Khoá luận tốt nghiệp Khoa Kế toán
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
2.1.2. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty với qui trình đánh giá
trọng yếu, rủi ro trong kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền ... xxxvii
2.2.2.1. Xác định cơ sở thích hợp cho việc định lượng tính trọng yếu ........................... lxviii
2.2.3. Tổng kết qui trình đánh giá trọng yếu, rủi ro trong kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền
do Công ty KPMG Việt Nam thực hiện ......................................................................................... xcii
2.2.4. Nhận xét về qui trình đánh giá trọng yếu, rủi ro trong kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền
do Công ty TNHH KPMG Việt Nam thực hiện ............................................................................. xcv
Phần III ............................................................................................................................................. ci
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ................................................................... cii
QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ TRỌNG YẾU, RỦI RO TRONG ......................................................... cii
KIỂM TOÁN CHU TRÌNH BÁN HÀNG – THU TIỀN DO ......................................................... cii
CÔNG TY TNHH KPMG VIỆT NAM THỰC HIỆN .................................................................... cii
3.1. Tính tất yếu phải hoàn thiện qui trình đánh giá trọng yếu, rủi ro trong kiểm toán chu trình bán
hàng – thu tiền do Công ty TNHH KPMG thực hiện ....................................................................... cii
3.1.1. Phương hướng phát triển và chiến lược của Công ty ............................................................ cii
3.2. Giải pháp hoàn thiện qui trình đánh giá trọng yếu, rủi ro trong kiểm toán chu trình bán hàng -
thu tiền do Công ty TNHH KPMG Việt Nam thực hiện ............................................................... cvii
3.3. một số kiến nghị nhằm thực hiện hoàn thiện qui trình đánh giá trọng yếu, rủi ro trong kiểm
toán chu trình bán hàng - thu tiền ................................................................................................. cxiv
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. iii
SV: Đặng Phương Loan Lớp: Kiểm toán 46B
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kế toán
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TIẾNG ANH
ACCA Association of Chartered Certificate Accounting
ADPT Audit Difference Posting Threshold
AP Audit Program
AR Audit Risk
CR Control Risk
DR Detection Risk
IR Inherent Risk
KAM KPMG Audit Manual
MPP Materiality for Planning Purpose
MUS Monetary unit sampling
RoSM Risk of significant misstatement
SMT Significant misstatement threshold
SE Small entities
VSE Very small entities
SV: Đặng Phương Loan Lớp: Kiểm toán 46B
TIẾNG VIỆT
BCĐKT Bảng cân đối kế toán
BCKQKD Báo cáo kết quả kinh doanh
BCTC Báo cáo tài chính
BGĐ Ban giám đốc
HTK Hàng tồn kho
KTV Kiểm toán viên
KSNB Kiểm soát nội bộ
GTLV Giấy tờ làm việc
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
i
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kế toán
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
2.1.2. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty với qui trình đánh giá
trọng yếu, rủi ro trong kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền ... xxxvii
Chu trình bán hàng – thu tiền ..................................................................................... lvii
Thử nghiệm kiểm soát – Hệ thống tiếp cận giá ........................................................... lvii
Chu trình bán hàng – thu tiền .................................................................................... lviii
Thử nghiệm kiểm soát – Thủ tục đối chiếu giữa Báo cáo hàng bán và Báo cáo số hàng
vận chuyển ................................................................................................................ lviii
Khác nhau lix
Chu trình bán hàng – thu tiền ....................................................................................... lix
Thử nghiệm kiểm soát – Thủ tục đối chiếu giữa Báo cáo bán hàng và Báo cáo số tiền
nhận được .................................................................................................................... lix
Chu trình bán hàng – thu tiền ................................................................................... lxvii
Thử nghiệm kiểm soát – Kiểm tra tính hiệu quả của các thủ tục kiểm soát đã thiết kế
.................................................................................................................................. lxvii
2.2.2.1. Xác định cơ sở thích hợp cho việc định lượng tính trọng yếu ........................... lxviii
2.2.3. Tổng kết qui trình đánh giá trọng yếu, rủi ro trong kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền
do Công ty KPMG Việt Nam thực hiện ......................................................................................... xcii
2.2.4. Nhận xét về qui trình đánh giá trọng yếu, rủi ro trong kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền
do Công ty TNHH KPMG Việt Nam thực hiện ............................................................................. xcv
Phần III ............................................................................................................................................. ci
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ................................................................... cii
QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ TRỌNG YẾU, RỦI RO TRONG ......................................................... cii
KIỂM TOÁN CHU TRÌNH BÁN HÀNG – THU TIỀN DO ......................................................... cii
CÔNG TY TNHH KPMG VIỆT NAM THỰC HIỆN .................................................................... cii
3.1. Tính tất yếu phải hoàn thiện qui trình đánh giá trọng yếu, rủi ro trong kiểm toán chu trình bán
hàng – thu tiền do Công ty TNHH KPMG thực hiện ....................................................................... cii
3.1.1. Phương hướng phát triển và chiến lược của Công ty ............................................................ cii
3.2. Giải pháp hoàn thiện qui trình đánh giá trọng yếu, rủi ro trong kiểm toán chu trình bán hàng -
thu tiền do Công ty TNHH KPMG Việt Nam thực hiện ............................................................... cvii
3.3. một số kiến nghị nhằm thực hiện hoàn thiện qui trình đánh giá trọng yếu, rủi ro trong kiểm
toán chu trình bán hàng - thu tiền ................................................................................................. cxiv
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. iii
LỜI MỞ ĐẦU
1. Ý nghĩa của Đề tài về mặt lý luận và thực tiễn
Trọng yếu và rủi ro là hai khái niệm cơ bản luôn giữ một vai trò quan trọng
trong mọi giai đoạn của cuộc kiểm toán. Đặc biệt, chu trình bán hàng – thu tiền
không những đánh giá hiệu quả của các chu trình trước mà còn đánh giá hiệu quả của
toàn bộ quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, qui trình đánh giá trọng
yếu, rủi ro trong kiểm toán chu trình này lại càng có ý nghĩa.
Trong khi khách hàng tăng lên cả về số lượng và các lĩnh vực kinh doanh, đối tượng
SV: Đặng Phương Loan Lớp: Kiểm toán 46B
ii
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kế toán
sử dụng báo cáo tài chính được kiểm toán nhiều hơn, cạnh tranh trong lĩnh vực kiểm
toán cũng tăng cao thì việc tìm kiếm các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt
động, nâng cao hiệu quả cạnh tranh luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu tại các
công ty kiểm toán. Thực tế kiểm toán tại Công ty TNHH KPMG Việt Nam cũng cho
thấy, giải pháp về việc hoàn thiện qui trình đánh giá trọng yếu, rủi ro được đánh
giá rất cao, bởi lẽ đây là một trong những yếu tố hàng đầu quyết định hiệu quả, chất
lượng cuộc kiểm toán. Một qui trình tốt sẽ giúp kiểm toán viên xây dựng được
chương trình kiểm toán hiệu quả, giảm thiểu rủi ro đạt được kết quả tối ưu với mức
chi phí cạnh tranh.
Là một sinh viên Chuyên ngành Kiểm toán, qua thời gian gần 4 năm học tập
tại trường lại được tiếp cận với thực tế kiểm toán tại Công ty TNHH KPMG Việt Nam,
nhận thức được ý nghĩa của qui trình đánh giá trọng yếu, rủi ro trong kiểm toán chu
trình bán hàng – thu tiền, Em đã tập trung tìm hiểu và hoàn thành Khóa luận tốt
nghiệp của mình với Đề tài: “ Vận dụng lý luận về qui trình đánh giá trọng yếu, rủi
ro trong kiểm toán tài chính vào kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền do
Công ty TNHH KPMG Việt Nam thực hiện ”
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở những kiến thức đã tiếp thu được qua quá trình học tập và nghiên cứu
tại nhà trường, Em đã vận dụng vào thực tế kiểm toán được chứng kiến trong thời gian
thực tập tại Công ty TNHH KPMG Việt Nam, so sánh thực tiễn với lý thuyết để đưa
ra một số nhận xét về qui trình đánh giá trọng yếu, rủi ro trong kiểm toán chu trình bán
hàng – thu tiền do Công ty thực hiện. Đồng thời, trên cơ sở lý luận đã trình bày và
phân tích những điểm hạn chế của thực tế kiểm toán, Em xin đề xuất một vài giải pháp
và kiến nghị hoàn thiện việc thực hiện qui trình này trong kiểm toán tại Công ty.
