Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Tiểu luận những vấn đề chung về thừa kế theo pháp luật dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.41 KB, 34 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Thừa kế là một quan hệ xã hội có từ lâu đời trong lịch sử tồn tại và phát triển
của xã hội loài người.Quan hệ thừa kế là một quan hệ pháp luật có nội dung kinh tế
xã hội sâu sắc, xuất hiện đồng thời với quan hệ sở hữu và phát triển cùng với sự
phát triển của xã hội loài người.
Quan hệ thừa kế và quan hệ sở hữu có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Nếu ta
xem quan hệ sở hữu là tiền đề cho quan hệ thừa kế xuất hiện thì quan hệ thừa kế có
tác dụng ngược lại để duy trì quan hệ sở hữu, ngay từ khi còn ở thời kỳ sơ khai
chưa có nhà nước và pháp luật thì thừa kế được thể hiện bằng việc chuyển dịch tài
sản của người chết dựa trên quan hệ huyết thống và được được điều chỉnh bằng
những phong tục tập quán của từng thị tộc bộ lạc.
Khi xuất hiện nhà nước thì pháp luật ra đời và pháp luật thừa kế cũng có từ đó.
Khi nói đến thừa kế là nói đến một quan hệ pháp luật mang tính đặc thù. Bởi vì
những người tham gia vào quan hệ pháp luật thừa kế là những người có mối quan
hệ huyết thống với nhau.Và nói đến pháp luật về thừa kế là nói đến hệ thống các
quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành, quy định về di sản thừa kế, các điều
kiện, trình tự thủ tục chuyển dịch tài sản của người chết cho người còn sống, và
điều đó cũng có nghĩa là người có tài sản trước khi chết có quyền định đọat tài sản
của mình cho người khác.
Có thể nói rằng quan hệ pháp luật về thừa kế là một quan hệ pháp luật hết sức
đặc thù và đặc biệt bởi vì đó là quan hệ pháp luật giữa những người có mối quan
hệ huyết thống với nhau. Chính vì thế luật sư đóng vai trò rất quan trọng trong
quan hệ pháp luật về thừa kế. Trong một vụ án về thừa kế Luật sư phải làm sao,làm
như thế nào để tư vấn cho khách hàng của mình trong trong mối quan hệ pháp luật
này- vừa bảo vệ được quyền và lợi ích một cách chính đáng cho khách hàng đồng
thời phải bằng sự am hiểu pháp luật của mình, bằng kỹ năng, bằng đạo đức của
một người luật sư phải tư vấn sao cho khách hàng xử sự sao cho đúng với truyền
thống đạo đức của cha ông ta, của dân tộc ta.

CHƯƠNG I
KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ TRONG VỤ ÁN THỪA KẾ


Với vai trò là một luật sư trong vụ án thừa kế, có thể nói rằng đây là một vai
trò thật sự quan trọng và hết sức đặc biệt, bởi vì như chúng ta đã biết quan hệ pháp
luật thừa kế mang tính chất đặc thù và hết sức đặc biệt - là quan hệ tranh chấp về
quyền thừa kế giữa những người có cùng mối quan hệ huyết thống với nhau. Đó là
một vấn đề rất nhạy cảm như phần trên đã trình bày, luật sư phải là người giúp cho
thân chủ của mình bảo vệ được quyền lợi hợp pháp nhưng đồng thời cũng chính là
người giúp cho họ giữ được mối quan hệ thuận hòa trong gia tộc…Và để đạt được
những điều đó thì không có gì khác hơn đòi hỏi luật sư phải có đạo đức nghề
nghiệp, và đặc biệt là phải có sự am tường pháp luật sâu sắc, phải tư vấn giải thích
với khách hàng của mình về những quy định pháp luật về thừa kế, cụ thể:
1.1. Những Quy Định Chung Của Pháp Luật Về Thừa Kế
Thừa kế là việc chuyển giao tài sản của một người sau khi người này chết cho
những người khác theo quy định của pháp luật. Việc chuyển giao này có thể thực
hiện theo di chúc, nếu người có tài sản đã lập di chúc trước khi chết. Trong trường
hợp không có di chúc, di chúc không hợp pháp hoặc di chúc không phát sinh hiệu
lực pháp luật, thì việc chuyển giao tài sản sẽ thực hiện theo pháp luật. Trong
trường hợp có tranh chấp về tài sản thừa kế thì người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
1.1.1.Người để lại di sản thừa kế:
Người để lại di sản thừa kế là người mà sau khi chết có tài sản để lại cho người
khác theo trình tự thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật. Người để lại di sản
thừa kế chỉ có thể là cá nhân mà không thể là pháp nhân, cơ quan hoặc tổ chức xã
hội khác.
Việc thừa kế chỉ được thực hiện khi người có tài sản chết. Vì vậy, nếu người
có tài sản làm sẵn di chúc nhưng họ vẫn còn sống thì những người được hưởng
thừa kế vẫn chưa được hưởng hoặc chưa thể có quyền đòi hỏi phải thực hiện di
chúc.

Người để lại di sản là người có tài sản riêng có thể là người chưa thành niên,
người mắc bệnh tâm thần, người đang bị giam giữ,người đang phải thi hành án

hình sự, người đang bị quản chế hoặc bị tước một số quyền công dân…
1.1.2. Người thừa kế: (Điều 638 – BLDS 2005)
Người thừa kế là người được người chết để lại cho di sản theo di chúc hoặc
được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật. Trong thừa kế theo pháp luật thì
người thừa kế thông thường chỉ có thể là cá nhân, nhưng trong thừa kế theo di chúc
người được thừa kế có thể là cá nhân, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế, cơ
quan Nhà nước.
Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế
hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi
người để lại di chúc chết.
Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức thì cơ quan,
tổ chức đó phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Trong cả hai trường hợp thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật thì những
người sau đây không có quyền được hưởng thừa kế:
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về
hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm
nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó.
- Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác
nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có
quyền được hưởng.
- Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản
trong việc lậ[ di chúc, giả mạo, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm
hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý muốn của người để lại di
sản.
1.1.3. Thời điểm mở thừa kế:

Việc xác định thời điểm mở thừa kế rất quan trọng vì tại thời điểm đó mà xác
định được chính xác tài sản, quyền và nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản đó
gồm có những gì. Việc xác định tài sản mà người chết để lại rất quan trọng vì cần

