Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH HỆ THỐNG KIẾN THỨC VÀ ÔN TẬP MỘT SỐ TÁC PHẨM NGỮ VĂN 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.61 KB, 29 trang )

Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT LÊ LỢI THỌ XUÂN

TÊN ĐỀ TÀI
MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH HỆ THỐNG KIẾN
THỨC VÀ ÔN TẬP MỘT SỐ TÁC PHẨM NGỮ VĂN 12

SKKN Năm học 2012 - 2013


A. A. PHẦN MỞ ĐẦU.
Lí do chọn đề tài.
Vào các năm gần đây, “Đổi mới phương pháp dạy học”, sử dụng “kĩ thuật
dạy học” là những cụm từ trở nên q quen thuộc trong ngành giáo dục. Nó là một
địi hỏi cấp bách, một xu hướng tất yếu của các trường học. Cùng với một số môn
học khác, thực trạng dạy - học môn Văn được đề cập rất nhiều trên các phương
tiện thơng tin, trong đó đặc biệt nhấn mạnh tỉ lệ học sinh yếu ở bộ môn Văn ngày
càng cao, kéo theo kết quả không mấy khả quan trong các kỳ thi tốt nghiệp THPT
và thi Đại học, Cao đẳng.
Vì vậy, vấn đề làm thế nào để có thể nâng cao kết quả học tập và ôn thi tốt
nghiệp THPT, thi Đại học, Cao đẳng môn Ngữ Văn cho học sinh lớp 12 thật sự là
vấn đề thiết yếu và được quan tâm hàng đầu hiện nay. Có thể khẳng định, từ khi
tiến hành cải cách chương trình Sách giáo khoa bậc THPT (năm 2006) đến nay,
nhiều giáo viên đã rất nỗ lực trong việc dạy - học, khơng ngừng nâng cao trình độ,
đổi mới phương pháp dạy học, cùng với sự hỗ trợ của các phương tiện công nghệ
thông tin ngày càng hiện đại, để mang lại cho học sinh những cách học Văn lý thú,
giúp các tiết học Văn đạt hiệu quả cao.
Song việc học sinh không hứng thú với môn học, học yếu môn Văn, kết quả
thi còn thấp, hiện vẫn đang là một tồn tại mà bất cứ ai quan tâm đến nền giáo dục


của nước nhà cũng có thể thấy. Khách quan mà nói, có điều đó một phần là do vẫn
có giáo viên chưa quan tâm đúng mức, chưa giúp đỡ kịp thời đối với học sinh
trong quá trình dạy - học nên để các em có những lỗ hổng kiến thức cơ bản. Một
phần khơng nhỏ là do chính bản thân các em khơng thích học (kể cả khơng chịu
học) các mơn xã hội nói chung, mơn Ngữ Văn nói riêng; kể cả việc có em khơng
biết cách học như thế nào cho có hiệu quả nên dẫn đến kết quả học tập của các em
ngày càng thấp so với yêu cầu và mặt bằng xã hội nói chung.
Từ thực tế trên, vấn đề được quan tâm hiện nay là làm thế nào để có thể
nâng cao chất lượng, kết quả học tập mơn Ngữ Văn nói riêng, các mơn xã hội nói
chung qua các kỳ thi hàng năm. Vấn đề trên đã trở thành mục tiêu hàng đầu trong
2


mọi chương trình nghị sự khi bàn về giáo dục, nhất là năm học 2012 – 2013 này,
các em học sinh lớp 12 phải thi nhiều môn khoa học xã hội trong kỳ thi tốt nghiệp
THPT sắp tới thì vấn đề trên càng được cả xã hội quan tâm nhiều hơn.
Không kể nguyên nhân do đâu, việc giúp đỡ các em học sinh lớp 12 học và
ôn tập thi tốt nghiệp THPT, thi Đại học, Cao đẳng môn môn Ngữ Văn đạt hiệu quả
là việc làm hết sức cần thiết, cần được nhà trường và đặc biệt là người giáo viên
Ngữ Văn quan tâm nhiều nhất trong tình hình hiện nay.
Đó là lí do tơi chọn đề tài MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH

HỆ THỐNG KIẾN THỨC VÀ ÔN TẬP MỘT SỐ TÁC PHẨM
NGỮ VĂN 12
.