3. Nội dung, kết cấu của Khóa luận
Ngoài Lời mở đầu và Kết luận, nội dung Khóa luận tốt nghiệp của Em gồm 3
phần chính:
Phần 1: Lý luận chung về qui trình đánh giá trọng yếu, rủi ro trong kiểm toán chu
trình bán hàng – thu tiền;
Phần 2: Qui trình đánh giá trọng yếu, rủi ro trong kiểm toán chu trình bán
hàng – thu tiền do Công ty TNHH KPMG Việt Nam đang thực hiện;
SV: Đặng Phương Loan Lớp: Kiểm toán 46B
iii
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kế toán
Phần 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện qui trình đánh giá trọng yếu, rủi
ro trong kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền do Công ty TNHH KPMG Việt
Nam thực hiện.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành Đề tài này, Em đã kết hợp nghiên cứu lý luận với khảo sát
thực tiễn. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn là phỏng vấn, quan sát, đọc tài liệu và
trực tiếp tham gia kiểm toán tại Công ty TNHH KPMG. Khóa luận được trình bày
theo phương pháp diễn giải, qui nạp kết hợp với phương pháp sử dụng các sơ đồ,
bảng biểu. Đồng thời, Em cũng sử dụng phương pháp so sánh để đưa ra nhận xét về
thực trạng qui trình và coi đó là một trong những cơ sở để đề xuất giải pháp hoàn
thiện qui trình.
5. Hướng đóng góp của Khóa luận
Khóa luận đã hệ thống hóa lý luận của qui trình đánh giá trọng yếu, rủi ro trong
kiểm toán tài chính. Đồng thời, Em đã vận dụng lý luận vào phân tích thực tiễn qui
trình trong kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền, từ đó hình thành một số giải
pháp và kiến nghị để góp phần hoàn thiện qui trình đánh giá trọng yếu, rủi ro trong
kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền do Công ty thực hiện.
PHẦN 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUI TRÌNH
ĐÁNH GIÁ TRỌNG YẾU, RỦI RO TRONG KIỂM TOÁN
CHU TRÌNH BÁN HÀNG – THU TIỀN
1.1. Lý luận chung về qui trình đánh giá trọng yếu, rủi ro kiểm toán
SV: Đặng Phương Loan Lớp: Kiểm toán 46B
iv
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kế toán
1.1.1. Khái niệm trọng yếu, rủi ro trong kiểm toán tài chính
1.1.1.1. Khái niệm rủi ro trong kiểm toán tài chính
Theo nghĩa được hiểu thông thường, rủi ro là sự cố bất ngờ xảy ra không phụ
thuộc vào ý chí của các bên liên quan và có thể gây ra tổn thất.
Trong kiểm toán, rủi ro kiểm toán xảy ra do yếu kém về trình độ nghiệp vụ hay
do cẩu thả không tuân thủ đầy đủ các chuẩn mực kiểm toán phổ biến được chấp nhận
mà kiểm toán viên (KTV) đã không phát hiện ra những sai phạm nghiêm trọng trên
BCTC của khách hàng, vì vậy đã có những kết luận không phù hợp với thực tế.
Theo Nguyên tắc chỉ đạo Kiểm toán quốc tế IAG số 25, Trọng yếu và rủi ro kiểm
toán, thì rủi ro kiểm toán được định nghĩa: “Rủi ro kiểm toán là những rủi ro mà KTV
có thể mắc phải khi đưa ra những nhận xét không xác đáng về các thông tin tài chính
và đó là các sai sót nghiêm trọng. Ví dụ kiểm toán viên có thể đưa ra ý kiến chấp nhận
toàn bộ về một bản báo cáo tài chính mà không biết rằng các báo cáo này có những sai
phạm nghiêm trọng”
(7,248)
.
Tham khảo chuẩn mực của thế giới, Hệ thống Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam
(CMKTVN) cũng đã đề cập đến khái niệm rủi ro kiểm toán trong Chuẩn mực số 400-
“Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ”- mục 07 với nội dung “Rủi ro kiểm toán là rủi
ro do KTV và công ty kiểm toán đưa ra kiến nhận xét không thích hợp khi báo cáo
tài chính được kiểm toán còn có những sai sót trọng yếu. Rủi ro kiểm toán bao gồm 3
bộ phận: Rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện”
(2,78)
.
Có thể khái quát lại, rủi ro kiểm toán là rủi ro KTV đưa ra ý kiến không xác đáng
về đối tượng kiểm toán. Ví dụ, KTV có thể đưa ra ý kiến báo cáo tài chính (BCTC) của
đơn vị được kiểm trình bày trung thực và hợp lý xét trên các khía cạnh trọng yếu,
tuy nhiên, trên thực tế báo cáo này vẫn tồn tại các sai phạm trọng yếu mà KTV không
phát hiện ra trong quá trình kiểm toán. Loại rủi ro này luôn có thể tồn tại, ngay cả khi
cuộc kiểm toán được lập kế hoạch chu đáo và thực hiện một cách cẩn thận. Trong
thực tiễn, rủi ro kiểm toán thường xảy ra do giới hạn về quản lý mà trực tiếp là chi
phí kiểm toán khiến cuộc kiểm toán không thể tiến hành trên qui mô tổng thể đối
tượng kiểm toán và do đó số lượng bằng chứng kiểm toán thu thập được không
SV: Đặng Phương Loan Lớp: Kiểm toán 46B
v
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kế toán
đầy đủ.
Rủi ro kiểm toán gắn liền với rủi ro kinh doanh, rủi ro mà KTV và công ty
kiểm toán phải chịu thiệt hại vì mối quan hệ với khách hàng trong trường hợp báo cáo
kiểm toán đưa ra ý kiến không thích hợp về BCTC được kiểm toán. Vì vậy, để giới hạn
rủi ro kinh doanh, cần phải kiểm soát chặt chẽ rủi ro kiểm toán.
Trong các cuộc kiểm toán, để tránh việc phát sinh các nghĩa vụ pháp lý liên quan
đến cuộc kiểm toán trong tương lai, KTV thường xây dựng mức rủi ro mong muốn hay
mức rủi ro có thể chấp nhận được. Mức rủi ro mong muốn là khả năng trên BCTC
được kiểm toán vẫn tồn tại các sai phạm nhưng chưa nghiêm trọng đến mức ảnh
hưởng đến tính trung thực và hợp lý của BCTC. Khi lập báo cáo kiểm toán với ý
kiến chấp nhận toàn phần, KTV không cam đoan rằng BCTC chính xác hoàn toàn
mà chỉ đưa ra đảm bảo BCTC trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu. Từ
hợp lý ở đây nên được hiểu là vẫn còn có những sai sót nhưng không ảnh hưởng trọng
yếu đến thông tin trình bày trên BCTC, do đó những sai sót này có thể chấp nhận được.
Để hiểu được rủi ro kiểm toán thì cần đi sâu vào phân tích từng bộ phận cấu
thành của rủi ro kiểm toán gồm: rủi ro tiềm tàng (rủi ro cố hữu), rủi ro kiểm soát và
rủi ro phát hiện.
Thứ nhất: Rủi ro tiềm tàng. Rủi ro tiềm tàng là khả năng tồn tại những sai phạm
trọng yếu trong bản thân các đối tượng mà chưa tính đến sự tác động của bất cứ bước
kiểm soát nội bộ (KSNB) liên quan nào. Trong Giáo trình Kiểm toán tài chính đã đưa
ra định nghĩa về rủi ro tiềm tàng: “ Là sự nghi ngờ một số dư tài khoản nào đó trong
một khoản nghiệp vụ nào đó mà sai sót có thể xảy ra giả sử rằng không có một bước
kiểm soát nội bộ liên quan nào. Rủi ro này liên quan đến hoạt động và ngành nghề
kinh doanh của khách hàng ”
(6,124)
. Trong Nguyên tắc chỉ đạo Kiểm toán quốc tế IAG số
25 cũng trình bày khái niệm về rủi ro tiềm tàng: “ Rủi ro tiềm tàng là những yếu điểm
của số dư tài khoản hoặc của một loại ngiệp vụ đối với những sai sót có thể là nghiêm
trọng, những sai sót này có thể là đơn lẻ hoặc có thể kết hợp với các sai sót ở các số
dư, các nghiệp vụ khác ( ở đây giả định rằng không có các qui chế kiểm soát nội bộ có
liên quan). Rủi ro tiềm tàng nằm trong chức năng hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, trong môi trường kinh doanh cũng như nằm trong bản chất của các số dư tài
SV: Đặng Phương Loan Lớp: Kiểm toán 46B
vi
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kế toán
khoản hoặc các loại nghiệp vụ”
(7,249)
.