đề phòng tình trạng tài sản đó có thể bị người khác phân tán hoặc chiếm đoạt. Thời
điểm mở thừa kế cũng là thời điểm xác định được những người thừa kế.
Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết; ngày mà Tòa án xác
định người đó chết hoặc ngày mà quyết định của Tòa án tuyên bố người đó chết có
hiệu lực pháp luật. Đặc biệt lần đầu tiên pháp luật nước ta quy định thời điểm có
hiệu lực của di chúc chung giữa vợ và chồng, nếu có thỏa thuận là người cuối cùng
chết thì di sản của vợ chồng mới được phân chia.
1.1.4. Địa điểm mở thừa kế:
Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản, nếu
không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn
bộ hoặc phần lớn di sản.
BLDS quy định địa điểm mở thừa kế vì ở nơi đó thường phải tiến hành những
công việc như: kiểm kê ngay tài sản của người đã chết (trong trường hợp cần
thiết); xác định những ai là người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật;…
Người từ chối nhận di sản phải thông báo cho cơ quan công chứng Nhà nước hoặc
UBND xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản.
Trong trường hợp nếu có tranh chấp thì TAND nơi mở thừa kế có thẩm quyền giải
quyết.
Trong thực tế, một người trước khi chết có thể ở nhiều nơi, do đó BLDS quy
định địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản, chỉ trong
trường hợp không xác định nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản thì địa
điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ hoặc phần lớn di sản.
2.1. Di sản thừa kế:
Di sản bao gồm: tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết
trong khối tài sản chung với người khác, ngoài ra di sản thừa kế còn là các quyền
về tài sản của người đã chết.

Như vậy, di sản thừa kế là toàn bộ những tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp
của người đã chết, quyền về tài sản của người đó. Quyền sở hữu tài sản là một
trong những quyền cơ bản của công dân được Nhà nước bảo hộ. Nội dung quyền

sở hữu đã được quy định trong BLDS: Mọi công dân đều có quyền chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt đối với các loại tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của mình,
nghĩa là họ có quyền khai thác lợi ích vật chất và những lợi ích tinh thần cho bản
thân trong phạm vi quy định của pháp luật cũng như có thẩm quyền quyết định số
phận thực tế hay số phận pháp lý đối với tài sản của mình.
Tài sản riêng của người chết là tài sản do người đó tạo ra bằng thu nhập hợp
pháp (như tiền được trả công lao động, tiền thưởng, tiền trúng xổ số…); của cải để
dành (như tiền mua công trái, tiền gửi quỹ tiết kiệm, tín dụng…); tài sản được tặng
cho, thừa kế, tư liệu sinh hoạt riêng (nhu quần áo, giường, tủ, phương tiện đi
lại…); nhà ở; tư liệu sản xuất, vốn sản xuất, vốn kinh doanh.
Ngoài ra, có nhiều trường hợp do cùng góp vốn để cùng sản xuất nên có khối
tài sản thuộc quyền sở hữu chung của nhiều người (đồng sở hữu chủ với một khối
tài sản nhất định). Trong trường hợp này di sản thừa kế của người chết là phần tài
sản thuộc sở hữu của người đó đã đóng góp trong khối tài sản chung.
Khác với hình thức sở hữu chung như trên, tài sản của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân là tài sản chung hợp nhất, nghĩa là trong khối tài sản chung đó không thể
phân định được của mỗi người là bao nhiêu. Theo khoản 2 - Điều 233 - BLDS thì
vợ chồng cùng nhau tạo lập phát triển khối tài sản chung bằng công sức của mỗi
người đều và mỗi người đều có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản chung đó. Khi một bên chết trước mà cần chia tài sản chung của
vợ chồng thì chia đôi. Phần tài sản của người chết được chia theo quy định của
pháp luật về thừa kế. Vì vậy, khi một bên chết trước, một nửa khối tài sản chung
đó sẽ là tài sản của người chết và được chuyển cho người thừa kế theo di chúc
hoặc theo quy định của pháp luật về thừa kế.
2.1.2. Người không được hưởng di sản:

Theo khoản 1 - Điều 646 – BLDS thì những người sau không được hưởng di
sản:
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về
hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm

nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó.
- Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác
nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có
quyền được hưởng.
- Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản
trong việc lập di chúc, giả mạo, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm
hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý muốn của người để lại di
sản.
Trong bốn trường hợp nói trên thì người thừa kế không có quyền hưởng di sản
nhưng pháp luật cũng quy định là họ vẫn hưởng di sản “nếu người để lại di sản đã
biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc”.
Quy định này của pháp luật là một cơ sở pháp lý để đảm bảo quyền tự định đoạt
của người để lại di sản dựa trên một logic pháp lý như sau: Người thừa kế theo
pháp luật nếu vi phạm khoản 1 Điều 646 thì không được hưởng di sản (không còn
là người thừa kế theo pháp luật) nhưng vẫn được hưởng di sản nếu được người để
lại di sản cho hưởng theo di chúc (là người thừa kế theo di chúc). Tuy nhiên, ở đây
cần có phân biệt như sau:
- Nếu người có tài sản đã biết hành vi sai trái của người thừa kế mà vẫn
lập di chúc để lại di sản chongười đó thì người này không mất quyền
hưởng di sản.
- Khi lập di chúc, người có tài sản không biết hoặc không thể biết được
những hành vi của người thừa kế nên vẫn lập di chúc cho họ hưởng, sau
đó mới phát hiện ra người thừa kế vi phạm một trong những hành vi nói
trên thì vẫn không được hưởng thừa kế theo di chúc.

Thông thường việc thừa kế được mở để chia di sản thừa kế của người chết cho
những người còn sống theo pháp luật hoặc theo di chúc. Những người thừa kế này
phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Tuy nhiên pháp luật về thừa kế dự liệu
những trường hợp cá biệt có thể xảy ra trong thực tế như hai người được thừa kế

của nhau mà chết trong một tai nạn (như đắm tàu, thuyền, tai nạn ô tô, xe lửa, máy
bay…) mà không thể xác định ai chết trước.
Do đó để việc thừa kế được mở bình thường, Điều 644 – BLDS quy định:
trong trường hợp những người có quyền thừa kế di sản của nhau đều chết trong
cùng một thời điểm hoặc coi là chết trong cùng một thời điểm do không thể xác
định được người nào chết trước, thì họ không được thừa kế di sản của nhau và di
sản của mỗi người do người thừa kế của người đó hưởng.
2.1.3. Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại:
Người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết
để lại. Trong trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết
để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa
kế. Trong trường hợp di sản đã được phân chia, thì mỗi người thừa kế thực hiện
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng với phần tài sản mà mình đã nhận.
Trong trường hợp nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc thì cũng
phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.
2.1.4. Từ chối nhận di sản:
Người thừa kế cũng có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối
nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình với người khác. Việc từ
chối nhận di sản phải được lập thành văn bản, người từ chối phải báo cho người
thừa kế khác, người được giao phân chia di sản, công chứng Nhà nước hoặc
UBND xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản.
Thời hạn từ chối nhận di sản là 6 tháng, kể từ ngày mở thừa kế.
2.1.5. Thời hiệu khởi kiện vụ án thừa kế:
Theo Điều 648 – BLDS, thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là 10 năm kể từ
ngày mở thừa kế. Trong thời hạn này, người thừa kế có quyền yêu cầu Tòa án chia

