảo: Ngày 20/7/2003 chị Thu có nhờ bà vay số tiền 80.000.000 đồng. Khi
vay chị Thu có thế chấp giấy tờ nhà do ông Hoàng Văn Nam đứng tên chủ quyền, 01 tờ khai sử dụng đất, 01
giấy chứng minh nhân dân của chị Thu. Đến nay chị Thu cũng chưa trả nợ cho bà nên bà Thảo đã thế chấp
toàn bộ giấy tờ nhà trên cho bà Lê Thủy Tiên để vay số tiền 120.000.000 đồng thanh toán nợ mà bà đã vay.
Nay chị Thu muốn bán nhà thì phải trả số tiền nợ trên để nhận lại toàn bộ giấy tờ nhà.
Bà Lê Thủy Tiên khai: Ngày 20/6/2004 bà có cho bà Đồng Thị Thảo vay số tiền 120.000.000 đồng
(một trăm hai mươi triệu đồng), lãi suất 1,5%/tháng. Bà Thảo có giao cho bà một số giấy tờ nhà 4/61 Lê Đức
Thọ phường X, quận G, Tp. H (bản chính). Bà Thảo hẹn vài tháng sẽ trả nợ nhưng từ đó đến nay cũng chưa
trả nợ vốn và lãi cho bà. Nay, bà Tiên đồng ý giao toàn bộ hồ sơ nhà lại cho bà Thảo với điều kiện bà Thảo
phải trả lại tiền nợ vay cho bà. Đối với việc tranh chấp hợp đồng mua bán nhà giữa bà Kim với chị Thu, bà
không liên quan.
Theo đơn trình bày của anh Hoàng Văn, anh đề nghị Tòa án giải quyết thu hồi toàn bộ giấy tờ nhà 4/61
Lê Đức Thọ phường X, quận G, Tp. H do chị Thu đã thế chấp vay nợ của bà Đồng Thị Thảo năm 2003 số
tiền 80.000.000 đồng.
Câu hỏi 5: (1 điểm)
Theo anh (chị) yêu cầu này của anh Hoàng Văn có được giải quyết ngay trong vụ án này không?
Tình tiết bổ sung
Tại phiên tòa, chị Thu cho rằng khi chị viết hợp đồng mua bán nhà với bà Kim là do chị bị áp lực và do
bà Kim ép buộc. Việc ép buộc này có chính quyền địa phương biết. Thực tế chị Thu không có nhận số tiền
như chị đã ghi trong hợp đồng là đã nhận trước số tiền của bà Kim giao là 650.000.000 đồng. Chị Thu chỉ
thừa nhận nợ của bà Kim số tiền 70.000.000 đồng. Nay chị Thu xin trả dần mỗi tháng 2 triệu đồng.
Hội đồng xét xử công bố các chứng cứ có trong hồ sơ, ngoài hợp đồng mua bán nhà ngày 01/8/2004,
ngày 24/11/2004 chị Thu có làm giấy hẹn là “tháng 2/2005 chị Thu sẽ giao giấy tờ nhà, bà Kim sẽ giao tiền
cho chị Thu và chị Thu giao nhà cho bà Kim”; ngày 06/5/2005 chị Thu lập hợp đồng mua bán nhà tiếp tục

giao tiền lần hai với số tiền là 85.000.000 đồng. Hẹn 01 tháng kể từ ngày nhận tiền lần hai sẽ sang tên chính
thức chủ quyền nhà 4/61 Lê Đức Thọ cho bà Kim và bà Kim sẽ giao hết số tiền còn lại 260.000.000 đồng,
hẹn cuối tháng 7 sẽ giao nhà cho bà Kim. Chị Thu đề nghị hoãn phiên tòa để xác minh tại chính quyền địa
phương về việc hợp đồng giao kết giữa chị Thu với bà Kim là bị áp lực và do ép buộc.
Câu hỏi 6: (1 điểm)
Theo anh (chị) yêu cầu của chị Thu có được Hội đồng xét xử chấp nhận hay không?
Câu hỏi 7: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy xác định trọng tâm vấn đề cần hỏi và tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm.
Tình tiết bổ sung
Qua xác minh tại ủy ban nhân dân phường X, quận G, Tp. H : UBND không biết việc bà Kim dùng áp
lực buộc chị Thu phải viết giấy bán nhà. Ủy ban nhân dân phường không nhận được đơn khiếu nại nào của
chị Thu về việc này.
Tại phiên tòa, Luật sư của chị Thu xuất trình xác nhận của Công an phường X, quận G, TP. H xác nhận
ngày 16/8/2005, chị Thu có gởi đơn tố cáo bà Kim đe dọa và ép buộc chị Thu ký kết hợp đồng. Tuy nhiên,
Công an phường X xét thấy không thuộc thẩm quyền giải quyết nên Công an phường không thụ lý vụ việc.
Luật sư của chị Thu cho rằng, bà Kim hoàn toàn có lỗi trong việc thực hiện giao dịch chuyển nhượng này.
Câu hỏi 8: (2 điểm)
Anh (chị) hãy trình bày bản luận cứ để bảo vệ quyền lợi cho bà Kim tại phiên tòa sơ thẩm.
(Học viên được sử dụng các văn bản pháp luật)
16
HỌC VIỆN TƯ PHÁP
Đề thi môn: Kỹ năng tranh tụng cña LuËt s trong c¸c vụ việc dân sự
Mã số: LS.DS/TN-09/240
*
Bà Hà Thị Xuân và ông Bùi Văn Tuấn kết hôn năm 1993 có đăng ký kết hôn. Sau khi kết hôn vợ
chồng ông bà chung sống hạnh phúc đến năm 1998 thì nảy sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng về quan
điểm sống và do trong thời gian ông Tuấn đi làm ăn ở nước ngoài bà Xuân ở nhà có quan hệ ngoại tình. Do
mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, vì vậy ngày 23/6/2000 vợ chồng bà Xuân, ông Tuấn đã làm đơn khởi kiện
ra Tòa xin thuận tình ly hôn. Ông bà thoả thuận không yêu cầu phân chia tài sản tại Tòa án nhân dân.
Sau khi có quyết định công nhận thuận tình ly hôn. Tháng 1 năm 2001, bà Xuân và ông Tuấn tự thoả

thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng trong đó có căn nhà số 46 đường Nguyễn Trãi, phường X, quận
1, thành phố H. Ông Tuấn xác định căn nhà này trị giá 50 lượng vàng để tính phân chia. Việc thỏa thuận được
lập thành văn bản và có xác nhận của UBND phường X, quận 1, TP. H nơi ông bà cư trú. Theo nội dung văn
bản thỏa thuận, ông Tuấn nhận nhà và thanh toán cho bà Xuân 25 lượng vàng. Phía bà Xuân đã nhận 25
lượng vàng SJC và 385 đôla Mỹ (tương đương với 6 triệu đồng) trị giá phân chia của các tài sản khác. Nay,
bà Xuân cho rằng vào thời điểm tự thoả thuận, căn nhà chưa có giấy tờ sở hữu hợp pháp, bà Xuân bị bệnh
tâm thần không minh mẫn, ông Tuấn đã đe dọa ký thoả thuận. Vì vậy, ngày 20/4/X bà Xuân muốn làm đơn
khởi kiện ra Tòa đề nghị Tòa án giải quyết chia tài sản chung của ông bà.
Bà Xuân đến gặp anh (chị), nhờ anh (chị) là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong vụ kiện.
Câu hỏi 1: (1 điểm)
Anh (chị) cần trao đổi với bà Xuân những vấn đề gì trước khi khởi kiện?
Câu hỏi 2: (1 điểm)
Anh (chị) hãy giúp bà Xuân soạn thảo đơn khởi kiện và chuẩn bị hồ sơ khởi kiện cho phía Nguyên
đơn.
Tình tiết bổ sung
Căn cứ theo yêu cầu khởi kiện của bà Xuân, liên quan đến việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp,
có ý kiến cho rằng :
1. Đây là quan hệ pháp luật “Chia tài sản thuộc sở hữu chung”.
2. Ý kiến khác cho rằng đây là quan hệ pháp luật về “Chia tài sản chung của vợ chồng sau khi ly
hôn”
3. Có ý kiến lại cho rằng đây là quan hệ pháp luật về “Yêu cầu tuyên bố thỏa thuận chia tài sản
chung vô hiệu”.
Câu hỏi 3: (1 điểm)
Nêu ý kiến của anh (chị) về việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp?
Tình tiết bổ sung
Tòa án nhân dân quận 1, TP. H đã thụ lý giải quyết vụ án. Có quan điểm cho rằng TAND quận 1 phải
ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án này vì: “Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 145 BLDS 1995 thì
yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là một năm, kể từ khi phát sinh giao dịch. Việc phân chia tài sản
của bà Xuân, ông Tuấn được thực hiện từ tháng 1 năm 2001, đến nay bà Xuân mới khởi kiện là quá thời hiệu
khởi kiện”.

Câu hỏi 4: (1 điểm)
Anh (chị) có đồng ý với ý kiến này không? Tại sao?
Tình tiết bổ sung
Theo lời trình bày của ông Bùi Văn Tuấn: Ông Tuấn không đồng ý với yêu cầu của bà Xuân. Ông
Tuấn cho rằng thoả thuận phân chia tài sản chung của ông và bà Xuân hoàn toàn trên cơ sở tự nguyện. Việc
thỏa thuận được lập thành văn bản và có chứng thực của Uỷ ban nhân dân phường X, quận 1, TP.H. Vì vậy,
không thể coi việc phân chia tài sản là vô hiệu khi tại thời điểm phân chia căn nhà chưa có giấy tờ sở hữu hợp
pháp là tài sản không hợp pháp. Thực tế, ông và bà Xuân đã thực hiện xong thoả thuận này.
Câu hỏi 5: (1 điểm)
Anh (chị) hãy xác định trọng tâm vấn đề cần chứng minh trong vụ án này?
Câu hỏi 6: (1 điểm)
Anh (chị) hãy xác định những nội dung chính của kế hoạch hỏi tại phiên tòa sơ thẩm?
Tình tiết bổ sung
Tòa án nhân dân quận 1, TP. H đã quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tại phần xét hỏi, bà Xuân xuất
trình bản sao hồ sơ bệnh án và giấy chứng nhận của bệnh viện tâm thần X với nội dung: Vào thời điểm bà
17
Xuân ký văn bản thỏa thuận (tháng 1/2001) bà Xuân là bệnh nhân đang điều trị ngoại trú ở Bệnh viện tâm
thần X.
Luật sư của ông Tuấn đề nghị Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên tòa để giám định tâm thần đối
với bà Xuân.
Câu hỏi 7: (1 điểm)
Theo anh (chị) đề nghị này của Luật sư phía bị đơn có được Hội đồng xét xử chấp nhận hay không?
vì sao ?
Tình tiết bổ sung
Tại phiên tòa, bà Xuân và ông Tuấn đều khẳng định tình trạng nhà số 46 đường Nguyễn Trãi, quận 1,
thành phố H vào thời điểm bà Xuân và ông Tuấn thoả thuận chia, chưa có giấy tờ hợp pháp. Tháng 3 năm
2005 nhà và đất này mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên chủ sử dụng là hộ gia đình
ông Bùi Văn Tuấn. Bà Xuân thừa nhận đã nhận của ông Tuấn số vàng 25/50 lượng vàng trị giá nhà tại thời
điểm ông bà chia tài sản năm 2001. Tuy nhiên, tại thời điểm thỏa thuận bà Xuân cho rằng mình đang bị bệnh
tâm thần nên không điều chỉnh được hành vi của mình.