B. Néi dung cña ®Ị tµi
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN

3



Chương trình giáo dục phổ thơng ban hành kèm theo Quyết định số
16/2006/ QĐ – BGDĐT ngày 5/6/2006 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã nêu: “Phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc
trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học; bồi
dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kỹ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và
trách nhiệm học tập cho học sinh”.
Theo khảo sát mới nhất của PGS.TS Nguyễn Công Khanh trường Đại học Sư
phạm Hà Nội, có một con số khiến các nhà giáo “giật mình”: Gần 55% học sinh
được hỏi cho rằng mình không thực sự hứng thú và không biết cách học tập môn
Văn.
Theo kết quả sơ bộ kỳ thi đại học năm 2012 có gần 10.000 bài thi bị 0 điểm,
trong đó mơn Văn chiếm phần khơng nhỏ. Cũng sau kỳ thi đại học này, nhiều bài
phân tích, bình giảng văn, thơ của các sĩ tử đã khiến các thầy, cô giáo trực tiếp làm
công tác giảng dạy cũng như các cán bộ trong ban chấm thi phải lên tiếng trước
công luận, rung một tiếng chuông cảnh tỉnh báo hiệu về một thực tế: học sinh ngày
càng cảm thụ các áng văn hay, các bài thơ truyền cảm bằng những tư duy xã hội
học, theo chủ nghĩa tự nhiên nếu không muốn nói là thơ tục.
Theo TS. Nguyễn Thị Hồng Nam thì có những lý do rất cơ bản để dẫn đến
tình trạng trên là: chương trình quá thiên về nhồi nhét kiến thức lý thuyết mà
không chú trọng đến việc rèn luyện kỹ năng thực hành bài viết; chương trình quá
nặng, bài quá dài là một trong những nguyên nhân khiến giáo viên không thể sử
dụng các biện pháp dạy học tích cực như đàm thoại, thảo luận, cho học sinh thuyết
minh, đóng kịch mà phải "chạy" cho kịp bài, hết bài đúng thời gian chương trình.
Và một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là học sinh khơng có
phương pháp học tập khoa học, khơng chịu đầu tư thời gian, công sức cho môn học
và đặc biệt, không xác định đúng mục tiêu học tập bộ môn.