thừa kế, xác định quyền thừa kế của mình, truất quyền thừa kế của người. Hết thời
hạn mười năm, người thừa kế không còn quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải
quyết tranh chấp về quyền thừa kế.
Trong thực tiễn, quan hệ pháp luật về thừa kế được phân chia thành hai trường

hợp đó là trường hợp thừa kế được chia theo quy định của pháp luật (thừa kế theo
pháp luật) - áp dụng cho trường hợp mà người chết để lại di sản nhưng không để
lại di chúc.Và trường hợp thứ hai là di sản của người chết được phân chia theo
như nội dung của bản di chúc mà họ để lại (thừa kế theo di chúc). Hai trường hợp
này được quy định cụ thể như sau:
3.1. Thừa Kế Theo Di Chúc
Thừa kế theo di chúc là việc di chuyển di sản thừa kế (tài sản, quyền về tài
sản) của người đã chết cho những người còn sống theo sự định đoạt của người đó
khi còn sống. Chế định thừa kế theo di chúc là một cách thức giúp người đã chết để
lại khối di sản của mình cho những người gần gũi, có quan hệ gắn bó theo ý muốn
của người đó, và sự định đoạt đó được pháp luật về thừa kế bảo vệ bằng những quy
định cụ thể để cho người được hưởng thừa kế theo di chúc nhận được di sản thừa
kế theo ý nguyện cuối cùng của người có tài sản.
3.1.2. Người lập di chúc:
Người lập di chúc là người mà thông qua việc lập di chúc để định đoạt khối tài
sản của mình cho những người khác sau khi mình chết với ý chí hoàn toàn tự
nguyện. Người lập di chúc là chủ thể đầu tiên trong quan hệ phápluật về thừa kế vì
việc lập di chúc là để định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Do đó, người
lập di chúc chỉ có thể là công dân cụ thể và phải có tài sản thuộc quyền sở hữu của
mình. Ngoài công dân ra thì các chủ thể khác như cơ quan, tổ chức,… không bao
giờ là người lập di chúc được vì tài sản của cơ quan, tổ chức… là tài sản chung
không ai có quyền tự mình để trở thành người để lại di sản thừa kế.

Muốn cho di chúc của mình lập ra có hiệu lực pháp luật thì người lập di chúc
phải có những điều kiện nhất định mà pháp luật quy định như về độ tuổi, về khả
năng làm chủ hành vi của mình, về hình thức, nội dung dichúc.
3.1.3 Quyền của người lập di chúc:
Pháp luật nước ta trên cơ sở bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công
dân đã đảm bảo để công dân thực hiện những quyền này trong nội dung quyền sở
hữu một cách triệt để. Trong số các quyền năng này, về mặt pháp lý quyền định

đoạt mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Điều 201 – BLDS quy định “… chủ sở hữu
có quyền tự mình bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ hoặc thực hiện
các hình thức định đoạt khác đối với tài sản”. Vì vậy việc tôn trọng quyền lập di
chúc là một yếu tố để tôn trọng và khẳng định quyền sở hữu về tài sản của người
lập di chúc, vì khi lập di chúc để lại tài sản cho người khác thì chính công dân đó
đang thực hiện quyền định đoạt của mình đối với tài sản. Điều 634 đã khẳng định
“cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình cho người thừa kế
theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”.
Người có di sản thực hiện quyền tự định đoạt của mình bằng cách:
3.2. Chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế:
Người lập di chúc có quyền để lại di sản cho bất cứ cá nhân hoặc tổ chức nào.
Người được nhận di sản có thể là cá nhân trong hay ngoài diện thừa kế theo quy
định của pháp luật hoặc cũng có thể là Nhà nước, tổ chức kinh tế, xã hội…
Quyền định đoạt của người lập di chúc còn được thể hiện thông qua việc họ có
quyền truất quyền hưởng di sản của người thừa kế theo pháp luật mà không nhất
thiết phải nêu lý do, tức là trong di chúc, người lập di chúc chỉ định một hay nhiều
người thừa kế theo luật không được hưởng di sản thừa kế của mình hoặc chỉ định
một hoặc nhiều người được thừa kế toàn bộ di sản thì mặc nhiên những người khác
dù thuộc hàng thừa kế cũng không được quyền thừa kế (trừ thừa kế bắt buộc).

3.2.1 Phân định phần di sản cho từng người thừa kế:
Việc phân định tài sản cho người thừa kế được thực hiện trong trường hợp có
nhiều người cùng được thừa kế theo pháp luật. Người lập di chúc có quyền phân
chia di sản cho mỗi người thừa kế đó sẽ được bao nhiêu hoặc những loại tài sản
nào. Phần di sản cho mỗi người không nhất thiết phải ngang nhau mà người lập di
chúc không cần phải nêu lý do tại sao.
3.2.2. Dành một phần trong khối tài sản để di tặng, thờ cúng
Người có tài sản có quyền lập di chúc dành một khoản tiền, một tài sản khác
để tặng cho cá nhân trong hay ngoài diện thừa kế theo quy định của pháp luật hoặc
cũng có thể là tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế.

Ngoài ra được quyền dùng một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, người
có tài sản còn có quyền dùng một phần tài sản của mình để dùng vào việc thờ
cúng.
3.2.3 Giao nghĩa vụ cho người thừa kế trong phạm vi di sản:
Người lập di chúc có thể giao cho một hoặc nhiều người thừa kế thực hiện
thay người lập di chúc một số nghĩa vụ kể cả nghĩa vụ về tài sản. Nếu giao nghĩa
vụ về tài sản thì người phải thực hiện nghĩa vụ đó chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trong
phạm vi tương ứng với phần di sản mà mình đã nhận.
Người lập di chúc có thể giao cho người thừa kế thực hiện một nghĩa vụ,
chẳng hạn nuôi dưỡng người sống nương nhờ, mua một tài sản chomột người nào
đó. Nghĩa vụ này không phải là của người thừa kế nhưng người lập di chúc cho
người thừa kế hưởng di sản thừa kế đồng thời giao nghĩa vụ cho người thừa kế
phải nuôi dưỡng người đó bằng chi phí lấy từ khối di sản được thừa kế… Tuy
nhiên nghĩa vụ do người lập di chúc giao không nhất thiết mang tính chuyển giao
tài sản mà có thể là nghĩa vụ làm một việc nhiều khi mang giá trị tinh thần.
3.3 Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di
sản:

Người lập di chúc có quyền chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản,
người phân chia di sản. Như vậy, người giữ di chúc, người quản lý di sản, người
phân chia di sản có thể là bất cứ ai mà người lập di chúc tín nhiệm (người đó có thể
trong hoặc ngoài hàng thừa kế theo pháp luật).
3.3.1 Sửa đổi di chúc:
Là việc người lập di chúc thay thế một phần quyết định cũ của mình trong bản
di chúc. Như vậy, nếu như sửa đổi di chúc là việc người lập di chúc gạt bỏ những
quyết định cũ của mình thì bổ sung di chúc là thêm vào nội dung của di chúc một
phần quyết định mới.
3.3.2. Thay thế di chúc:
Là việc người để lại thừa kế lập một di chúc khác để thay thế cho di chúc cũ vì
họ cho rằng những quyết định của mình trong di chúc cũ không còn phù hợp với ý

chí của họ nữa. Trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng một di chúc
mới thì di chúc trước coi như bị hủy bỏ. Di chúc sau đã thay thế di chúc trước nên
di chúc trước không có hiệu lực pháp luật, mà chỉ di chúc sau mới có hiệu lực pháp
luật.
3.3.3.hủy bỏ di chúc:
Người để lại thừa kế từ bỏ quyền lập di chúc của mình bằng cách không công
nhận di chúc do mình lập ra là có giá trị. Trường hợp này được coi là không có di
chúc. Do vậy, di sản thừa kế sẽ được giải quyết theo trình tự thừa kế theo pháp
luật.
Do người lập di chúc khi còn sống có quyền thay đổi việc định đoạt nên họ có
thể để lại nhiều bản di chúc mà các bản di chúc có nội dung khác nhau thì di chúc
lập sau cùng sẽ có giá trị pháp lý. Nếu di chúc sau không nói rõ là hủy bỏ tất cả các
bản di chúc trước thì đối với di chúc trước chỉ bị huỷ bỏ những điểm nào không

phù hợp với nội dung bổ sung; nếu di chúc sau chỉ cụ thể hoá nội dung di chúc
trước thì cả hai di chúc đều có giá trị pháp lý.
3.4.hình thức di chúc:
Hình thức di chúc là sự biểu hiện ý chí của người để lại di sản thừa kế chứa
đựng nội dung của di chúc theo một trình tự kết cấu nhất định. Vì vậy hình thức
của di chúc phải tuân theo những quy định của pháp luật.
3.4.1.Di chúc bằng văn bản:
Người để lại di sản thừa kế có thể lập di chúc bằng hình thức viết theo một
trong các hình thức sau:
- Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng
- Di chúc bằng văn bản có người làm chứng
- Di chúc bằng văn bản có chứng thực của UBND xã, phường, thị trấn.
- Di chúc bằng văn bản có chứng nhận của công chứng nhà nước.
Nội dung của di chúc phải ghi rõ:
- Ngày, tháng, năm lập di chúc
- Họ tên và nơi cư trú của người lập di chúc

- Họ tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản
- Di sản để lại và nơi có di sản
- Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ
Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều
trang, thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người
lập di chúc.
3.4.2.Di chúc miệng:
Di chúc miệng (chúc ngôn) là sự bày tỏ ý chí bằng lời nói của người để lại di
sản thừa kế lúc còn sống trong việc định đoạt khối di sản của mình cho những
người khác.

Di chúc miệng chỉ được công nhận khi người lập di chúc ở trong tình trạng
tính mạng bị đe dọa nghiêm trọng mà không thể lập di chúc viết được ( bị bệnh sắp
chết, bị tai nạn có nguy cơ chết … ). người lập di chúc miệng thể hiện ý chí cuối
cùng trước mặt ít nhất hai người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc cùng
điểm chỉ. Sau ba tháng kể từ ngày lập di chúc miệng, nếu người lập di chúc miệng
còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng bị huỷ bỏ.
Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau
đây:
- Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.
- Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc.
- Người chưa đủ 18 tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự.
3.5.Hiệu lực pháp luật của di chúc:
a. Di chúc có hiệu lực:
Di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế. Trong trường hợp vợ,
chồng lập di chúc chung mà có một người chết trước thì chỉ phần di chúc liên quan
đến phần di sản của người chết trong tài sản chung có hiệu lực pháp luật. Nếu vợ,
chồng có thoả thuận trong di chúc về thời điểm có hiệu lực của di chúc là thời
điểm người sau cùng chết, thì di sản của vợ chồng theo di chúc chung chỉ được
phân chia từ thời điểm đó.

b. Di chúc không có hiệu lực pháp luật toàn bộ hoặc một phần
trong các trường hợp sau đây:
- Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với
người lập di chúc.
- Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn vào thời
điểm mở thừa kế.
- Di sản thừa kế không còn, hoặc chỉ còn một phần vào thời điểm mở thừa
kế Di chúc không có hiệu lực pháp luật nếu di sản để lại cho người thừa
kế không còn tại thời điểm mở thừa kế, nếu di sản để lại cho người thừa

kế chỉ còn một phần, thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu
lực.
- Khi di chúc có phần không hợp pháp : khi di chúc có phần không hợp
pháp và không ảnh hưởng đến phần còn lại, thì chỉ phầm đó không có
hiệu lực pháp luật.
- Khi có nhiều bản di chúc đối với một tài sản: Khi một người để lại nhiều
bản di chúc đối với một tài sản, thì chỉ di chúc sau cùng mới có hiệu lực
pháp luật.
3.6. Thừa Kế Theo Pháp Luật
Thừa kế theo pháp luật là việc chuyển tài sản của người chết cho những người
thừa kế không phải theo di chúc mà theo quy định của pháp luật.
3.6.1.Những trường hợp thừa kế theo pháp luật:
- Không có di chúc.
- Di chúc không hợp pháp.
- Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước người lập di chúc, cơ
quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm
mở thừa kế
- Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không
có quyền hưởng di sản, hoặc từ chối hưởng di sản.
3.6.2.Phần thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với những di sản

sau đây:
- Phần di sản không được định đoạt trong di chúc.
- Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực.
- Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ
không có quyền hưởng di sản, từ chối quyền hưởng di sản, hoặc chết trước
người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo
di chúc nhưng không còn vào thời điểm mở thừa kế.