Bà Xuân yêu cầu Tòa án tuyên bố thỏa thuận chia tài sản chung của bà Xuân và ông Tuấn bị vô hiệu.
Bà Xuân đề nghị chia lại giá trị căn nhà số 46 đường Nguyễn Trãi, quận 1, thành phố H theo quyết định của
Hội đồng định giá xác định giá trị căn nhà theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm là 122 lượng vàng.
Câu hỏi 8: (1 điểm)
Anh (chị) hãy nêu những đánh giá của mình về thỏa thuận phân chia tài sản của bà Xuân và ông Tuấn
năm 2001?
Câu hỏi 9: (1 điểm)
Anh (chị) hãy trình bày những nội dung cơ bản của bản luận cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của bà Xuân tại phiên tòa sơ thẩm.
Tình tiết bổ sung
Bản án sơ thẩm số 29/HNST ngày 17/12/X của Toà án nhân dân quận 1, TP. H quyết định:
1/ Bác yêu cầu của bà Hà Thị Xuân đòi phân chia giá trị căn nhà số 46 đường Nguyễn Trãi, quận 1,
thành phố H theo giá trị tại thời điểm xét xử sơ thẩm.
2/ Tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Bà Xuân không đồng ý với toàn bộ quyết định của bản án số 29/HNST ngày 17/12/X của Toà án
nhân dân quận 1, TP. H.
Câu hỏi 10: (1 điểm)
Anh (chị) hãy giúp bà Xuân soạn thảo đơn kháng cáo bản án số 29/2005/HNST .
(Học viên được sử dụng các văn bản pháp luật)
18
HỌC VIỆN TƯ PHÁP
Đề thi môn: Kỹ năng tranh tụng cña LuËt s trong c¸c vụ việc dân sự
Mã số: LS.DS/TN-10/240
*
Căn nhà số 51 Phường X - Quận T - Tp B do ông Kha mua hóa giá nhà của Nhà nước năm 1991 và
đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu số 1677/HGN ngày 14.12.1991 mang tên chủ sử dụng là ông
Nguyễn Kha. Sinh thời, ông Kha có vợ là bà Trân, hai người không có con. Bà Trân chết năm 1971.
Ngày 28.5.1991 ông Kha lập di chúc thứ nhất tại Phòng Công chứng Nhà nước Tp. B định đoạt toàn
bộ tài sản của mình cho anh Nguyễn Ngọc. Ngày 22.6.1992 ông Kha lập tờ hủy bỏ di chúc ngày 28.5.1991 tại
Phòng Công chứng nhà nước Tp. B, không để di sản lại cho anh Nguyễn Ngọc nữa vì anh Ngọc hiện đang ở

nước ngoài không có ý định về nước sinh sống.
Đến ngày 11.8.1995 ông Kha lập tờ di chúc thứ hai để lại di sản là căn nhà 51 - Phường X - Quận T -
Tp. B cho chị Soan. Ngày 25.12.1997 ông Kha lại ra UBND Phường X - Quận T - Tp. B lập di chúc thứ 3 để
lại tài sản là căn nhà 51 Phường X - Quận T - Tp. B cho anh Nguyễn Ngọc được toàn quyền sở hữu sau khi
ông Kha chết.
Ngày 19.7.2005 Ông Kha chết (Giấy chứng tử số 47/2000 Quyển số 10/P.C ngày 20.7.2005). Ngày
20/3/X Ngọc muốn khởi kiện ra Tòa yêu cầu công nhận quyền thừa kế căn nhà 51 Phường X - Quận T - Tp.
B là của anh Ngọc. Căn nhà này hiện anh Hiền (cháu ruột của ông Kha đang ở, ông Kha cho anh Hiền ở nhờ
từ năm 1947 cho đến nay). Toàn bộ bản chính giấy tờ nhà này hiện chị Soan đang giữ. Anh Ngọc yêu cầu chị
Soan phải trả lại toàn bộ giấy tờ nhà và đề nghị anh Hiền phải trả lại nhà cho anh Ngọc.
Giả sử anh (chị) được anh Ngọc nhờ tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của phía Nguyên đơn trong vụ kiện.
Câu hỏi 1: (1 điểm)
Xác định Tòa án có thẩm quyền thụ lý giải quyết vụ án này?
Câu hỏi 2: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy giúp anh Ngọc soạn thảo đơn khởi kiện và chuẩn bị hồ sơ khởi kiện.
Tình tiết bổ sung
Căn cứ theo yêu cầu khởi kiện của anh Ngọc, liên quan đến việc xác định quan hệ pháp luật tranh
chấp, có ý kiến cho rằng :
1. Đây là quan hệ pháp luật “Tranh chấp về quyền thừa kế”.
2. Có ý kiến cho rằng đây là quan hệ pháp luật về “Đòi giấy tờ nhà và đòi thừa kế”
3. Ý kiến khác lại cho rằng đây là quan hệ pháp luật về “Đòi tài sản” vì sau khi ông Kha chết
(19.7.2005) di chúc ngày 25.12.1997 – “để lại tài sản là căn nhà 51 Phường X - Quận T - Tp. B cho anh
Nguyễn Ngọc được toàn quyền sở hữu” phát sinh hiệu lực pháp luật. Vì vậy, anh Ngọc trở thành chủ sở hữu
hợp pháp căn nhà số 51 Phường X - Quận T - Tp B. Anh Ngọc được quyền đòi lại tài sản của mình.
Câu hỏi 3: (1 điểm)
Nêu ý kiến của anh (chị) về việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp?
Tình tiết bổ sung
Sau khi nhận được thông báo của Tòa án về việc kiện. Chị Soan gửi văn bản trình bày với nội dung
cụ thể như sau:

Căn nhà số 51 Phường X - Quận T - Tp. B là tài sản riêng của ông Kha. Ngày 22.6.1992 Ông Kha lập
tờ hủy bỏ di chúc ngày 28.5.1991 tại Phòng Công chứng Nhà nước Tp. B, không để di sản lại cho anh
Nguyễn Ngọc nữa. Đến ngày 11.8.1995 thì ông Kha lập tờ di chúc để lại di sản là căn nhà này cho chị Soan.
Vì vậy, chị Soan cho rằng di chúc lần 1 lập tại Phòng công chứng Nhà nước Tp. B ngày 28.5.1991 đã bị hủy
bỏ và tờ di chúc ngày 25.12.1997 lập tại UBND phường X- Quận T - Tp. B do anh Ngọc đưa ra để đòi thừa
kế là giả mạo và vô hiệu vì di chúc này lập tại UBND Phường và do Ủy viên văn phòng ký xác nhận là không
có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Chị Soan đề nghị Tòa án bác yêu cầu của phía Nguyên đơn, công
nhận quyền thừa kế căn nhà số 51 Phường X - Quận T - Tp B là của chị Soan.
Về phía anh Hiền (người đang ở tại căn nhà này) cũng có đơn trình bày gửi Tòa: Anh là cháu của ông
Kha, được ông Kha cho ở nhờ từ năm 1947 đến nay. Anh Hiền không yêu cầu tranh chấp gì đối với căn nhà
này và cũng không có ý kiến gì về việc tranh chấp giữa anh Ngọc và chị Soan. Anh Hiền xin vắng mặt trong
tất cả các buổi làm việc và xét xử của Tòa án.
Câu hỏi 4: (1 điểm)
Anh (chị) hãy xác định trọng tâm vấn đề cần chứng minh trong vụ án này?
Tình tiết bổ sung
19
Sau khi Tòa thụ lý giải quyết vụ án theo yêu cầu của anh Ngọc. Bà Vân có đến Tòa trình bày: Bà và
Ông Kha có quan hệ tình cảm với nhau từ năm 1966 và có con chung là anh Nguyễn Ngọc. Do thời điểm bà
chung sống với ông Kha, bà Trân (vợ chính thức của ông Kha) vẫn còn sống nên quan hệ của ông bà không
được công khai và không có đăng ký kết hôn. Khi ông Kha mua hóa giá nhà, bà Vân có đưa cho ông Kha 21
lượng vàng SJC để đóng tiền hóa giá nhà, nhưng do quan hệ tình cảm nên không lập văn bản về việc đưa
vàng này. Bà Vân yêu cầu được quyền hưởng ½ trị giá căn nhà 51 Phường X - Quận T - Tp. B.
Tòa án có thông báo yêu cầu bà Vân nộp tạm ứng án phí đối với yêu cầu của mình, nhưng Bà Vân
không nộp.
Câu hỏi 5: (1 điểm)
Anh (chị) hãy xác định tư cách đương sự trong vụ án?
Tình tiết bổ sung
Tại phiên tòa, anh Ngọc cho rằng: Tờ di chúc do Ông Kha lập sau cùng vào ngày 25.12.1997 đã phát
sinh hiệu lực pháp luật. Di chúc này do Ông Kha lập tại UBND Phường X - Quận T – Tp.B trong tình trạng
sức khỏe còn minh mẫn sáng suốt (có giấy chứng nhận sức khỏe) và đã được đóng dấu xác nhận của UBND

Phường, như vậy đã thể hiện ý chí của Ông Kha là để lại di sản cho anh Nguyễn Ngọc.
Phía chị Soan thì cho rằng: Tờ di chúc thứ 3 lập tại UBND Phường X - Quận T - Tp B không có hiệu
lực do ông Nguyễn Đức là ủy viên văn phòng ký tên đóng dấu là trái thẩm quyền, vì chỉ có Chủ tịch hoặc Phó
chủ tịch mới có thẩm quyền theo quy định được ký chứng nhận di chúc.
Xem xét nội dung của các tờ di chúc. Tờ di chúc thứ nhất ngày 28.5.1991 để lại di sản cho anh
Nguyễn Ngọc, sau đó tờ di chúc này bị hủy bỏ với lý do là “con trai tôi đã ra nước ngoài sinh sống”. Đồng
thời trong tờ di chúc này ông Kha cũng xác nhận anh Nguyễn Ngọc là con ruột của ông Kha và bà Vân.
Trong tờ di chúc thứ hai thì ông Kha xác định chị Soan là con nuôi và định đoạt tài sản cho chị Soan. Tờ di
chúc thứ 3 định đoạt toàn bộ di sản cho anh Nguyễn Ngọc. Tờ di chúc này không có người làm chứng, được
đánh máy dưới có xác nhận của ông Nguyễn Đức ủy viên văn phòng phường X, quận T, TP. B ký tên, đóng
dấu.
Câu hỏi 6: (1 điểm)
Anh (chị) hãy nêu đánh giá của mình về tính hợp pháp của 3 bản di chúc:
(i) Di chúc lập ngày 28.5.1991 ông Kha tại Phòng Công chứng Nhà nước Tp. B;
(ii) Di chúc lập ngày 11.8.1995 định đoạt tài sản cho chị Soan;
(iii) Di chúc lập ngày 25.12.1997 tại UBND phường X - Quận T - Tp. B định đoạt toàn bộ di sản của
ông Kha cho anh Ngọc.
Câu hỏi 7: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy chuẩn bị bản luận cứ để bảo vệ quyền lợi cho anh Nguyên Ngọc.
Tình tiết bổ sung
Tại bản án số 69/DSST ngày 19/12/X của TAND quận T, TP. B đã xử :
Xác định di sản thừa kế của ông Kha là căn nhà số 51 Phường X - Quận T - Tp B:
1/ Chấp nhận yêu cầu phản tố của chị Soan. Công nhận chị Soan được hưởng thừa kế toàn bộ căn
nhà số 51 Phường X - Quận T - Tp B. Buộc anh Hiền phải giao trả căn nhà số 51 Phường X - Quận T - Tp.B
cho chị Soan.
2/ Bác yêu cầu của nguyên đơn anh Ngọc đòi hưởng thừa kế di sản là căn nhà số 51 Phường X -
Quận T - Tp B.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Anh Nguyễn Ngọc không đồng ý với toàn bộ quyết định của bản án dân sự sơ thẩm số 69/DSST ngày
19/12/2005 của TAND quận T, TP. B.

Câu hỏi 8: (1 điểm)
Anh (chị) thấy có cần thiết trao đổi vấn đề gì với anh Ngọc về yêu cầu kháng cáo?
Câu hỏi 9: (1 điểm)
Hãy giúp anh Ngọc viết đơn kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm số 69/DSST ngày 19/12/X của TAND
quận T, TP. B.
(Học viên được sử dụng các văn bản pháp luật)