Trong Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400, Mục 04 cũng đề cập đến khái niệm
về rủi ro tiềm tàng như sau: “Rủi ro tiềm tàng là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng
từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong BCTC chứa đựng sai sót trọng yếu khi tính
riêng rẽ hoặc tính gộp, mặc dù có hay không có hệ thống kiểm soát nội bộ”
(2,77)
.
Rủi ro tiềm tàng xảy ra do ảnh hưởng của các yếu tố như: bản chất của hoạt
động kinh doanh của khách hàng, tính liêm chính của ban giám đốc, tính nhạy cảm
với sự tham ô, qui mô của khách hàng, kết quả các lần kiểm toán trước, hợp đồng
kiểm toán lần đầu và hợp đồng kiểm toán dài hạn, các nghiệp vụ kinh tế không
thường xuyên, các ước tính kế toán. Ví dụ như với tính liêm chính của ban giám đốc:
nếu quyền quản lý, điều hành bị khống chế bởi một số ít các nhân thiếu liêm chính thì
khả năng BCTC bị báo cáo sai nghiêm trọng tăng lên rất cao. Với các nghiệp vụ
không xảy ra thường xuyên, các nghiệp vụ này có khả năng xảy ra sai sót nhiều hơn
là các hoạt động xảy ra hàng ngày do khách hàng thiếu kinh nghiệm trong hạch toán
các nghiệp vụ đó, do đó rủi ro tiềm tàng với các tài khoản chứa các nghiệp vụ này
thường được đánh giá cao. Hay với bản chất hoạt động kinh doanh của khách hàng,
nếu giá trị các sản phẩm do khách hàng tạo ra dễ bị tác động bởi yếu tố khoa học kỹ
thuật, công nghệ thì sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro tiềm tàng hơn các loại sản phẩm khác. Đối
với loại rủi ro này, KTV không thể thay đổi được mà chỉ có thể tìm hiểu để đảm bảo
đã nhận biết được hết các yếu tố tạo ra rủi ro và đánh giá mức độ rủi ro.
Thứ hai là: Rủi ro kiểm soát. Rủi ro kiểm soát là khả năng hệ thống KSNB của
khách hàng đã không phát hiện, ngăn ngừa và sửa chữa kịp thời được các gian lận và
sai sót trọng yếu. Theo IAG số 25, “Rủi ro kiểm soát là rủi ro do xác định sai, có thể
xảy ra với một số dư tài khoản hoặc một loại nghiệp vụ và có thể là sai sót nghiêm
trọng. Những sai sót này xảy ra đơn lẻ hoặc có thể kết hợp với các sai sót của các số
dư, các nghiệp vụ khác mà hệ thống KSNB đã không ngăn chặn hoặc không phát
hiện kịp thời”
(7,250)
.
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400, Mục 05 qui định: “Rủi ro kiểm soát là
rủi ro xảy ra sai phạm trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong BCTC
khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà hệ thống kế toán và hệ thống KSNB không ngăn
SV: Đặng Phương Loan Lớp: Kiểm toán 46B
vii
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kế toán
ngừa hết hoặc không phát hiện và sửa chữa kịp thời”
(2,77)
.
Như vậy rủi ro kiểm soát xảy ra là do hệ thống KSNB của khách hàng đã không
thiết kế đầy đủ các thủ tục kiểm soát hữu hiệu để ngăn chặn rủi ro xảy ra, hoặc hệ
thống KSNB được thiết kế là hữu hiệu nhưng việc áp dụng các thủ tục này trong thực
tế chưa tốt nên không kiểm soát được sai sót. Một phần khiến cho rủi ro này luôn có
khả năng tồn tại là do những hạn chế có tính bản chất của hệ thống KSNB. Thứ nhất:
Yêu cầu thường xuyên của các nhà quản lý là chi phí cho việc thiết lập hệ thống
KSNB phải hiệu quả, tức là lợi ích mang lại từ việc thiết kế và duy trì hệ thống phải
lớn hơn chi phí bỏ ra, hay chi phí phải ít hơn tổn thất do sai sót gây ra. Với hạn chế
này, có thể các nhà quản lý chấp nhận các sai sót có khả năng xảy ra nếu chi phí để
ngăn chặn nó lớn hơn tổn thất họ phải đối mặt. Thứ hai: Các sai phạm xảy ra thường
rất tinh xảo và luôn thay đổi, trong khi hệ thống KSNB cần phải xác định được rủi ro,
sau đó mới thiết kế thủ tục kiểm soát để phát hiện và ngăn chặn thích hợp. Chính vì
vậy mà hệ thống KSNB sẽ có độ trễ nhất định so với sai phạm. Thứ ba: Do hạn chế
của con người trong thực hiện công việc như sự thiếu thận trọng, sao nhãng, xét
đoán sai, hiểu sai hướng dẫn. Thứ tư: Các cá nhân điều hành, kiểm tra lợi dụng quyền
hạn của mình để thực hiện các hành vi thông đồng, gian lận. Ngoài ra hệ thống KSNB có
thể bị hạn chế khi các thủ tục kiểm soát đã trở lên lỗi thời vì điều kiện thực tế thay đổi. Với
loại rủi ro này KTV cũng không thay đổi được mà chỉ đánh giá, trên cơ sở đó KTV thiết
lập các thủ tục kiểm toán cơ bản thích hợp.
Thứ ba: Rủi ro phát hiện. Rủi ro phát hiện là rủi ro KTV thực hiện các thủ tục
kiểm toán không thích hợp dẫn đến không phát hiện ra các sai phạm còn tồn tại trên
BCTC nên đã đưa ra ý kiến không thích hợp về BCTC được kiểm toán. Các sai phạm
chưa được phát hiện có thể là riêng lẻ của từng nghiệp vụ, số dư hoặc kết hợp với sai
phạm của nghiệp vụ, số dư khác. Mức độ rủi ro phát hiện có quan hệ trực tiếp với
chương trình kiểm toán của KTV.
Theo CMKTVN số 400, Mục 06 ghi: “Rủi ro phát hiện là rủi ro xảy ra sai sót
trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong BCTC khi tính riêng rẽ hoặc
tính gộp mà trong quá trình kiểm toán, KTV và công ty kiểm toán không phát hiện
được”
(2,77)
.
Rủi ro phát hiện có thể được phân chia theo rủi ro do thực hiện thủ tục phân tích
SV: Đặng Phương Loan Lớp: Kiểm toán 46B
viii
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kế toán
hay do thực hiện thủ tục kiểm tra chi tiết không phù hợp; rủi ro do giải thích sai các
kết quả kiểm toán hoặc rủi ro chia theo rủi ro do chọn mẫu không đại diện. Trong khi
rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát tồn tại một cách độc lập, KTV không thể thay đổi
và kiểm soát thì rủi ro phát hiện là rủi ro mà KTV có thể thay đổi được, KTV phải có
trách nhiệm thiết kế và thực hiện các thủ tục kiểm toán để kiểm soát và quản lý rủi ro
phát hiện.
Ba loại rủi ro này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau được thể hiện trong mô
hình rủi ro kiểm toán như sau:
DAR= IR x CR x DR (1)
Hay
DAR
DR
IR xCR
=
(2)
Trong đó DAR: Rủi ro kiểm toán mong muốn
IR: Rủi ro tiềm tàng
CR: Rủi ro kiểm soát
DR: Rủi ro phát hiện.
Các loại rủi ro có thể được đánh giá cụ thể bằng các con số theo tỉ lệ phần trăm
hoặc được đánh giá một cách khái quát theo yếu tố định tính như “thấp”, “trung bình”,
“cao”. Hai mô hình rủi ro kiểm toán trên có cùng bản chất và giá trị song mô hình (2)
được sử dụng rộng rãi hơn để xác định rủi ro phát hiện và số lượng bằng chứng thích hợp.
Trong khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát là cố định, KTV chỉ có thể đánh
giá mà không thể thay đổi, thì rủi ro phát hiện là loại rủi ro KTV sẽ điều chỉnh và
kiểm soát để đạt được mức rủi ro kiểm toán mong muốn. Mức rủi ro kiểm toán chấp
nhận được là mức rủi ro đã được xác định từ khi lập kế hoạch kiểm toán.
Rủi ro phát hiện được thực hiện sau khi KTV đã đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi
ro kiểm soát. Ví dụ, dựa trên đánh giá về hệ thống KSNB của khách hàng, nếu như
hệ thống này tốt thì rủi ro kiểm soát được đánh giá ở mức thấp, khi đó để đạt được
mức rủi ro kiểm toán mong muốn (DAR), rủi ro phát hiện không cần quá thấp, KTV
không phải thực hiện nhiều thử tục cơ bản mà vẫn đảm bảo các mục tiêu đặt ra với
đối tượng kiểm toán được thực hiện. Trong bất cứ tình huống nào, nội dung, thời
gian và phạm vi của các phương pháp cơ bản phải được xem xét tới mức rủi ro phát
hiện ở mức độ có thể chấp nhận được.