3.6.2.Diện và hàng thừa kế theo pháp luật:
Diện những người thừa kế là phạm vi những người có quyền thừa kế di sản của
người chết theo quy định của pháp luật và được xác định trên ba căn cứ : Có quan
hệ hôn nhân; quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng giữa người thừa kế với
người để lại di sản thừa kế.
Những người thừa kế theo pháp luật đựơc quy định theo thứ tự sau:
- Hàng thừa kế thứ nhất : Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con
đẻ, con nuôi của người chết.
- Hàng thừa kế thứ hai : Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị
ruột, em ruột của người chết.
- Hàng thừa kế thứ ba : Cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột,
cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết là bác
ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột.
3.6.3.Thừa kế thế vị:
Thế vị là việc con (hoặc cháu) đựơc thay vào vị trí của bố hoặc mẹ (ông, bà)
để hưởng di sản của ông, bà (hoặc cụ) trong trường hợp bố hoặc mẹ (ông hoặc bà)
chết trước ông, bà (hoặc cụ). Những người thừa kế thế vị được hưởng phần di sản
mà bố, mẹ mình (hoặc ông, bà mình) đáng lẽ được hưởng nếu còn sống, được chia
đều di sản với những người thừa kế khác.

CHƯƠNG II
KỶ NĂNG CHUẨN BỊ BÀI LUẬN CỨ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA

KHÁCH HÀNG TRONG VỤ ÁN THỪA KẾ
2.1. Đặc Điểm Các Vụ Việc Về Tranh Chấp Thừa kế :
Để thành công trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của thân chủ trong các vụ
việc tranh chấp thừa kế, Luật sư cần chú ý một số đặc thù riêng biệt trong tranh
chấp thừa kế.
• Đặc điểm thứ nhất đây là quan hệ tranh chấp liên quan đến những
người thân thích, ruột thịt trong gia đình, dòng tộc.
Tranh chấp xung quanh thừa kế di sản là loại tranh chấp nặng nề, phức tạp, ở
một khía cạnh nào đó liên quan đến tình cảm thiêng liêng nhiều lúc sâu lắng trong
tâm khảm không chỉ giữa những người đang tranh chấp mà vô hình chung nó liên
quan đến quan hệ với người đã quá cố để lại di sản thừa kế. Quan hệ tranh chấp
thoạt nhìn thì có vẻ như đơn giản, nhưng bên trong chứa chất mâu thuẫn phức tạp,
nặng nề và nhiều lúc rất gay gắt, sâu sắc.

Quan hệ tranh chấp thừa kế không chỉ liên quan đến một vài đương sự, nhiều
vụ việc thực tế liên quan đến rất nhiều người trong gia đình, họ tộc. Nếu giải quyết
không tốt nhiều lúc quan hệ tranh chấp tài sản thừa kế trở thành mối ung nhọt phá
vỡ tình cảm trong gia đình, họ tộc đã được hình thành qua nhiều thế hệ.
Thậm chí quan hệ tranh chấp đó có thể phá vỡ cả hệ thống tiêu chí đạo đức, mĩ
tục đã kết tinh thành truyền thống tương thân, tương ái của từng gia đình và dòng
tộc.Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ mình trong tranh chấp thừa
kế, Luật sư còn cần có trách nhiệm trong việc giữ gìn tình anh em, nghĩa đồng bào,
tình ruột thịt, và xa hơn là tình làng nghĩa xóm, vun đắp cho tình nghĩa gia đình
anh em ruột thịt và tạo cho xã hội ổn định và phát triển.
Đặc điểm thứ hai quan hệ tranh chấp về thừa kế gắn liền với nhiều yếu tố
truyền thống về gia phong, về gia tộc
có những quan hệ gắn với gốc rễ, cội nguồn của một gia đình, họ tộc, thậm
chí ở nhiều địa phương gắn với nhiều phong tục tập quán sắc tộc, quần cư Yếu tố
gốc gác cội nguồn thể hiện trong quan hệ thừa kế vừa cụ thể, vừa tế nhị - vì không
chỉ là quan hệ pháp lý đơn thuần, mà còn mang nặng tình cảm của từng cá nhân

tham gia vào quan hệ đó.
Đặc điểm thứ ba: Quan hệ tranh chấp về di sản thừa kế không chỉ liên quan
chủ yếu đến quan hệ tài sản và quyền tài sản, mà còn liên quan đến quyền nhân
thân của các đương sự tranh chấp thừa kế. Việc thừa nhận được hưởng di sản gắn
với cội nguồn, quyền nhân thân của họ. Cũng từ đó nhiều lúc liên quan đến danh
dự của từng cá nhân trong xã hội. Có nhiều trường hợp đương sự không chỉ đơn
thuần được hưởng di sản của người để lại thừa kế, mà qua đó để khẳng định tính
huyết thống, tình cảm của người quá cố đối với mình và ngược lại, bằng cách đó
duy trì quan hệ gia đình với người khác
Đặc điểm thứ tư: Quan hệ tranh chấp về thừa kế, bao giờ cũng liên quan đến
tài sản và quyền tài sản, thường di sản là những tài sản có giá trị lớn hoặc di sản có
ý nghĩa về tinh thần Di sản càng có giá trị lớn về kinh tế, có ý nghĩa lớn về mặt
tinh thần thì tranh chấp càng gay gắt và đó là quy luật. Hơn nữa, do những hạn chế

của hệ thống pháp luật nước ta trước đây còn thiếu hoặc chưa quy định đầy đủ về
thủ tục đăng ký, quản lý tài sản của công dân (đặc biệt là bất động sản), nên việc
xác định nguồn gốc của di sản thừa kế trở nên khá phức tạp, khó khăn. Vấn đề khó
khăn nan giải của Luật sư là xác định đúng, chính xác có phải người để lại thừa kế
là chủ sở hữu đích thực tài sản đó hay không, đặc biệt liên quan đến bất động sản
.Đặc điểm thứ năm: Liên quan đến các văn bản quy phạm pháp luật điều
chỉnh quan hệ thừa kế. Thực tế hệ thống pháp luật của nước ta trong lĩnh vực thừa
kế, giải quyết tranh chấp thừa kế chưa đồng bộ, thậm chí có chỗ còn chưa thống
nhất, còn chồng chéo, mâu thuẫn. Do điều kiện khách quan của các cuộc chiến
tranh giải phóng đất nước, chúng ta đã không dành sự quan tâm thích đáng đối với
lĩnh vực pháp luật này. Hơn nữa, do chiến tranh kéo dài, những hồ sơ về gốc gác
tài sản của công dân cũng thất lạc, mất mát Sau khi thành lập nhà nước mới và
sau khi giải phóng miền nam, những quy định pháp luật về chuyển dịch tài sản và
quản lý tài sản (đặc biệt là bất động sản) từ chế độ cũ sang chế độ mới cũng thay
đổi và khác biệt về bản chất
Đặc điểm thứ sáu: Nói đến thừa kế là liên quan đến Luật Hôn nhân - Gia đình,