20
HỌC VIỆN TƯ PHÁP
Đề thi môn: Kỹ năng tranh tụng cña LuËt s trong c¸c vụ việc dân sự
Mã số: LS.DS/TN-11/240
*
Năm 1976 ông Đình và vợ là bà Nghiêm mua một mảnh đất thổ cư thửa đất số 65 tờ bản đồ 49, diện
tích 480m
2
của bà Ba tại xóm Hạnh, xã T, huyện K, Hà Tây. Khi mua có lập hợp đồng, không có chứng thực
của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhưng có 2 người làm chứng là anh Hào (con bà Ba) và bà Liên (nhà
hàng xóm liền kề mảnh đất chuyển nhượng). Sau khi mua đất vợ chồng ông Đình, bà Nghiêm và vợ chồng
anh Chung, chị Thu (con trai, con dâu ông Đình, bà Nghiêm) cùng ở trên mảnh đất này.
Tháng 7 năm 1993 ông Đình và bà Nghiêm lập một bản di chúc chung, di chúc không có người làm
chứng nhưng có xác nhận của UBND xã T, huyện K, Hà Tây. Bản di chúc có nội dung phân chia mảnh đất số
thửa số 65 tờ bản đồ 49 cho con gái là chị Hoa 200m
2
, con trai là anh Chung 280m
2
.
Ngày 4/9/1993 bà Nghiêm chết. Tháng 10/1994 ông Đình do bệnh tật nên về ở nhà vợ chồng con gái là
chị Hoa ở quận Đ, TP. Hà nội - nhà gần bệnh viện để tiện đi lại điều trị. Vợ chồng anh Chung vẫn ở trên
mảnh đất của ông Đình, bà Nghiêm tại xóm Hạnh, xã T, huyện K, Hà Tây. Năm 2000, anh Chung phá dỡ
toàn bộ nhà cũ, xây dựng nhà mới, bếp hiện trạng như hiện nay. Việc phá dỡ nhà này anh Chung không hề

hỏi ý kiến gì của ông Đình. Năm 2005, chị Thu tiến hành làm thủ tục đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 480m
2
(mảnh đất có nguồn gốc của ông Đình, bà
Nghiêm mua năm 1976). Tháng 4/X ông Đình mới biết việc chị Thu đang tiến hành xin cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất của vợ chồng ông. Ông đã làm đơn lên UBND xã đề nghị giải quyết nhiều lần với thiện
chí hòa giải giữ đoàn kết trong gia đình và vì lợi ích của các con là chị Hoa và anh Chung. Tuy nhiên, chị Thu
cho rằng bà Nghiêm đã cho vợ chồng chị mảnh đất này. Ông Đình và chị Hoa không còn quyền gì đối với
mảnh đất này nữa.
Vì vậy, ngày 4/5/X ông Đình muốn khởi kiện ra Tòa yêu cầu buộc chị Hoa phải trả lại toàn bộ nhà đất
của vợ chồng ông

cho ông.
Ông Đình đã đến văn phòng Luật sư, nhờ anh (chị) là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông
trong vụ kiện này.
Câu hỏi 1: (1 điểm)
Anh (chị) cần trao đổi với ông Đình những vấn đề gì để làm rõ nội dung tranh chấp?
Tình tiết bổ sung
Qua trao đổi, ông Đình muốn khởi kiện ra Tòa với các yêu cầu sau:
(i) Hủy toàn bộ di chúc chung của vợ chồng ông lập ngày 22/7/1993 vì đây là di chúc có điều kiện. Vợ
chồng ông cùng định đoạt cho anh Chung được hưởng di sản thừa kế với điều kiện được thể hiện rõ trong di
chúc là: Anh Chung phải có hiếu với bố mẹ, chăm sóc bố mẹ chu đáo khi bố mẹ còn sống, chăm lo cho em út
là chị Hoa và hương khói cho bố mẹ khi trăm tuổi. Tuy nhiên, anh Chung đã không thực hiện bất cứ một điều
kiện nào theo điều kiện có hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng ông bà;
(ii) Chia thừa kế di sản của bà Nghiêm bằng ½ diện tích đất 267m
2
theo pháp luật;
(iii) Đề nghị Tòa án buộc hộ gia đình chị Thu, anh Chung phải trả lại toàn bộ diện tích đất của vợ
chồng ông mà anh Chung, chị Thu đang quản lý.
Câu hỏi 2: (1,5 điểm)

Anh (chị) cần trao đổi gì với ông Đình về các yêu cầu khởi kiện của phía nguyên đơn?
Câu hỏi 3: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy giúp ông Đình lựa chọn quan hệ pháp luật tranh chấp để khởi kiện?
Tình tiết bổ sung
Ông Đình hiện đang cư trú tại số nhà 27, phố G, quận Đ, Hà nội. Vợ chồng anh Chung, chị Thu hiện
cư trú trên mảnh đất đang tranh chấp tại xóm Hạnh, xã T, huyện K, Hà Tây. Qua trao đổi, ông Đình cung cấp
các chứng cứ sau cho Luật sư: Trích lục bản đồ thửa đất năm 1960 số thửa số 65 tờ bản đồ 49 diện tích 534m
2
đứng tên chủ sử dụng đất là bà Ba; Văn bản nhượng lại đất ngày 1/11/1976 của bà Ba cho vợ chồng ông
Đình; Trích lục bản đồ thửa đất năm 1960 số thửa số 65 tờ bản đồ 49 diện tích 534m
2
đứng tên chủ sử dụng
đất là vợ chồng ông Đình, bà Nghiêm; Bản di chúc chung của vợ chồng ông Đình lập ngày 22/7/1993; Giấy
chứng tử của bà Nghiêm ngày 4/9/1993.
Câu hỏi 4: (1 điểm)
Anh (chị) hãy xác định Tòa án có thẩm quyền thụ lý giải quyết vụ án này?
Câu hỏi 5: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy giúp ông Đình soạn thảo đơn khởi kiện và chuẩn bị hồ sơ khởi kiện cho nguyên đơn.
21
Tình tiết bổ sung
Trong quá trình Tòa án chuẩn bị xét xử, anh Chung và chị Thu trình bày: Nhà, đất đang tranh chấp là
do vợ chồng anh chị bỏ ra mua năm 1976 của bà Ba. Khi giao dịch mua bán nhờ bố mẹ anh Chung là ông
Đình, bà Nghiêm đứng tên mua bán. Việc mua bán này có sự chứng kiến của anh Hào và bà Liên. Anh
Chung, chị Thu không công nhận “văn bản nhượng lại đất ngày 1/11/1976” do ông Đình cung cấp. Mảnh đất
ghi trong di chúc năm 1993 của ông Đình, bà Nghiêm không phải là mảnh đất vợ chồng anh Chung đang
quản lý. Anh Chung, chị Thu không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Đình.
Câu hỏi 6: (1 điểm)
Anh (chị) hãy xác định tư cách những người tham gia tố tụng trong vụ án này?
Câu hỏi 7: (1 điểm)
Xác định những vấn đề trọng tâm cần chứng minh trong vụ án?