SV: Đặng Phương Loan Lớp: Kiểm toán 46B
ix
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kế toán
Mặc dù đây là mô hình rủi ro có tính chất đơn giản nhưng có ý nghĩa rất lớn cho
KTV trong việc lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán sao cho hợp lý và đủ để đảm
bảo duy trì rủi ro phát hiện ở mức thấp cho phép.
1.1.1.2. Khái niệm trọng yếu trong kiểm toán tài chính
Trọng yếu trong Từ điển Tiếng Việt được đề cập đến là một tính từ để chỉ sự
quan trọng và cần thiết. Từ điển Kinh tế - Kinh doanh Anh – Việt cũng giải thích
nghĩa của trọng yếu là “ một phạm trù dung để chỉ những thông tin có ý nghĩa đủ để
cần có sự thể hiện riêng biệt trong nghiệp vụ kế toán. Theo viện kiểm toán Anh và xứ
Wales, một sự việc được coi là trọng yếu nếu việc không bị tiết lộ, trình bày sai hoặc
bỏ qua nó có thể làm người kiểm toán đi đến một nhận xét lệch lạc”
(9,669)
.
Trong kế toán, trọng yếu được nhắc đến với nguyên tắc trọng yếu. Nguyên tắc
này, chỉ chú trọng đến những vấn đề mang tính trọng yếu, quyết định bản chất và nội
dung của sự vật, không quan tâm đến các yếu tố ít có tác dụng trong BCTC. Qui tắc
này được trình bày như sau: Một khoản mục là quan trọng nếu có lý do hợp lý để biết
rằng nó sẽ ảnh hưởng đến quyết định của những người sử dụng BCTC.
Trọng yếu, xét trong quan hệ với nội dung kiểm toán, là khái niệm chung chỉ
tầm cỡ và tính hệ trọng của phần nội dung cơ bản của kiểm toán có ảnh hưởng tới
tính đúng đắn của việc nhận thức, đánh giá đối tượng kiểm toán và việc sử dụng
thông tin đã đánh giá đó để ra quyết định quản lý. Như vậy, có thể thấy trọng yếu
trong kiểm toán không phải là một tính từ như Từ điển Tiếng Việt đã giải nghĩa mà
trọng yếu là một danh từ bao gồm cả mặt định tính và định lượng.
Hơn nữa, mặc dù trọng yếu và quan trọng xét trên một khía cạnh nào đó có
quan hệ với nhau nhưng không thể đồng nhất nghĩa của trọng yếu và quan trọng.
Theo Từ điển Tiếng Việt, quan trọng được giải nghĩa là một tính từ chỉ sự ảnh hưởng
to lớn, có ý nghĩa đáng được coi trọng của sự vật, sự việc. Thuật ngữ “quan trọng ”
thường được sử dụng để nhận xét, nhận biết vai trò của của sự vật, sự việc trong tổng
thể một cách nói chung, trong trường hợp này có thể là quan trọng nhưng trong hoàn
cảnh khác lại không còn quan trọng nữa. Trong khi đó, “trọng yếu ” được sử dụng
trong trường hợp tầm quan trọng đã được xác định trọng yếu được đề cập như một
SV: Đặng Phương Loan Lớp: Kiểm toán 46B
x
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kế toán
thuộc tính cố hữu thuộc về bản chất gắn liền với sự vật, hiện tượng. Không chỉ đề cập
đến bản chất, trọng yếu còn bao hàm cả tầm cỡ, mặt lượng của đối tượng.
Thông thường, trong kiểm toán, tính trọng yếu được đề cập sẽ gắn liền với sai
phạm, khi đánh giá tính trọng yếu của một sai phạm tức là đánh giá sai phạm có trọng
yếu không cả về định tính và định lượng.
Trong kiểm toán tài chính, việc đưa ra ý kiến về BCTC đã trình bày trung thực,
hợp lý thực trạng tài chính của khách thể kiểm toán xét trên các khía cạnh trọng yếu
tức là trên BCTC không còn những sai phạm trọng yếu, nếu các thông tin về thực
trạng tài chính không trung thực, khách quan trên các sẽ khiến những người sử dụng
BCTC đưa ra các quyết định sai lầm.
Nguyên tắc chỉ đạo Kiểm toán Quốc tế số 25 (IAG 25) đã đưa ra định nghĩa
trọng yếu là “ khái niệm về tầm cỡ, bản chất của sai phạm (kể cả bỏ sót) thông tin tài
chính hoặc là đơn lẻ hoặc là từng nhóm, mà trong bối cảnh cụ thể dựa vào các thông
tin này để xét đoán thì sẽ không chính xác hoặc là sẽ rút ra kết luận sai lầm”
(7,246)
.
Dựa vào chuẩn mực quốc tế, Hệ thống Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam cũng
đề cập đến khái niệm trọng yếu trong Chuẩn mực kiểm toán số 320 (VSA 320),
“Tính trọng yếu trong kiểm toán”, ở Mục 04 như sau: “ Thông tin được coi là trọng
yếu có nghĩa là nếu thiếu thông tin đó hoặc thiếu chính xác của thông tin đó sẽ ảnh
hưởng đến các quyết định của người sử dụng BCTC. Mức trọng yếu tùy thuộc vào
tầm quan trọng và tính chất của thông tin hay của sai sót được đánh giá trong hoàn
cảnh cụ thể. Mức độ trọng yếu là một ngưỡng, một điểm chia cắt chứ không phải là
nội dung của thông tin cần phải có. Tính trọng yếu của thông tin phải xem xét trên
cả phương diện định lượng và định tính”
(3,50)
. Như vậy, định nghĩa trọng yếu theo
Hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam đã chỉ ra sự phụ thuộc của tính trọng yếu
vào bản chất của các khoản mục, thông tin và độ lớn của thông tin bị bỏ sót hoặc
thiếu chính xác (mặt lượng của tính trọng yếu).
Khái niệm trọng yếu bao hàm hai mặt định tính và định lượng, vì vậy khi đánh
giá trọng yếu, KTV sẽ xem xét cả hai mặt này.
Thứ nhất là, về qui mô
Qui mô của sai phạm được xét chủ yếu trong mối quan hệ với mức độ ảnh
hưởng của các khoản mục, nghiệp vụ đến kết luận kiểm toán, từ đó ảnh hưởng tới
SV: Đặng Phương Loan Lớp: Kiểm toán 46B
xi
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kế toán
quyết định của người sử dụng thông tin được kiểm toán. Để đánh giá tính trọng yếu
về mặt lượng có thể sử dụng con số tuyệt đối hoặc qui mô tương đối.
Con số tuyệt đối là số thể hiện mức tính trọng yếu mà không cần cân nhắc thêm
bất kỳ một yếu tố nào khác, tuy nhiên, trong thực tế, rất khó ấn định một con số cụ
thể về tầm cỡ cho những khoản mục chính của nội dung kiểm toán cho tất cả các
khách hàng, đặc biệt là khi có yếu tố tiềm ẩn. Mỗi khách hàng có một qui mô tương
ứng, một số tiền cụ thể có thể coi là trọng yếu đối với khách hàng có qui mô nhỏ
nhưng có thể lại là quá nhỏ đối với khách hàng có qui mô lớn. Vì vậy, con số tuyệt
đối rất ít khi được sử dụng như một tiêu chuẩn để đánh giá trọng yếu, việc xem xét áp
dụng qui mô tương đối sẽ hợp lý hơn.
Qui mô tương đối là mối quan hệ tương quan giữa đối tượng cần đánh giá với
một số gốc, số gốc có thể khác nhau tùy thuộc vào từng điều kiện cụ thể. Thông
thường, số gốc có thể là chỉ tiêu tổng lợi nhuận trước thuế, doanh thu trên báo cáo kết
quả kinh doanh, chỉ tiêu tổng tài sản trên bảng cân đối kế toán.