Luật Hôn nhân - Gia đình của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà mới có hiệu
lực từ năm 1961 nhưng do đất nước bị kẻ thù chia cắt nên luật này chỉ mới có hiệu
lực ở miền Bắc. Đến năm 1980, khi Quốc hội chung của cả nước thống nhất mới
có Nghị quyết về áp dụng văn bản quy phạm luật thống nhất chung cho cả nước
trong đó có Luật Hôn nhân - Gia đình. Do đặc thù lịch sử đó, quan hệ hôn nhân -
gia đình ở nước ta trong các giai đoạn lịch sử vừa qua là phức tạp, cùng với sự
chuyển dịch dân số, con người từ vùng này sang vùng khác trong điều kiện chiến
tranh làm cho quan hệ hôn nhân - gia đình càng phức tạp hơn.
Đặc điểm thứ bảy liên quan đến quan hệ thừa kế Trên đất nước chúng ta có
54 dân tộc anh em cùng chung sống, mỗi dân tộc có truyền thống và tập quán
riêng, liên quan đến thừa kế. Thậm chí cùng là một dân tộc nhưng ở mỗi vùng,
miền, địa phương lại tồn tại tập quán riêng về thừa kế mà tại địa phương đó đã
thành thông lệ, ví dụ như quyền thừa kế của con trai trưởng, hoặc thừa kế theo
huyết thống dấu ấn chế độ mẫu hệ hoặc tồn tại ý thức trong một số người quan

niệm trọng nam, khinh nữ trong quan hệ thừa kế. Những quan niệm phong kiến ở
nhiều nơi ăn sâu, bám rễ và là nguyên nhân gây nên sự tranh chấp về thừa kế.
Đặc điểm thứ tám: Đây là đặc thù gây không ít khó khăn trong giải quyết các
tranh chấp về thừa kế, đó là do trình độ pháp lý của dân chưa cao, nhiều người dân
không hiểu biết những quy định của pháp luật thừa kế. Họ không biết họ có quyền
gì và như thế nào. Thậm chí, những quy định về di chúc để lại thừa kế họ cũng
không biết, những quy định của pháp luật chia thừa kế theo pháp luật họ cũng
không nắm được. Những đặc thù này gây những phức tạp nhất định trong việc giải
quyết các tranh chấp về thừa kế.
2.2. Kỹ năng cần thiết của Luật sư khi nhận bảo vệ quyền, lợi ích cho thân chủ
trong các vụ tranh chấp về thừa kế.
2.2.1 Luật sư cần biết rõ về thân chủ:
Do đòi hỏi nghề nghiệp Luật sư trước hết phải biết về thân chủ, đây là cả một
vấn đề khoa học và nghệ thuật lớn. Để bảo vệ lợi ích cho thân chủ, Luật sư không
thể không biết rõ về thân chủ của mình, đặc biệt trong các vụ việc tranh chấp về

thừa kế. Bằng cách gì và như thế nào để có được những thông tin đầy đủ khách
quan, chuẩn xác về thân chủ, điều đó phụ thuộc cách tiếp cận và khả năng khai
thác của từng cá nhân Luật sư.
Luật sư cần lưu ý, thân chủ có thể là tổ chức, pháp nhân được thừa kế theo di
chúc của người để lại di sản thừa kế.Trước hết, trong vụ việc tranh chấp thừa kế,
luật sư cần có đầy đủ thông tin về gốc gác, gia đình của chính thân chủ, những gì
liên quan đến nhân thân của thân chủ. Xác định chuẩn xác quan hệ gia đình, dòng
tộc của thân chủ với người để lại thừa kế Xác định quan hệ của thân chủ với
người hoặc số người đang có tranh chấp về di sản thừa kế là đương sự của vụ
án.Tìm hiểu và có đánh giá chuẩn xác quan hệ giữa họ với nhau.
Xác định quan hệ thân chủ của mình với những người có quyền và nghĩa vụ
liên quan trong vụ việc tranh chấp.Xác định chuẩn xác quan hệ thân chủ với người
làm chứng (nếu có) trong vụ tranh chấp.Bằng cách nào đó xác định nét chữ, bút
tích, thói quen, sở thích, ý muốn của thân chủ. Ngoài ra, Luật sư cần tìm hiểu, cần

biết về đạo đức, lối sống, quan hệ xã hội, nghề nghiệp, vị trí công tác của thân chủ
mình.Đồng thời, cần phải tìm hiểu quan hệ gia đình, thái độ đối xử của thân chủ
với người thân, với những người khác mà thân chủ có quan hệ.
Qua tìm hiểu, để Luật sư biết rõ mình đang bảo vệ quyền, lợi ích cho thân chủ
mình là ai, tạo ra sức mạnh nội tâm trong công việc.
2.2.2. Luật sư cần nắm vững yêu cầu của thân chủ trong vụ việc tranh chấp tài
sản:
Tưởng đây là vấn đề đơn giản, nhưng qua thực tế hành nghề Luật sư, không
phải Luật sư nào cũng nắm vững và hiểu yêu cầu đích thực của thân chủ.Hiểu yêu
cầu của thân chủ, là nắm bắt được cốt lõi mục đích và giới hạn cuối cùng của yêu
cầu có thể đạt được, đồng thời tìm hiểu khả năng thoả hiệp giải quyết tranh chấp
bằng hoà giải.Để nắm được đầy đủ, chi tiết yêu cầu của thân chủ, Luật sư có thể
tìm hiểu, nghiên cứu qua:
2.2.2.1. Tiếp xúc, gặp gỡ với thân chủ
Đây cũng là nghệ thuật, đòi hỏi Luật sư phải hiểu biết về khoa học tâm lý, và

văn hoá giao tiếp. Bằng thái độ chân tình tìm hiểu xem thân chủ của mình mong
muốn đạt được gì, qua tiếp xúc, gặp gỡ họ có thể bộc bạch tất cả. Cách tiếp xúc,
gợi chuyện của Luật sư với thân chủ còn phụ thuộc vào thân chủ là bị đơn dân sự
hay nguyên đơn dân sự. Nếu thân chủ là nguyên đơn dân sự trong vụ việc tranh
chấp, thì cách đặt vấn đề, gợi mở phải phù hợp với yêu cầu của thân chủ, trường
hợp thân chủ lại là bị đơn dân sự trong vụ việc tranh chấp, thì Luật sư phải tìm
hiểu xem lý do tranh chấp, mức độ tranh chấp, giới hạn của tranh chấp, nội dung
phần yêu cầu của thân chủ đối với nguyên đơn, thái độ và quan điểm chủ quan của
thân chủ về hướng giải quyết tranh chấp.
2.2.2.2. Tìm hiểu yêu cầu của thân chủ qua đơn từ:
Đối với thân chủ là nguyên đơn dân sự, Luật sư cần nghiên cứu kỹ đơn kiện
của thân chủ. Qua nghiên cứu đơn khởi kiện để xác định xem thời hiệu khởi kiện
còn không, yêu cầu cụ thể của thân chủ gồm những gì:

Di sản, quyền tài sản, và tìm hiểu xem ngoài ra thân chủ có yêu cầu gì khác
không. Qua tiếp xúc và qua đơn, Luật sư phải nắm vững được mục đích thực tế,
mục đích sâu xa của thân chủ qua vụ kiện.Qua đơn của thân chủ, Luật sư có thể
nắm bắt nỗi niềm, dự cảm của thân chủ mình. Từ đó để Luật sư hiểu thêm về các
luận cứ mà thân chủ dựa vào đó đưa ra yêu cầu. Nghiên cứu đơn của thân chủ là
nguyên đơn dân sự, để Luật sư có thể giúp thân chủ hoàn chỉnh lại đơn, mở rộng
phạm vi, yêu cầu hoặc sơ bộ giới hạn yêu cầu Việc nghiên cứu kỹ đơn của thân
chủ nhằm xác định đúng yêu cầu của thân chủ, sẽ giúp cho Luật sư tìm những căn
cứ pháp lý và căn cứ thực tế chứng minh cho yêu cầu chính đáng của thân chủ và
sẽ không có những trục trặc khi phiên toà diễn ra. Tránh được tình trạng: ông nói
gà, bà nói vịt giữa thân chủ và luật sư.
Đối với thân chủ là bị đơn dân sự, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
thân chủ của mình, Luật sư phải nắm bắt căn cứ phản tố của thân chủ và những yêu
cầu mà thân chủ có thể đưa ra độc lập đối với nguyên đơn. Tìm hiểu những trăn
trở, băn khoăn của thân chủ, qua đơn phản tố, Luật sư có thể nắm bắt được tinh
thần mà thân chủ mình muốn giải quyết trong vụ việc, mức độ thoả hiệp, những

giới hạn không thể chấp nhận thoả hiệp, những vấn đề về nguyên tắc mang tính
sống còn trong giải quyết tranh chấp và chủ định của thân chủ về hướng giải quyết
vụ tranh chấp. Chuẩn bị tốt khâu này, tại phiên toà sẽ không có những trục trặc bất
ngờ có thể xảy ra giữa luật sư và thân chủ là bị đơn dân sự.
2.3. Nghiên cứu và thu thập chứng cứ để bảo vệ quyền, lợi ích cho
thân chủ
Với trách nhiệm đầy trọng trách bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân
chủ của mình, trước khi mở phiên toà giải quyết các vụ việc tranh chấp về
thừa kế, Luật sư theo quy định của luật tố tụng dân sự, có thẩm quyền
nghiên cứu hồ sơ vụ việc, trong đó có việc nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ
có liên quan.Thân chủ (đương sự của vụ án) ngoài nghĩa vụ cung cấp tài
liệu, chứng cứ cho Thẩm phán, đồng thời để Luật sư có đủ điều kiện chứng
minh, lập luận bảo vệ lợi ích cho mình, họ cần có nghĩa vụ cung cấp những
chứng cứ, tài liệu của vụ việc cho luật sư của mình.Trong quá trình nghiên

cứu tài liệu, chứng cứ, Luật sư cần chủ động đề xuất yêu cầu của mình đối
với thân chủ trong việc cung cấp chứng cứ, phát hiện và chủ động đề nghị
thân chủ thu thập thêm chứng cứ khách quan (nếu thấy chưa đủ hoặc chưa
thuyết phục). Trong trường hợp hồ sơ có những chứng cứ không đảm bảo,
thiếu tính trung thực, không thuyết phục, thì luật sư nên chủ động yêu cầu
thân chủ cung cấp các chứng cứ bổ sung, thay thế bằng những chứng cứ, tài
liệu có tính khách quan và thuyết phục hơn.Trong một vài trường hợp, xét
thấy cần thiết, luật sư có thể tự mình giúp thân chủ thu thập và cung cấp
chứng cứ, tài liệu cho Toà án và cho chính mình để có đủ căn cứ lập luận
bảo vệ lợi ích cho thân chủ.Luật sư cần hệ thống một cách khoa học hồ sơ
vụ án qua việc tổng hợp, phân tích khách quan các chứng cứ, đặc biệt là các
chứng cứ quan trọng có thể làm thay đổi nội dung vụ án theo hướng có lợi
cho thân chủ của mình.
2.3.1. Giúp đỡ, tiếp xúc với các nhân chứng và những người có quyền và lợi
ích liên quan.Luật sư với trách nhiệm nghề nghiệp và bằng quyền hạn mà

pháp luật cho phép có thể tiếp xúc với các nhân chứng và những người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan của vụ việc tranh chấp thừa kế vì lợi ích của
thân chủ. Bằng nghệ thuật giao tiếp, và trình độ chuyên môn, Luật sư có thể
nắm bắt thêm những vấn đề liên quan đến vụ việc. Tìm hiểu quan hệ của họ
với thân chủ của mình. Nắm bắt ý kiến của những người mình tiếp xúc, làm
việc, để có thể định cho mình phương pháp, cách thức và đề xuất hướng giải
quyết vụ việc vì quyền, lợi ích của thân chủ phù hợp với pháp luật, thấu tình
đạt lý.
2.3.2. Luật sư cần xác định rõ di sản tranh chấp thừa kế
Như đã nêu ở đặc điểm thứ tư, mục I của bài này, quan hệ tranh chấp
thừa kế liên quan trực tiếp đến tài sản thừa kế và thường là những tài sản
vừa có giá trị kinh tế, vừa có ý nghĩa tinh thần. Nên để bảo vệ một cách có
hiệu quả quyền và lợi ích của thân chủ, luật sư phải xác định rõ tài sản đang
tranh chấp thừa kế. Di sản này là tài sản riêng của người chết và phần tài sản
của người chết trong tài sản chung của người khác - tính từ thời điểm mở