Tình tiết bổ sung
Theo nội dung văn bản nhượng lại đất ngày 1/11/1976 diện tích nhà đất chuyển nhượng cho vợ chồng
ông Đình được mô tả tứ cận đúng với vị trí thửa đất vợ chồng anh Chung ở đang tranh chấp hiện nay. Do bà
Ba đã chết nên ông Đình đề nghị trưng cầu giám định chữ ký của bà Ba trong văn bản nhượng đất của bà Ba
ngày 1/11/1976. Tại bản kết luận giám định của Viện khoa học hình sự - Bộ Công An đã kết luận: “ Chữ ký
trên văn bản nhượng đất ngày 1/11/1976 và chữ ký của bà Ba trong các tài liệu mẫu là do cùng một người ký
ra”. Theo lời trình bày của anh Hào (con bà Ba) tại phiên tòa, anh Hào khẳng định mẹ anh và vợ chồng ông
Đình trực tiếp mua bán đất và trả tiền, anh Chung chỉ là người đi cùng, anh không biết có hay không có việc
ủy quyền của anh Chung nhờ bố mẹ mua đất. Sau khi chuyển nhượng mẹ anh đã làm thủ tục để vợ chồng ông
Đình được đứng tên trong sổ địa chính mảnh đất mẹ anh chuyển nhượng.
Tại phiên tòa, anh Chung cũng không xuất trình được chứng cứ nào thể hiện anh ủy quyền cho bố mẹ
đứng tên nhận chuyển nhượng mảnh đất của bà Ba.
Địa chính xã T, huyện K cung cấp hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của chị Thu có ủy
quyền của anh Chung cho chị Thu đứng tên. Nội dung giấy ủy quyền thể hiện “Năm 1976 tôi và mẹ tôi đứng
tên mua mảnh đất này. Tôi là người được hưởng thừa kế theo di chúc năm 1993 của mẹ. Nay tôi ủy quyền
cho vợ tôi lập tờ kê khai về đất và làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa số 65 tờ bản đồ
49 diện tích 480m
2
tại xã T, huyện K, Hà Tây”.
Câu hỏi 8: (1,5 điểm)
Trên cơ sở tất cả các tình tiết của vụ án, anh (chị) hãy viết bản Luận cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của nguyên đơn tại phiên tòa sơ thẩm.
(Học viên được sử dụng các văn bản pháp luật)
22
HỌC VIỆN TƯ PHÁP
Đề thi môn: Kỹ năng tranh tụng cña LuËt s trong c¸c vụ việc dân sự
Mã số: LS.DS/TN-12/240
*
Theo lời trình bày của chị Nguyễn Thị Tuyết ngày 2/6/X: Chị xây dựng gia đình với anh Bình năm
1985 có tìm hiểu có đăng ký kết hôn ngày 07/01/1985 tại UBND xã H, huyện B, tỉnh Hải Dương. Sau khi

cưới, vợ chồng sống bình thường, đến năm 2001 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do kinh tế
khó khăn, anh Bình không có công ăn việc làm nên hay la cà quán xá, rượu say về đánh đập chị Tuyết và
đuổi chị Tuyết ra khỏi nhà. Từ năm 2003 đến nay, chị phải đi thuê nhà tại thị trấn M, huyện T, Hải Dương để
ở và mở cửa hàng gội đầu để kiếm tiền nuôi con. Vợ chồng chị sống ly thân đã 5 năm. Nay chị Tuyết xác
định tình cảm vợ chồng không còn nên xin được ly hôn.
Về con chung: Anh chị có 02 con chung là cháu Nguyễn Quốc Thái sinh ngày 15/2/1986 và cháu
Nguyễn Kiều Ngân sinh ngày 08/04/1990. Khi ly hôn các cháu ở với ai chị Tuyết cũng đồng ý, nếu ở với chị
thì chị không yêu cầu anh Bình cấp dưỡng nuôi con, nếu các cháu ở với anh Bình thì chị cấp dưỡng nuôi con
mỗi tháng 200.000 đồng.
Về tài sản chung: Vợ chồng có 01 ti vi sony, 1tủ, 1 đầu video. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị được
cấp đất dãn dân với diện tích là 220m
2
đất tại xã H, huyện B, tỉnh Hải Dương. Anh Bình, chị Tuyết đóng gạch
xây một nhà cấp 4, bếp, công trình phụ. Diện tích đất này đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đứng tên anh Bình. Năm 1998 vợ chồng anh chị đã bán cho vợ chồng anh Tính 55m
2
đất được 37.000.000đ,
cả hai vợ chồng ký giấy bán, hợp đồng chuyển nhượng không qua công chứng chứng thực, khi ly hôn chị
không tranh chấp gì với hợp đồng này. Vợ chồng không nợ nần gì ai và cũng không cho ai nợ nần gì. Ngoài
ra vợ chồng và cháu Thái, cháu Minh còn được cấp 2100m
2
đất cấy lúa tại xã H, huyện B, Hải Dương. Nhà
nước đã lấy hơn 300m
2
đất cấy lúa vào các dự án. Tiền đền bù anh Bình cầm hết, nay còn hơn 1000m
2
đất cấy
lúa. Chị Tuyết đề nghị Toà chia cho chị để chị có ruộng cấy lúa. Khi ly hôn các đồ dùng sinh hoạt đã cũ nên
chị Tuyết để anh Bình sử dụng. Chị Tuyết chỉ đề nghị Toà chia phần đất để chị làm nhà ở và chia đất để chị
cùng các con cấy lúa.