Ngoài ra, khi xem xét qui mô của trọng yếu, KTV chú ý không chỉ qui mô tuyệt
đối hay qui mô tương đối mà cân nhắc cả sự ảnh hưởng lũy kế của sai phạm. Có
nhiều sai phạm khi xem xét một cách cô lập thì không đủ trọng yếu do qui mô nhỏ,
song nếu cộng dồn tất cả những sai phạm sẽ phát hiện thấy sự liên quan và tính hệ
trọng của sai phạm, khi đó những sai phạm được phát hiện là trọng yếu. Trong
CMKTVN số 240 “Gian lận và sai sót” có qui định: “KTV không được cho rằng các
gian lận và sai sót xảy ra là đơn lẻ và biệt lập, trừ khi đã xác định rõ ràng”
(2,18)
. Đoạn
07 – Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 320 “Tính trọng yếu trong kiểm toán” qui định:
“KTV cần xét tới khả năng có nhiều sai sót là tương đối nhỏ nhưng tổng hợp lại có
ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC, như: một sai sót trong thủ tục hạch toán cuối tháng
có thể trở thành một sai sót trọng yếu, tiềm tàng nếu như sai sót đó cứ tiếp tục tái diễn
vào mỗi tháng”
(3,51)
.
Thứ hai là, về tính chất
Xác định tính trọng yếu trên phương diện qui mô của khoản mục, nghiệp vụ là
cần thiết nhưng chưa đủ, để đánh giá tính trọng yếu còn xem xét trên cả phương diện
bản chất của khoản mục, nghiệp vụ đó. Theo IAG số 25, “KTV xem lại cả về mặt
SV: Đặng Phương Loan Lớp: Kiểm toán 46B
xii
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kế toán
định tính lẫn định lượng những sai sót mà mình quan tâm. Vì xét về định tính, các sai
phạm có thể làm nảy sinh các vấn đề liên quan khác. Kiểm toán viên luôn cần tỉnh táo
đề phòng các sai phạm dù nhỏ nhưng có tính dây chuyền, ảnh hưởng nghiêm trọng
đến báo cáo tài chính”
(7,247)
. Ví dụ một sai sót trong việc tính chi phí nguyên vật liệu
cho sản xuất có thể coi là một sai phạm nghiêm trọng vì sai phạm này có tính dây
chuyền dẫn đến các sai phạm về công nợ, lỗ, tài sản và doanh thu.
Như vậy, để đánh giá tính trọng yếu có hiệu quả, trước hết sẽ tùy thuộc vào loại
hình, qui mô doanh nghiệp, am hiểu đặc điểm của loại hình kinh doanh, các biến
động có thể xảy ra. Đồng thời, KTV cũng dựa vào sự am hiểu tài chính kế toán, các
qui định pháp luật với doanh nghiệp và dựa vào kinh nghiệm, xét đoán nghề nghiệp
của mình để đưa ra đánh giá xác đáng.
Các khoản mục nghiệp vụ được coi là trọng yếu thường bao gồm: các khoản
mục, nghiệp vụ có gian lận hoặc chứa đựng khả năng gian lận và các khoản mục có
sai sót hệ trọng.
Các khoản mục, nghiệp vụ có gian lận hoặc có chứa khả năng gian lận: có thể
bao gồm: thứ nhất là, các nghiệp vụ đấu thầu, giao thầu và giao dịch không hợp pháp,
những nghiệp vụ này thường chứa đựng gian lận vì trong đấu thầu việc lựa chọn
người trúng thầu có thể có sự móc nối giữa các bên nhằm thu lợi cho cá nhân. Thứ
hai là, các nghiệp vụ thanh lý tài sản có khả năng có sự liên kết giữa người tiến
hành thanh lý và người mua tài sản, trong khi tài sản đó vẫn tốt và đang trong quá
trình sử dụng nhưng đã được thanh lý với giá rẻ. Thứ ba là, các nghiệp vụ về tiền
mặt: các nghiệp vụ này xảy ra thường xuyên, tiền mặt lại có đặc điểm là gọn nhẹ,
dễ biển thủ nên dễ xảy ra gian lận. Thứ tư là, các nghiệp vụ về mua bán và thanh
toán: doanh nghiệp và khách hàng hoặc nhà cung cấp có thể móc nối với nhau để
kiếm lợi cho bản thân và do đó báo cáo sai về thực trạng hoạt động của mình … .
Ngoài ra còn có các nghiệp vụ như nghiệp vụ phân chia quyền lợi, nghiệp vụ cố ý bỏ
ngoài sổ sách hay các khoản mục, chứng từ có sửa chữa. Trong thực tế còn rất nhiều
các nghiệp vụ có khả năng xảy ra gian lận
Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót hệ trọng: Các nghiệp vụ sai sót này
thường xảy ra do trình độ, năng lực yếu kém và tính thiếu thận trọng của kế toán viên
SV: Đặng Phương Loan Lớp: Kiểm toán 46B
xiii
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kế toán
gây ra, nghiệp vụ này có thể bao gồm:
Thứ nhất là, các nghiệp vụ vi phạm nguyên tắc kế toán và pháp lý nói chung
xuất phát từ nguyên nhân không do lỗi cố ý nhưng chỉ khi có ảnh hưởng nghiêm trọng
đến tính trung thực và hợp lý của thông tin tài chính mới được xem là sai phạm trọng
yếu. Nếu vi phạm bắt nguồn từ việc cố ý thì hành động đó bị coi là gian lận và mức
độ ảnh hưởng của nó sẽ nghiêm trọng hơn rất nhiều, sai phạm xảy ra chắc chắn là sai
phạm trọng yếu.
Thứ hai là, các khoản mục có sai sót lặp lại nhiều lần. Ví dụ, khoản mục doanh thu
là khoản mục thường hay xảy ra sai sót về thời điểm ghi nhận doanh thu, đặc biệt nếu
doanh thu là của hàng xuất nhập khẩu thì thời điểm ghi nhận doanh thu không chính
xác sẽ tạo ra khoản chênh lệch khi qui đổi tỷ giá ra VNĐ vì tỷ giá ngoại tệ luôn thay
đổi. Qui mô của các sai sót này tính riêng lẻ có thể không đủ lớn nhưng do lặp lại
nhiều lần nên ảnh hưởng cộng dồn hay lũy kế của sai sót có thể được đánh giá là sai
phạm trọng yếu.
Thứ ba là, các khoản mục có ảnh hưởng trọng yếu đến kỳ sau. Khoản mục chi phí
trả trước dài hạn là một ví dụ điển hình cho trường hợp này, nếu có sai sót trong việc ghi
nhận giá trị của khoản mục này thì quá trình phân bổ chi phí không những ảnh hưởng
đến kỳ kinh doanh hiện tại mà còn ảnh hưởng đến các kỳ kinh doanh tiếp theo.
Thứ tư là, các khoản mục nghiệp vụ là đầu mối hoặc hậu quả liên quan đến
nhiều khoản mục, nghiệp vụ khác. Khi có sai sót xảy ra ở các khoản mục đầu mối
này sẽ gây ra phản ứng dây chuyền dẫn tới sai sót ở các khoản mục khác, vì vậy sai sót
đó phải được đánh giá là trọng yếu. Chẳng hạn, nếu có sai sót trong khoản mục chi phí
sản xuất do việc tính khấu hao cho tài sản cố định sử dụng ở bộ phận sản xuất không
đúng sẽ dẫn đến sai sót trong khoản mục hàng tồn kho, khoản mục giá vốn hàng bán
và từ đó dẫn đến sai sót ở khoản mục lợi nhuận. Đối với các sai sót xảy ra ở khoản
mục lợi nhuận thường được đánh giá là nghiêm trọng vì nó liên quan trực tiếp đến nghĩa
vụ của doanh nghiệp với nhà nước. Do đó, sai sót ở khoản mục chi phí được xác định là
trọng yếu.
Như vậy, để đưa ra đánh giá xác đáng về tính trọng yếu làm cơ sở nền tảng cho
quá trình thực hiện kiểm toán, KTV quan tâm xem xét tổng thể các yếu tố liên quan
SV: Đặng Phương Loan Lớp: Kiểm toán 46B
xiv
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kế toán
đến bản chất của đối tượng kiểm toán. Đánh giá trọng yếu đặt ra yêu cầu xác định
nội dung kiểm toán với nguyên tắc không bỏ qua bất cứ khoản mục, nghiệp vụ nào
có qui mô lớn và có tính hệ trọng, phản ánh bản chất đối tượng.
1.1.1.3. Mối quan hệ giữa trọng yếu, rủi ro kiểm toán với bằng chứng kiểm toán
Trọng yếu , rủi ro kiểm toán và bằng chứng kiểm toán có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau. Trọng yếu và rủi ro là những khái niệm có ảnh hưởng quan trọng tới quyết
định của KTV về bằng chứng kiểm toán cần thu thập.