4


Vậy, làm thế nào để có thể phát huy được mọi đối tượng học sinh trong quá
trình dạy - học, nhất là các em học yếu môn Ngữ Văn 12 để giúp các em đạt được
kết quả khả quan trong học tập và vượt qua được các kì thi cuối cấp?
Trong tài liệu: "Thiết kế bài học tác phẩm văn chương ở nhà trường phổ
thông", GS Phan Trọng Luận cũng nhấn mạnh: “Giờ học mới phải là một kết cấu
logic chặt chẽ khoa học mà uyển chuyển linh hoạt, hệ thống đơn vị tình huống học
tập được đặt ra từ bản thân tác phẩm phù hợp với sự tiếp nhận của học sinh. Và
song song tương ứng là một hệ thống việc làm, thao tác do giáo viên dự tính tổ
chức để dẫn dắt từng cá thể học sinh tự chiếm lĩnh tác phẩm một cách hứng thú”.
Như vậy, dù không phát biểu trực tiếp song ý kiến trên cũng đã nhấn mạnh sự dẫn
dắt khéo léo của giáo viên trong giờ học Ngữ Văn sao cho phù hợp với mọi đối
tượng học sinh như tác giả Nguyễn Kế Hào đã từng nhấn mạnh: "Dạy học theo
phương pháp mới phải đảm bảo tính đồng loạt, phát huy được mọi đối tượng".
Tiến sỹ Huỳnh Công Minh Giám Đốc Sở GD-ĐT Thành phố Hồ Chí Minh
cho rằng “Ưu điểm của bản đồ tư duy là sẽ đem đến cho học sinh những lợi ích cụ
thể trong q trình học tập là nắm được nội dung cơ bản của bài học, hệ thống nội
dung kiến thức và biểu thị bằng sơ đồ, ghi nhớ nội dung học tập một cách sâu sắc
và bền vững”
Như vậy, sử dụng một số kĩ thuật dạy học như lập kế hoạch học tập hay sử
dụng mơ hình bản đồ tư duy hợp lí sẽ giúp cho học sinh rất nhiều trong việc nắm
vững và khắc sâu kiến thức.
2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
Cùng với những môn Khoa học Tự Nhiên, những mơn Khoa Học xã hội
cũng có lượng kiến thức rất nhiều. Làm thế nào để học sinh hệ thống kiến thức,
nắm vững kiến thức một cách khoa học, logic, tránh sự nhầm lẫn? Là một giáo
viên đứng trên bục giảng tôi luôn trăn trở làm thế nào để giúp học sinh hệ thống
kiến thức và ôn tập một cách tốt nhất? Đặc biệt là với đối tượng học sinh chỉ chú

trọng các môn học tự nhiên, chủ yếu học khối A, B như trường THPT Lê Lợi. Đối
5


với bộ môn Ngữ văn, học sinh không những phải chăm học mà cịn phải có
phương pháp học phù hợp mới có thể nắm vững kiến thức cơ bản.
Một thực trạng đáng lo ngại trong q trình ơn tập là khi giáo viên hỏi bài,
học sinh đã nắm hầu hết kiến thức, nhưng khi kiểm tra lại thì học sinh đã quên
hoặc có sự nhầm lẫn tai hại. Nhầm lẫn kiến thức của giai đoạn văn học này sang
giai đoạn văn học khác, tác giả này với tác giả khác, thậm chí từ nhân vật này sang
nhân vật khác…
Khi sử dụng kỹ thuật dạy học lập kế hoạch để hệ thống hóa kiến thức và kĩ
thuật sơ đồ tư duy trong giảng dạy tôi nhận thấy học sinh hứng thú, tích cực hơn so
với các phương pháp khác. Tuy nhiên, khi thực hiện những kỹ thuật dạy học này
giáo viên cũng cần kết hợp nhuần nhuyễn nhiều phương pháp để khai thác triệt tác
dụng của phương pháp dạy học tích cực.
III. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
3.1. Lập kế hoạch và xây dựng kế hoạch
3.1.1. Lập kế hoạch
Bộ môn Ngữ Văn nằm trong nhóm 3 mơn thi bắt buộc trong kỳ thi tốt
nghiệp THPT hàng năm, bao gồm: Văn, Toán và Ngoại ngữ. Đặc điểm này yêu
cầu nhà trường, giáo viên bộ mơn và học sinh phải có kế hoạch chủ động chuẩn bị
ngay từ đầu năm học.
Giáo viên bộ môn lập kế hoạch dạy học trên cơ sở kế hoạch công tác chung
của nhà trường và tổ chuyên mơn để có sự thống nhất, đồng bộ trong giảng dạy.
Cụ thể:
Kế hoạch (bản kế hoạch) là “toàn bộ những điều vạch ra một cách có hệ
thống về những cơng việc dự định làm trong một thời hạn nhất định, với mục tiêu,
cách thức, trình tự, thời gian tiến hành” ( Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học,
Nhà xuất bản Khoa học xã hội – 1988 ). Nói cách khác, kế hoạch là chương trình

hành động trong tương lai hướng vào việc thực hiện một mục tiêu nào đó.
Xét về phương diện học tập của HS, cịn có thể hiểu :