Câu hỏi 1: (1 điểm)
Anh (chị) hãy xác định Tòa án có thẩm quyền thụ lý giải quyết yêu cầu của chị Tuyết.
Câu hỏi 2: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy giúp chị Tuyết soạn thảo đơn xin ly hôn và chuẩn bị hồ sơ khởi kiện cho chị Tuyết.
Tình tiết bổ sung
Sau khi nhận được thông báo của Tòa án về việc thụ lý giải quyết vụ án ly hôn của chị Tuyết, anh Bình
có văn bản ghi ý kiến trình bày: Thời gian và điều kiện kết hôn như cô Tuyết trình bày là đúng. Năm 2000 vợ
chồng có va chạm về kinh tế, cô Tuyết xúc phạm tôi, tôi có bảo nếu không ở được thì đi, nên cô Tuyết đã bỏ
nhà đi, cô Tuyết viết đơn ly hôn ra xã, xã hoà giải cô Tuyết về được 3 năm đến năm 2003 cô Tuyết lại bỏ nhà
đi, nay cô Tuyết xin ly hôn, tôi xác định tình cảm không còn tôi đồng ý ly hôn.
Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung như cô Tuyết trình bày. Khi ly hôn tôi xin được nuôi cả hai
con, việc cấp dưỡng nuôi con là tuỳ cô Tuyết.
Về tài sản chung: Các đồ dùng sinh hoạt như cô Tuyết trình bày là đúng. Riêng về đất thì năm 1985 xã
cấp đất dãn dân tiêu chuẩn thương binh cho tôi. Năm 1997 chúng tôi trồng cây bị thua lỗ nên vợ chồng tôi đã
bán cho vợ chồng anh Tính, chị Nguyệt 55m
2
đất để trả nợ, vợ chồng tôi không tranh chấp gì hợp đồng
chuyển nhượng đất này. Đến nay vợ chồng tôi không nợ nần gì ai. Khi ly hôn tài sản chung vợ chồng đề nghị
chia đôi, riêng mảnh đất là tài sản riêng của tôi, còn nhà là của mẹ tôi. Đề nghị Toà không chia nhà đất. Phần
ruộng cấy lúa xã cấp cho 4 người gồm tôi, cô Tuyết, cháu Thái, cháu Ngân mỗi người 1,5 sào. Khi Nhà nước
lấy 1 sào đất để đưa vào dự án đã đền bù tiền, số tiền này tôi đã trả nợ hết. Cô Tuyết bỏ không cấy nhiều năm
nay, vì vậy đề nghị Toà chia cho hai cháu Thái và Ngân mỗi cháu 1,5 sào theo tiêu chuẩn, còn lại Tòa giao
cho tôi để tôi có điều kiện sinh sống.
Câu hỏi 3: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy xác định những vấn đề cần chứng minh trong vụ án này.
Tình tiết bổ sung
Theo lời trình bày của bà Mão (là mẹ đẻ anh Bình): “Anh Bình lấy chị Tuyết năm 1985, tôi xây nhà
cấp 4 năm 1986, trên mảnh đất anh Bình được cấp tháng 12 năm 1985, sau đó cho 2 vợ chồng ra đó ở riêng.
Quá trình ở anh chị không có công sức gì ngoài làm giếng khoan nhưng đã hỏng. Nếu anh chị ly hôn phải trả
lại giá trị nhà cho tôi”.

23
Anh Tính, chị Nguyệt cũng có văn bản trình bày gửi Tòa: Năm 1997 vợ chồng tôi mua của vợ chồng
chị Tuyết, anh Bình 55m
2
đất với giá 45.000.000đ. Chúng tôi đã xây nhà ăn ở ổn định. Nay vợ chồng chị
Tuyết ly hôn đề nghị Toà bảo vệ quyền lợi cho vợ chồng tôi. Chúng tôi xin được vắng mặt tại Toà.
Câu hỏi 4: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy xác định tư cách đương sự trong vụ án.
Tình tiết bổ sung
Qua xác minh tại chính quyền địa phương thì cuối năm 1985 xã có chủ trương cấp đất dãn dân cho
các hộ gia đình. Thời điểm này anh Bình mới xây dựng gia đình với chị Tuyết, do anh Bình là thương binh
nên được ưu tiên được gắp thăm nhận đất trước. Khi làm ăn thua lỗ cả hai vợ chồng cùng thỏa thuận chuyển
nhượng đất cho vợ chồng anh Tính 55m
2
. Đất cấy lúa gia đình anh Bình có 4 nhân khẩu gồm anh Bình, chị
Tuyết, cháu Thái, cháu Ngân được cấp 2.100m
2
. Sau đó Nhà nước lấy đất làm các công trình phúc lợi, gia
đình anh Bình cũng bị thu hồi 281m
2
đất và được đền bù, tiền do anh Bình đại diện hộ gia đình nhận. Riêng
170m
2
đất cũng nằm trong diện giải toả và đã có phương án đền bù nhưng chưa nhận tiền, do vậy vẫn còn
1.725m
2
là tiêu chuẩn của 4 nhân khẩu.
Anh Bình khẳng định đất ở cấp cho riêng anh, nhà do mẹ anh bỏ tiền ra xây, về ngôi nhà cấp 4 chị
Tuyết có công đóng gạch để xây nhà, và từ khi hai vợ chồng ra ở riêng có làm các công trình phụ như xây
bếp, láng sân.