Trước hết là quan hệ giữa trọng yếu với rủi ro kiểm toán, sẽ không hữu hiệu nếu
xem xét một trong hai yếu tố này trong sự tách biệt với yếu tố còn lại. Trọng yếu và
rủi ro kiểm toán có quan hệ tỉ lệ nghịch với nhau, nghĩa là nếu mức trọng yếu càng
cao thì rủi ro kiểm toán càng thấp và ngược lại. Nội dung của mối quan hệ này quyết
định bản chất, thời gian và phạm vi của các thủ tục kiểm toán cần thực hiện. Ví dụ :
sau khi lập kế hoạch kiểm toán, nếu KTV đánh giá thấy mức trọng yếu có thể chấp
nhận được thấp và rủi ro kiểm toán tăng lên, để kiểm soát rủi ro ở mức độ mong
muốn thì cần mở rộng phạm vi kiểm toán, lựa chọn các phương pháp kiểm toán hữu
hiệu nhằm thu thập được nhiều hơn các bằng chứng kiểm toán có hiệu lực. Khi lập kế
hoạch kiểm toán, KTV cân nhắc xem những nhân tố nào có thể làm cho các thông tin
tài chính bị sai phạm nghiêm trọng. Theo IAG số 25, “ Sự xét đoán sơ bộ về vấn đề
trọng yếu của KTV có liên quan đến số dư tài khoản chi tiết và các loại nghiệp vụ
như các khoản phải thu và hàng tồn kho. Điều đó giúp cho KTV quyết định được các
vấn đề đại loại như khoản mục nào trong các số dư hoặc các nghiệp vụ cần phải kiểm
tra và có cần thiết phải dùng phương pháp lấy mẫu kiểm toán hoặc là cần soát xét
phân tích lại hay không. Các quyết định này giúp cho KTV lựa chọn phương pháp
kiểm toán. Khi các kết quả kiểm tra được tập hợp lại sẽ làm cơ sở chứng minh cho ý
kiến của KTV nhận xét về BCTC với các rủi ro kiểm toán ở mức độ thấp có thể chấp
nhận được ”
(7,252)
. Nếu rủi ro tiềm tàng cao do bản chất của đối tượng dễ bị sai phạm
và rủi ro kiểm soát được đánh giá là cao do hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh
nghiệp không tốt thì khả năng tồn tại các sai phạm trọng yếu cao. Khi đó, mức trọng
yếu có thể chấp nhận được cần được thiết lập ở mức thấp và rủi ro kiểm toán cao.
Muốn đưa rủi ro kiểm toán xuống mức mong muốn, hạn chế việc phát sinh các trách
SV: Đặng Phương Loan Lớp: Kiểm toán 46B
xv
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kế toán
nhiệm pháp lý của KTV, tránh được các vụ kiện do người sử dụng BCTC được kiểm
toán cho rằng KTV đưa ra ý kiến không hợp lý khi BCTC vẫn còn các sai phạm trọng
yếu, rủi ro phát hiện phải thấp. KTV mở rộng phạm vi các thủ tục kiểm toán cần tiến
hành, thu thập nhiều hơn các bằng chứng kiểm toán để giảm mức độ rủi ro trong việc
đưa ro ý kiến không phù hợp về BCTC. Ngược lại, khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm
soát là thấp, mức trọng yếu có thể chấp nhận được tăng lên, rủi ro kiểm toán không
cao nên rủi ro phát hiện không cần xác định ở mức thấp, phạm vi các thử nghiệm cơ
bản có thể giảm xuống. Khi xác lập mức trọng yếu cho BCTC nói chung hay phân bổ
mức trọng yếu cho từng khoản mục trên BCTC, KTV luôn đánh giá bản chất của đối
tượng kiểm toán, xác định rủi ro của đối tượng.
Việc xác định trọng yếu và rủi ro kiểm toán có ý nghĩa quan trọng trong việc
xác định nội dung, thời gian và phạm vi của cuộc kiểm toán, số lượng và loại bằng
chứng kiểm toán cần thu thập được xác định dựa trên xét đoán nghề nghiệp của KTV.
Trong khi đó, xem xét về tính đầy đủ của bằng chứng kiểm toán, KTV căn cứ vào
tính trọng yếu, rủi ro kiểm toán của khoản mục, nghiệp vụ đã được đánh giá. Nhìn
chung, số lượng bằng chứng kiểm toán sẽ nhiều lên khi kiểm toán các khoản mục có
tính trọng yếu cao. Trong quan hệ với bằng chứng kiểm toán, cũng giống như tính
trọng yếu, khi rủi ro xảy ra sai phạm cao thì số lượng bằng chứng cần thu thập tăng lên.
Mỗi khi trọng yếu hay rủi ro thay đổi thì số lượng bằng chứng kiểm toán cũng bị thay
đổi theo. Tóm lại ba yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Như vậy, có thể thấy công việc đánh giá trọng yếu chỉ được thực hiện sau
khi đã có sự đánh giá kết hợp của rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát trên BCTC
vì như vậy cơ sở để xác định trọng yếu sẽ chính xác hơn. Kết quả của quan hệ
giữa rủi ro và trọng yếu làm thành cơ sở cho việc xác định bằng chứng kiểm toán
cần thu thập. Đồng thời, mức trọng yếu cũng là một yếu tố được sử dụng để đánh giá
bằng chứng kiểm toán.
1.1.2 .Qui trình đánh giá trọng yếu, rủi ro kiểm toán trong kiểm toán tài chính
1.1.2.1. Qui trình đánh giá rủi ro kiểm toán trong kiểm toán tài chính
Qui trình đánh giá rủi ro kiểm toán được thực hiện bắt đầu với việc xác định
mức rủi ro kiểm toán mong muốn trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, sau đó là
SV: Đặng Phương Loan Lớp: Kiểm toán 46B
xvi
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kế toán
đánh giá rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát. Dựa trên sự kết hợp của hai loại rủi ro vừa
đánh giá và mức rủi ro kiểm toán mong muốn, KTV xác định rủi ro phát hiện để thiết
kế các thủ tục kiểm toán và xây dựng chương trình cho từng khoản mục hoặc chu
trình.
Thứ nhất: Xác định mức rủi ro kiểm toán mong muốn.
Mức rủi ro này được xác định phụ thuộc vào hai yếu tố: thứ nhất là, mức độ
người sử dụng bên ngoài tin tưởng vào BCTC được kiểm toán. Khi họ đặt nhiều niềm
tin vào BCTC thì mức độ tổn thất trên phạm vi toàn xã hội sẽ càng lớn nếu có một sai
phạm trọng yếu trên BCTC không được phát hiện. Do vậy, trong trường hợp này, mức
độ rủi ro kiểm toán cần được xác định là thấp, tăng số lượng bằng chứng kiểm toán
thu thập để tăng sự chính xác trong kết luận của KTV. Một số yếu tố chỉ ra số lượng
người sử dụng BCTC của khách hàng là: qui mô của khách hàng, sự phân phối
quyền sở hữu, bản chất và qui mô của công nợ. Thứ hai là, khả năng khách hàng
gặp khó khăn về tài chính sau khi công bố báo cáo kiểm toán. Nếu khả năng này càng
cao thì mức rủi ro kiểm toán mong muốn cần thiết lập thấp hơn so với khách hàng
không gặp khó khăn về tài chính. Điều này cũng dẫn đến việc thu thập nhiều
bằng chứng kiểm toán hơn, chi phí kiểm toán tăng lên để giảm thiểu tối đa khả
năng xảy ra các vụ kiện mà KTV và công ty kiểm toán phải đương đầu trong tương
lai.
Thứ hai: Đánh giá rủi ro tiềm tàng.
Để đánh giá rủi ro tiềm tàng, KTV tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro
tiềm tàng như đã đề cập ở phần trên là bản chất của lĩnh vực hoạt động kinh doanh
của khách hàng, tính liêm chính của ban giám đốc, uy tín của khách thể kiểm toán
trên thị trường. Đây là những yếu tố ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của khách
hàng nói chung. Khi đánh giá rủi ro tiềm tàng ở giai đoạn số dư và loại nghiệp vụ,
KTV căn cứ vào các nhân tố như: sự phức tạp của các nghiệp vụ, tài sản dễ bị
thất thoát hoặc mất cắp, các nghiệp vụ không thường xuyên. Rủi ro tiềm tàng
được đánh giá thông qua tìm hiểu về đặc điểm môi trường hoạt động kinh doanh
của khách hàng, đồng thời kinh nghiệm của KTV qua các cuộc kiểm toán trước đó
và qua quá trình tiếp xúc với khách hàng cũng rất hữu ích với KTV đặc biệt là với
SV: Đặng Phương Loan Lớp: Kiểm toán 46B
xvii
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kế toán
KTV có nhiều kinh nghiệm.