6


Kế hoạch học tập bộ môn là thể hiện việc xác định những nội dung học tập,
phương pháp học tập và mục tiêu cần đạt trong các kỳ thi với một giới hạn thời
gian nhất định dành cho bộ môn.
3.1.2 Xây dựng kế hoạch:
Xây dựng kế hoạch (còn gọi là lập kế hoạch) là xác định các mục tiêu, các
hoạt động và nguồn lực cần thiết để đạt tới mục tiêu một cách phù hợp với tình
hình thực tiễn trong khoảng thời gian xác định.
Xây dựng kế hoạch là làm rõ:
o Khả năng bản thân
o Mục tiêu đạt được trong tương lai
o Nội dung sẽ thực hiện.
o Phương pháp thực hiện
o Đánh giá kết quả.
Xây dựng kế hoạch là hoạt động có ý thức của chủ thể để đưa ra các quyết định
về phương hướng của một hoạt động trước khi thực hiện, nhằm đảm bảo cho hoạt
động đó được tiến hành một cách hợp lý nhất và đạt đích mong muốn.
3.1.2.1Về phía nhà trường và tổ chun mơn:
-Phân cơng giảng dạy: những giáo viên có kinh nghiệm, có trách nhiệm và năng
lực, tâm huyết trong việc giảng dạy và ôn tập khối 12.
-Nhà trường có kế hoạch tăng tiết từ đầu năm: 1 tiết/ tuần. Tiến hành kiểm tra
chung các bài kiểm tra 2 tiết cho toàn khối 12 ngay từ đầu năm học với sự thống
nhất trong tổ chuyên môn về ma trận đề và nội dung trong từng bài kiểm tra.
-Học sinh khối 12 học văn hóa sớm từ trong hè, đến cuối tháng 3 là hết chương
trình. Khi có thơng báo của Bộ Giáo dục Đào tạo về các môn thi tốt nghiệp, nhà

trường tiến hành xếp lịch ôn tập môn Ngữ Văn 5 tiết/ tuần (tháng 4, tháng 5 với
thời gian từ 6 - 7 tuần).
-Tổ bộ môn thảo luận, lập kế hoạch và thống nhất nội dung dạy học tăng tiết trong
từng tuần cho toàn khối; đề ra nội dung cụ thể cho từng tuần trong việc ôn thi tốt

7


nghiệp. Trong q trình ơn tập, tiến hành ơn chương trình học kì II trước, sau đó
quay lại ơn tiếp chương trình học kì I.
3.1.2.2. Về phía giáo viên bộ môn:
- Ngay từ đầu năm, giáo viên bộ môn cần giới thiệu đến học sinh cấu trúc đề thi
tốt nghiệp THPT để các em làm quen, chủ động về kiến thức và có cách giải quyết
đề bài hiệu qủa nhất. Cụ thể:
Đề thi tốt nghiệp THPT thường có hai phần với 3 câu hỏi:
A-Phần chung: (5,0đ):
1 - Câu hỏi giáo khoa (2,0 điểm): tái hiện kiến thức về giai đoạn văn học, tác giả,
tác phẩm văn học Việt Nam và tác giả, tác phẩm văn học nước ngoài.
2 - Đề nghị luận xã hội (3,0 điểm): Vận dụng kiến thức hiểu biết về xã hội và đời
sống để viết bài nghị luận xã hội ngắn (khoảng 400 từ) với hai dạng đề: Nghị luận
về một tư tưởng, đạo lí hoặc nghị luận về một hiện tượng đời sống.
B-Phần riêng (5,0đ):
3-Đề nghị luận văn học (5,0 điểm): Vận dụng khả năng đọc – hiểu và kiến thức
văn học để viết bài nghị luận văn học, phân tích giá trị nội dung, nghệ thuật của
bài thơ, đoạn thơ hoặc một tác phẩm văn xuôi (đặt mỗi tác phẩm trong từng giai
đoạn lịch sử cụ thể). Gồm:
a-Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ.
b-Nghị luận về một tác phẩm, đoạn trích văn xi.
Trong quá trình học trên lớp, học sinh cần phải được trang bị những kiến
thức cơ bản của môn học một cách đầy đủ, có hệ thống (theo Phân phối chương