Câu hỏi 5: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy xác định tài sản chung của vợ chồng chị Tuyết.
Câu hỏi 6: (1 điểm)
Xác định những vấn đề cơ bản cần tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm
Tình tiết bổ sung
Tại phiên tòa, các bên vẫn giữ nguyên yêu cầu và quan điểm của mình. Kết quả thẩm vấn tại phiên
tòa thể hiện đất tranh chấp thuộc loại đất dãn dân, cấp cho hộ gia đình anh Bình, chị Tuyết.
Bà Mão khẳng định đất chỉ cấp riêng cho anh Bình, chứng cứ là giấy tờ đất chỉ đứng tên anh Bình. Về
nhà ở, năm 1986 chị Tuyết và anh Bình mới lấy nhau chưa có tài sản nên bà Mão xây nhà hai gian, sau này
do xã cấp tiền chính sách thương binh nên anh Bình có xây thêm một gian nhà, vì vậy đề nghị chia giá trị
ngôi nhà là 4 phần, của bà Mão 2 phần, anh Bình 1 phần, chị Tuyết 1 phần để hỗ trợ cho chị Tuyết khi ly hôn.
Câu hỏi 7: (2 điểm)
Trên cơ sở tất cả các tình tiết của vụ án, anh (chị) hãy viết bản luận cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của chị Tuyết tại phiên tòa sơ thẩm.
(Học viên được sử dụng các văn bản pháp luật)
24
HỌC VIỆN TƯ PHÁP
Đề thi môn: Kỹ năng tranh tụng cña LuËt s trong c¸c vụ việc dân sự
Mã số: LS.DS/TN-13/240
*
Theo lời trình bày của bà Nguyễn Thị Xuân: Bà là chủ sở hữu ngôi nhà hai tầng trên diện tích đất
90m
2
tại thửa số 95 tờ bản đồ số 32 (bản đồ năm 1994) ở khu T, xã X, huyện Đ, Hà Nội. Nhà và đất này hiện
do vợ chồng con trai bà là anh Đoàn và chị Huyền quản lý sử dụng. Nguồn gốc đất do bố mẹ bà để lại, còn
nhà do bà bỏ tiền ra xây dựng. Diện tích đất này, năm 1987 bà Xuân đã được đứng tên trong sổ địa chính xã.
Bà Xuân xuất trình trích lục bản đồ thửa đất năm 1987 đứng tên chủ sử dụng đất bà Nguyễn Thị Xuân, diện
tích đất 273m
2
loại đất thổ cư. Sau đó bà Xuân đã bán đi 183 m

2
đất, nay còn 90m
2
. Năm 2004 bà Xuân đã
làm đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và được UBND huyện Đ, Hà nội cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất với diện tích đất là 90m
2
đất tại khu T, xã X, huyện Đ, Hà nội.
Tháng 12/2004 con gái của bà là chị Ngọc sinh con ở Hải Dương, bà xuống thành phố Hải Dương ở
với vợ chồng con gái để tiện chăm sóc cháu ngoại. Vì vậy, bà đã viết giấy giao cho vợ chồng con trai bà là
anh Đoàn và chị Huyền ở trên mảnh đất này để trông nom nhà cửa khi bà đi vắng. Tháng 3/X bà về quê, thấy
nhà bà đã bị vợ chồng anh Đoàn tự ý sửa chữa kết cấu nhà, xây tường bao quanh nhà mà không hề hỏi ý kiến
bà và bà không biết gì. Vợ chồng con trai bà không cho bà vào nhà, đuổi bà về Hải Dương ở với con gái là
chị Ngọc vì cho rằng nhà đất bà đã cho vợ chồng anh Đoàn, bà không còn quyền gì đối với nhà, đất này nữa.
Do vợ chồng anh Đoàn đối xử với bà rất thậm tệ, vì vậy ngày 1/4/X bà Xuân muốn khởi kiện ra Tòa
yêu cầu vợ chồng anh Đoàn phải trả lại nhà đất cho mình. Bà Xuân nhờ anh (chị) là người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp.
Câu hỏi 1: (1,5 điểm)
Anh (chị) cần trao đổi với bà Xuân những vấn đề gì trước khi khởi kiện?
Câu hỏi 2: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy giúp bà Xuân lựa chọn quan hệ pháp luật để khởi kiện ra Tòa án có thẩm quyền.
Tình tiết bổ sung
Qua trao đổi, bà Xuân đề nghị Luật sư giúp bà khởi kiện với các yêu cầu cụ thể sau:
- Yêu cầu Toà án xác định nhà đất nói trên thuộc quyền sở hữu, sử dụng của bà;
- Buộc anh Đoàn và chị Huyền trả lại diện tích đất 90m
2
tại thửa số 95 tờ bản đồ số 32 khu T, xã X,
huyện Đ, Hà Nội. Bà Xuân sẽ thanh toán toàn bộ công sức cải tạo nhà cho vợ chồng con trai bà và tự nguyện
tạo điều kiện về chỗ ở cho vợ chồng anh Đoàn với số tiền là 80 triệu đồng.
Câu hỏi 3: (1 điểm)

Anh (chị) hãy giúp bà Xuân soạn thảo đơn khởi kiện
Câu hỏi 4: (1 điểm)
Hãy giúp bà Xuân chuẩn bị hồ sơ khởi kiện.
Tình tiết bổ sung
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tiến hành gửi thông báo về việc thụ lý tới các đương sự. Ngày 20/6/X vợ
chồng anh Đoàn có văn bản ghi ý kiến gửi Tòa với nội dung: Anh chị không đồng ý với yêu cầu của nguyên
đơn. Anh chị khẳng định nguồn gốc đất là của bà Xuân nhưng bà đã cho vợ chồng anh. Vợ chồng anh Đoàn
xuất trình cho Toà án biên bản họp gia đình năm 2001 và giấy giao quyền sử dụng, sở hữu đất ở năm 2004 có
nội dung: Bà Xuân cho con trai là anh Đoàn, chị Hiền nhà đất nói trên. Quá trình ở trên mảnh đất này, vợ
chồng anh chị đã xây dựng và cải tạo lại nhà, bà Xuân thỉnh thoảng vẫn về quê, bà biết mà không có ý kiến
gì. Vợ chồng anh chị cũng đã làm thủ tục gửi UBND xã X, huyện Đ, Hà nội xin chuyển quyền sử dụng đất
nhưng chưa hoàn tất. Anh Đoàn, chị Huyền đề nghị Toà án xử bác yêu cầu của nguyên đơn.
Câu hỏi 5: (1 điểm)
Yêu cầu của anh Đoàn, chị Huyền có phải là yêu cầu phản tố không?
Tình tiết bổ sung
Chứng cứ do bị đơn xuất trình gồm có:
- Bản “Di chúc thư” ngày 05/05/2001 của bà Xuân;
- Biên bản họp gia đình ngày 05/05/2001 và “Giấy giao quyền sử dụng đất, sở hữu nhà ở” cùng lập
ngày 05/05/2001 với nội dung “bà Xuân giao quyền sử dụng đất, sở hữu nhà và đất ở cho vợ chồng con trai
cả là anh Đoàn”.
Tất cả các chứng cứ này đều được viết bằng tay, có chữ ký của bà Xuân, anh Đoàn và chị Ngọc. Di
chúc thư và giấy giao quyền sử dụng đất, sở hữu nhà ở đều không qua Cơ quan nhà nước có thẩm quyền công
25

×