Nguyên tắc chỉ đạo Kiểm toán quốc tế IAG số 29 “Đánh giá rủi ro tiềm tàng,
rủi ro kiểm soát và tác động của nó đối với phương pháp kiểm toán cơ bản ”, đã trình
bày việc đánh giá rủi ro tiềm tàng “ trong việc xác định chiến lược kiểm toán tổng
quát, dự kiến cách thức tiến hành và phạm vi của một cuộc kiểm toán, KTV cần xem
xét rủi ro tiềm tàng ở giai đoạn BCTC. Trong việc vạch kế hoạch chi tiết hơn cho một
cuộc kiểm toán, KTV cần kết hợp sự đánh giá như vậy với các số dư tài khoản có ý
nghĩa quan trọng và các loại nghiệp vụ. KTV có thể giả định rằng rủi ro tiềm tàng là
cao trong số dư tài khoản và loại nghiệp vụ mà không cần tiến hành trước một sự
đánh giá. Tuy nhiên, KTV cần có một sự hiểu viết về các nhân tố rủi ro tiềm tàng ở
giai đoạn BCTC trong quá trình xác định một chiến lược kiểm toán toàn diện”
(7,291)
.
Thứ ba: Đánh đánh giá rủi ro kiểm soát.
Theo IAG 29, “Đánh giá rủi ro kiểm soát là quá trình đánh giá tính hiệu quả
của hệ thống KSNB và hệ thống kế toán của doanh nghiệp trong việc ngăn chặn hay
phát hiện các sai sót quan trọng trong BCTC. Sau khi tìm hiểu về các hệ thống KSNB
và kế toán, KTV phải tiến hành đánh giá sơ bộ rủi ro kiểm soát đối với các cơ sở dẫn
liệu trong BCTC”
(7,296)
.
KTV tìm hiểu về hệ thống KSNB của khách hàng nói chung và hệ thống
kiểm soát được thiết kế cho từng bộ phận. “ KTV cần có hiểu biết đầy đủ về kiểm soát
nội bộ và hệ thống kế toán để vạch kế hoạch kiểm toán và xây dựng phương pháp
kiểm toán thích hợp”
(7,292)
. Sự hiểu biết của KTV thường có được thông qua các
kinh nghiệm trước đây đối với khách hàng, thông qua các câu hỏi phỏng vấn ban
giám đốc, kiểm tra chứng từ và ghi chép, thông qua theo dõi các hoạt động và các
giao dịch tài chính của doanh nghiệp. Để mô tả hệ thống KSNB của khách hàng, KTV sử
dụng một trong ba phương pháp hoặc kết hợp cả ba tùy thuộc vào đặc điểm của
khách hàng và qui mô kiểm toán : vẽ các lưu đồ, lập bảng câu hỏi về KSNB, lập
bảng tường thuật về KSNB. Qua mô tả về hệ thống KSNB, KTV đánh giá việc thiết
kế đó có hữu hiệu hay không, có rủi ro gì xảy ra không và với các điểm nhạy cảm dễ xảy
ra rủi ro đó thì doanh nghiệp đã có biện pháp gì để khắc phục chưa.
Yêu cầu về đánh giá hệ thống KSNB, trong CMKT quốc tế IAS 400 và
SV: Đặng Phương Loan Lớp: Kiểm toán 46B
xviii
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kế toán
CMKTVN số 400 qui định “KTV phải có một sự hiểu biết đầy đủ về hệ thống kế
toán và KSNB của khách hàng để xác định bản chất, thời gian và phạm vi của các
cuộc khảo sát phải thực hiện ” và “trong khuôn khổ kiểm toán BCTC, KTV chỉ quan
tâm đến các chính sách và thủ tục liên quan của hệ thống kế toán và và hệ thống
KSNB có ảnh hưởng đến các cơ sở dẫn liệu cho việc lập BCTC”
(2,78)
.
Sau đó, KTV đưa ra đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát. Trong kiểm toán
tài chính, việc đánh giá rủi ro kiểm soát có ảnh hưởng trực tiếp đến việc xác định
các phép thử nghiệm áp dụng. Nếu rủi ro kiểm soát được xác định ở mức tối đa
khi KSNB không hoạt động hoặc hoạt động không hiệu lực, không phát hiện và
ngăn chặn các gian lận và sai sót trọng yếu thì KTV không dựa vào hệ thống
KSNB của khách hàng, không cần thực hiện thử nghiệm kiểm soát. Khi đó, KTV
tăng cường các thử nghiệm cơ bản để phát hiện hành vi gian lận, sai sót. Nếu rủi
ro kiểm soát được đánh giá ở mức thấp hơn mức tối đa, KTV dựa vào hệ thống
KSNB của khách hàng để giảm bớt các thử nghiệm cơ bản trên số dư và nghiệp
vụ. Trong trường hợp này, KTV thực hiện tuần tự thử nghiệm kiểm soát và thử
nghiệm cơ bản.
Để kiểm tra tính hữu hiệu của các qui chế và thủ tục kiểm soát trong thực tế
nhằm giảm bớt các thử nghiệm cơ bản thì KTV thực hiện các thử nghiệm kiểm
soát, các thủ tục thường được sử dụng là : phỏng vấn, quan sát, thực hiện lại, đối
chiếu, kiểm tra chứng từ; mỗi chu trình sẽ có đặc điểm về kiểm soát riêng nên thủ
tục này sẽ được thiết kế riêng cho từng chu trình. Nếu thủ tục kiểm soát để lại các
dấu vết trực tiếp trên tài liệu như các chữ ký phê duyệt, hóa đơn lưu thì có thể sử
dụng phương pháp kiểm tra tài liệu hoặc thực hiện lại các thủ tục kiểm soát. Nếu
các thủ tục không để lại dấu vết thì KTV tiến hành quan sát hoạt động hoặc phỏng
vấn nhân viên đơn vị về các thủ tục kiểm soát. Với phạm vi cả doanh nghiệp,
KTV đánh giá về hệ thống quản lý, phân chia nhiệm vụ và cách thức điều hành
nói chung. Sau khi thực hiện thử nghiệm kiểm soát, KTV đưa ra kết luận của mình
về rủi ro kiểm soát cùng các cơ sở của kết luận.
Thủ tục thường được KTV thực hiện để đánh giá rủi ro kiểm soát là thử
SV: Đặng Phương Loan Lớp: Kiểm toán 46B
xix
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kế toán
nghiệm kiểm tra từ đầu đến cuối (Walkthrough test). Thực hiện thử nghiệm này,
KTV kiểm tra xem các bước kiểm soát mà doanh nghiệp đặt ra có được áp dụng
trong thực tế hay không, tiến hành thu thập các giấy tờ mà theo như qui định cần
phải có để thực hiện nghiệp vụ, phỏng vấn các cá nhân thực hiện để kiểm tra trình
độ của họ có đáp ứng được nhu cầu công việc không, có hiểu về thủ tục được
kiểm soát hay không.
Sự hiểu biết về hệ thống KSNB của khách hàng cùng với sự đánh giá về rủi ro
tiềm tàng sẽ giúp KTV xác định các loại thông tin sai sót nghiêm trọng có thể xảy
ra trong BCTC, xem xét nhân tố tác động đến khả năng để xảy ra sai sót nghiêm
trọng và thiết kế phương pháp kiểm toán cơ bản thích hợp.
Thứ tư : Xác định rủi ro phát hiện
Sau khi đã đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, KTV tổng hợp mức
rủi ro có thể xảy ra sai phạm trọng yếu nói chung. Dựa trên kết hợp của rủi ro tiềm
tàng và rủi ro kiểm soát đã đánh giá, KTV thực hiện phân bổ mức trọng yếu ban
đầu cho cho các khoản mục trên BCTC, đánh giá rủi ro kiểm toán và xác định rủi
ro phát hiện. Ví dụ: Nếu rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát cao của khoản mục
cao, KTV phân bổ mức trọng yếu thấp, rủi ro kiểm toán ở mức cao. Để đảm bảo
rủi ro kiểm toán ở mức thấp cho phép, rủi ro phát hiện cần ở mức thấp. Trên cơ sở rủi
ro phát hiện đó, KTV lập chương trình kiểm toán, thiết kế các thủ tục kiểm tra chi tiết
thích hợp, mở rộng phạm vi thực hiện các thủ tục kiểm toán.
Theo IAG số 29, “ Sự đánh giá rủi ro kiểm soát của KTV, cùng với sự đánh giá
về rủi ro tiềm tàng, sẽ ảnh hưởng đến nội dung, thời hạn và phạm vi của các phương
pháp kiểm toán cơ bản cần phải tiến hành nhằm giảm các rủi ro phát hiện xuống mức
có thể chấp nhận được ”
(7,302)
.