thừa kế.Luật sư phải xác định được đó là di sản thừa kế hợp pháp của người
để lại thừa kế.
Trong trường hợp cần thiết phải tra tìm cội nguồn, tập hợp các chứng
cứ, tài liệu cần thiết để chứng minh cho tài sản đó là di sản đang tranh chấp
của thân chủ mình, thì Luật sư nên dành công sức, thời gian thích đáng cho
xác minh điều đó.Đối với pháp luật nước ta, quyền sử dụng đất cũng thuộc
di sản thừa kế và được để lại thừa kế. Ngoài ra, di sản thừa kế còn có thể là
quyền tài sản (ví dụ: lợi ích từ bản quyền tác giả, tác phẩm, quyền phát
minh, sáng chế, quyền sở hữu công nghiệp ).
Khi xác định di sản tranh chấp, luật sư cần xác định rõ: giá trị di sản
tranh chấp, di sản là bất động sản hay động sản, nơi có di sản tranh chấp,
người quản lý di sản, các loại di sản, số lượng, chủng loại (nếu là vật, hàng
hoá, sản phẩm, cổ phiếu ). Nếu cần phải định giá di sản, thì nói rõ với thân
chủ, đề nghị thẩm phán thụ lý vụ việc yêu cầu thành lập hội đồng định giá

tài sản.Nếu di sản cần được giám định, thì tương tự như vậy, cần đề nghị
trưng cầu giám định của cơ quan có thẩm quyền.Trong khi xác định giá trị,
số lượng, địa điểm liên quan đến di sản tranh chấp, Luật sư không nên quên
là xác định luôn nghĩa vụ (có thể có) của người để lại thừa kế. Vì vấn đề
thực hiện nghĩa vụ của người để lại thừa kế sẽ liên quan đến trách nhiệm, lợi
ích của thân chủ.
2.3.4. Luật sư cần xác định rõ quan hệ pháp luật để bảo vệ quyền và
lợi ích của thân chủ trong tranh chấp thừa kế:
Căn cứ vào quy định của pháp luật, Luật sư cần xác định rõ quyền của
thân chủ trong quan hệ hưởng thừa kế đối với di sản tranh chấp.Trước hết,
phải xác định rõ thời điểm mở thừa kế, tức là thời điểm người có tài sản để
lại thừa kế chết.Luật sư phải xác định, thân chủ có nằm trong diện bị pháp
luật cấm không được hưởng di sản hay không.
Theo Bộ luật Dân sự bao gồm: Những người bị kết án về hành vi cố ý
xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, có hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ

người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người
đó.Những người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di
sản.Những người bị kết án vì hành vi cố ý xâm phạm tính mạng của người
thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người đó
có quyền hưởng, ở đây Luật sư cần phải tìm hiểu lý lịch tư pháp của thân
chủ mình, không chủ quan khi xác minh về thân chủ.Những người có hành
vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc,
giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc thì Luật sư cần phải yêu cầu giám định
chữ viết, để có cơ sở xác định đúng sự thật khách quan của vụ việc
Luật sư lưu ý, nếu chia di sản theo di chúc, mà thân chủ có thể thuộc
số người như nói trên, trong trường hợp người để lại di sản thừa kế đã biết rõ
hành vi đó của họ, nhưng vẫn cho hưởng di sản thừa kế, thì quyền hưởng di
sản thừa kế đó là quyền hợp pháp.
Luật sư cũng cần nắm vững, nếu thân chủ của mình là cơ quan, tổ

chức được hưởng thừa kế theo di chúc, thì cơ quan tổ chức đó phải tồn tại
vào thời điểm mở thừa kế.Nếu thân chủ là người sinh ra còn sống sau thời
điểm mở thừa kế, nhưng thành thai trước khi người để lại thừa kế chết, là
người có quyền hợp pháp hưởng quyền thừa kế theo di chúc hoặc theo quy
định của pháp luật.
2.3. Bảo vệ quyền, lợi ích cho thân chủ trong các vụ việc tranh chấp
thừa kế theo di chúc:
Trước hết, Luật sư cần xác định rõ di chúc đó có hợp pháp hay không
về điều kiện người lập di chúc, hình thức di chúc, nội dung di chúc, hiệu lực
pháp luật của di chúc, những quy định của di chúc có người làm chứng, có
di chúc không cần có người làm chứng, di chúc có chứng nhận của công
chứng nhà nước hoặc chứng thực của UBND xã, phường, các thủ tục lập di
chúc tại phòng công chứng và UBND xã, phường, thị trấn và quy định của
pháp luật về những người không được chứng nhận, chứng thực di chúc

Đặc biệt, Luật sư cần lưu ý khi di chúc có phần không hợp pháp mà
phần đó không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại, thì chỉ có phần
đó không có hiệu lực pháp luật. Hoặc trong trường hợp khi người để lại di
sản thừa kế có nhiều bản di chúc đối với tài sản, thì chỉ có bản di chúc sau
cùng mới có hiệu lực pháp luật.Trong trường hợp thân chủ của mình là
người thừa kế không phụ thuộc di chúc - tức là những người con chưa thành
niên, cha mẹ, vợ chồng, hoặc là con của người để lại di sản thừa kế đã thành
niên mà không có khả năng tự lao động kiếm sống, thì họ được hưởng 2/3 trị
phần được hưởng di sản theo pháp luật. Nếu như người để lại di chúc không
cho họ hưởng di sản thừa kế, hoặc cho họ hưởng ít hơn 2/3 kỉ phần theo
pháp luật, trừ trường hợp họ bị pháp luật cấm được hưởng quyền thừa kế.
Trường hợp thân chủ của Luật sư là người được hưởng di sản di tặng
của người để lại thừa kế, thì cần
lưu ý, thân chủ không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần
được di tặng. Người được hưởng di sản di tặng không được hưởng di sản đó

chỉ trong trường hợp toàn bộ di sản để lại không đủ thanh toán nghĩa vụ của
người để lại tài sản di tặng, thì phần tài sản di tặng cũng được dùng để thực
hiện phần nghĩa vụ của người quá cố.
Đặc biệt Luật sư cần lưu ý, trong khi bảo vệ quyền, lợi ích cho thân
chủ của mình trong các vụ việc thừa kế theo di chúc, thì việc giải thích nội
dung di chúc có tầm quan trọng nhất định:
Pháp luật, đòi hỏi người công bố di chúc cùng những người thừa kế
phải cùng nhau giải thích di chúc trong trường hợp nội dung di chúc không
rõ dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, cần lưu ý quan hệ của người để lại di
chúc với những người thừa kế theo di chúc, trong đó có thể có thân chủ của
mình. Khi những người này không thể nhất trí với nhau về nội dung di chúc,
thì coi như người chết không để lại di chúc và lúc đó di sản được chia thừa
kế theo pháp luật.

×