Mối quan hệ kết hợp giữa rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát với rủi ro phát
hiện là mối quan hệ tỷ lệ nghịch. Ma trận dưới đây thể hiện mức độ thông thường
chấp nhận được của rủi ro phát hiện trên cơ sở đánh giá rủi ro kiểm soát và rủi ro
tiềm tàng:
Bảng 1.1: Ma trận rủi ro phát hiện
Đánh giá của KTV về rủi ro kiểm soát
SV: Đặng Phương Loan Lớp: Kiểm toán 46B
xx
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kế toán
Cao Trung bình Thấp
Đánh giá của
KTV về rủi ro
tiềm tàng
Cao Thấp Thấp Trung bình
Trung bình Thấp Trung bình Cao
Thấp Trung bình Cao Cao
Mức độ rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá không thể ở mức
thấp đến nỗi mà KTV không cần phải tiến hành bất cứ một biện pháp kiểm toán cơ bản
nào đối với các số dư tài khoản và loại nghiệp vụ quan trọng. Do vậy, bất kể mức độ
rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá ra sao, KTV vẫn luôn tiến hành
một số thủ tục trong thử nghiệm cơ bản.
1.1.2.2. Qui trình đánh giá trọng yếu trong kiểm toán tài chính
Đánh giá đúng trọng yếu có ý nghĩa quyết định trong quá trình thực hiện kiểm
toán vì các thủ tục sau đó được thực hiện đều dựa trên đánh giá đó. Mặc dù tầm quan
trọng của đánh giá trọng yếu đã được xác định rõ ràng, tuy nhiên trọng yếu là một
vấn đề mang tính chất tương đối và việc đánh giá phụ thuộc rất nhiều vào kinh
nghiệm, trình độ chuyên môn và khả năng xét đoán nghề nghiệp của KTV. Hiện
tại, các chuẩn mực nghề nghiệp hầu như chưa đưa ra hướng dẫn cụ thể nào để đánh
giá thế nào là trọng yếu đối với người sử dụng BCTC. Trên thực tế, các công ty kiểm
toán chuyên nghiệp thường đề ra các đường lối chỉ đạo, định hướng về qui trình thực
hiện để trợ giúp cho các KTV trong quá trình kiểm toán, và việc đánh giá thường
được trưởng nhóm kiểm toán thực hiện .
Thông thường, có ba bước chính để thực hiện đánh giá trọng yếu trong quá
trình tiến hành một cuộc kiểm toán, các bước đánh giá này được thực hiện theo
phương pháp từ trên xuống thể hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1: Qui trình đánh giá trọng yếu trong kiểm toán BCTC
Bước 2 Phân bổ ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho các khoản mục
SV: Đặng Phương Loan Lớp: Kiểm toán 46B
Bước 1 Đánh giá tính chung về tính trọng yếu và đưa ra ước lượng ban
đầu về tính trọng yếu cho BCTC
xxi
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kế toán
trên BCTC
Bước 3 Ước tính sai sót và so sánh với ước lượng ban đầu đã được điều
chỉnh để đưa ra kết luận kiểm toán
Thứ nhất: Đánh giá chung về tính trọng yếu và đưa ra ước lượng ban đầu về
tính trọng yếu.
Ước lượng sơ bộ ban đầu về tính trọng yếu là ước lượng tối đa mà KTV tin
rằng ở mức đó BCTC vẫn tồn tại sai sót nhưng chưa ảnh hưởng đến quyết định của
những người sử dụng thông tin. Hay ước lượng ban đầu về mức trọng yếu chính là
tổng hợp tối đa các sai sót chấp nhận được trên các BCTC.
Bản công bố chuẩn mực kiểm toán SAS số 22 “Lập kế hoạch và giám sát” yêu
cầu KTV thiết lập đánh giá ban đầu về trọng yếu trong giai đoạn lập kế hoạch, tuy
nhiên, chuẩn mực này không yêu cầu KTV phải lượng hóa trọng yếu. Trên thực tế,
việc đưa ra một con số cụ thể về mức trọng yếu sẽ đem lại rất nhiều lợi ích cho KTV
và các hãng kiểm toán.
Đây là bước công việc được thực hiện trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán.
Sở dĩ, cần phải xây dựng ước lượng ban đầu là do hai khía cạnh:
Thứ nhất là, xây dựng ước lượng ban đầu về trọng yếu có tác dụng trợ giúp cho
KTV trong việc lập kế hoạch thu thập bằng chứng kiểm toán. Nếu ước lượng sơ bộ
ban đầu về mức trọng yếu thấp, rủi ro có sai phạm xảy ra là cao, để hạn chế rủi ro thì
KTV lập kế hoạch thu thập nhiều bằng chứng kiểm toán đảm bảo tính đầy đủ và có
hiệu lực để đưa rủi ro xuống mức thấp.
Thứ hai là, do KTV không thể thực hiện kiểm toán toàn bộ đối tượng kiểm toán
nên việc ước lượng giúp KTV đưa ra ý kiến hợp lý dựa trên các khía cạnh trọng yếu,
nó cho phép KTV đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần trong khi BCTC có thể vẫn còn
những sai phạm không trọng yếu.
Việc tính toán mức ước lượng sơ bộ về trọng yếu đòi hỏi kinh nghiệm, trình độ
chuyên môn, óc xét đoán nghề nghiệp của KTV và thường mang tính chất chủ quan.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện và các chỉ tiêu được sử dụng làm cơ sở phải tuân thủ
SV: Đặng Phương Loan Lớp: Kiểm toán 46B
xxii
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kế toán
theo hướng dẫn kiểm toán của từng công ty kiểm toán. Ước lượng sơ bộ về tính trọng
yếu được xác định trong giai đoạn lập kế hoạch mang tính chất xét đoán nghề nghiệp
của KTV nên không cố định mà có thể thay đổi trong suốt cuộc kiểm toán. Mỗi khi phát
sinh những sự kiện mới đối với công ty khách hàng, KTV có thể thay đổi đánh giá của
KTV về rủi ro xảy ra sai sót và do đó, thay đổi ước lượng sơ bộ về tính trọng yếu.
Hoặc khi cơ sở dùng để làm cơ sở xác định mức trọng yếu thay đổi thì ước lượng sơ
bộ cũng thay đổi. Ước lượng ban đầu cũng có thể được điều chỉnh tùy thuộc vào ảnh
hưởng của các yếu tố định tính có liên quan tới cuộc kiểm toán như: kinh nghiệm
kiểm toán từ những lần trước, điều kiện môi trường kinh doanh…
Hướng dẫn cho quá trình ước lượng sơ bộ về trọng yếu, Chuẩn mực kiểm toán
Việt Nam số 320, Mục 12 có ghi: “Kết quả đánh giá mức trọng yếu và rủi ro kiểm
toán ở thời điểm lập kế hoạch kiểm toán ban đầu có thể khác so với kết quả đánh giá
ở các thời điểm khác nhau trong quá trình kiểm toán. Sự khác nhau này là do sự thay
đổi hoàn cảnh thực tế hoặc sự thay đổi về hiểu biết của KTV về đơn vị được kiểm
toán dựa trên kết quả kiểm toán đã thu thập được, như: trường hợp lập kế hoạch kiểm
toán trước khi kết thúc năm tài chính, KTV đã đánh giá mức trọng yếu và rủi ro kiểm
toán căn cứ trên dự tính trước kết quả hoạt động và tình hình tài chính của doanh
nghiệp. Nếu tình hình tài chính thực tế và kết quả hoạt động của doanh nghiệp có sự
khác biệt đáng kể so với dự tính, thì việc đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán sẽ có
thay đổi. Hơn nữa, trong khi lập kế hoạch kiểm toán, KTV thường ấn định mức trọng
yếu có thể chấp nhận được thấp hơn so với mức sử dụng để đánh giá kết quả kiểm
toán nhằm tăng khả năng phát hiện sai sót ”
(3,53)
.
Do tính chủ quan trong đánh giá trọng yếu nói chung và ước lượng sơ bộ nói
riêng nên trong quá trình ước lượng sơ bộ, KTV quan tâm đến hai khía cạnh:
Thứ nhất: Tính trọng yếu là một khái niệm tương đối hơn là khái niệm tuyệt
đối. Do đó, một ước lượng là trọng yếu đối với công ty này nhưng không là trọng yếu
với công ty khác, vì vậy KTV tùy vào từng khách hàng cụ thể để đánh giá.
Thứ hai: KTV lựa chọn cơ sở ước lượng sơ bộ phù hợp. Cơ sở xác định tùy
thuộc vào từng công ty nhưng phải mang tính chất đại diện cho toàn bộ BCTC. Với
cùng một công ty thì cần căn cứ vào điều kiện hoạt động cụ thể, khi công ty mới đi
SV: Đặng Phương Loan Lớp: Kiểm toán 46B
xxiii