trình của Bộ Giáo Dục - Đào tạo) thông qua sự hướng dẫn trực tiếp của giáo viên.
Đối với tác phẩm thơ: học sinh cần nắm vững giá trị nội dung, tư tưởng (ý ghĩa
văn bản) và những đặc sắc về nghệ thuật của đoạn thơ hoặc bài thơ.
Đối với tác phẩm văn xi: học sinh cần nắm chắc tóm tắt tác phẩm; tìm các chi
tiết, sự việc, tình huống tiêu biểu để làm nổi bật giá trị nội dung và nghệ thuật của
tác phẩm. Hướng dẫn học sinh cách tìm hiểu, phân tích một nhân vật trong tác
phẩm văn học.
8


3.2. Kỹ thuật sử dụng sơ đồ tư duy:
3.2.1. Quy cách chung
Như đã nói ở trên, khối lượng kiến thức mà học sinh phải học mỗi ngày là
rất lớn (đặc biệt là học sinh lớp 12) nhưng quỹ thời gian và sức khỏe có giới hạn.
Mặt khác, xã hội ngày càng đòi hỏi con người sáng tạo. Vậy biện pháp nào giúp
chúng ta giải quyết tình trạng này? Thực tế cho thấy, trong q trình học tập khó
ai có thể nhớ kĩ từng chi tiết, nhớ nguyên văn một cuốn sách hoặc một bài học dài.
Có chăng là con người có thể nhớ một sơ đồ, một hệ thống, một cơng thức chung
nhất nào đó của bài học.
Vấn đề đặt ra là, giáo viên cần cung cấp cho học sinh một phương pháp phù
hợp để học sinh tự học, tự hệ thống kiến thức. Sơ đồ tư duy sẽ đáp ứng tốt yêu cầu
trên. Muốn nắm vững, nhớ sâu, vận dụng sáng tạo học sinh phải cùng giáo viên
tìm tịi, xây dựng hệ thống bài học. Đã qua rồi thời kì đọc – chép, chiếu – chép,
nhìn – chép…Vì vậy, giáo viên hướng dẫn cho học sinh cách thực hiện sơ đồ mô
phỏng kiến thức bài học. Đồng thời, giúp học sinh tư duy, sáng tạo, tận dụng khả
năng ghi nhớ và hồi tưởng những kiến thức đã ghi nhớ. Hay nói cách khác, học
sinh có thể thể hiện nội dung bài học theo cách của mình qua các từ khóa, từ chủ
đề trung tâm đến các ý lớn đến các ý nhỏ. Khác với cách ghi chép thông thường, ở
cách sử dụng màu sắc kích thích trí nhớ và sự hứng thú vì mỗi nhánh có một từ
khóa kèm hình ảnh.

Với một kĩ thuật hình họa có đường nét, có màu sắc có từ ngữ, hình ảnh
được dựa trên sự tưởng tượng và kết nối, bản đồ tư duy giúp chúng ta tự do suy
nghĩ và phát huy tiềm năng sáng tạo của bộ não. Học sinh khơng cịn thụ động
ngồi nghe giáo viên giảng bài rồi ghi bài một cách máy móc mà trái lại các em
sáng tạo ra “tác phẩm” của riêng mình qua sự định hướng, gợi ý của giáo viên.
Ngoài việc dùng bản đồ tư duy trong dạy và học, bản đồ tư duy còn giúp học sinh
nâng cao năng lực tự học, tự kiểm tra.

9


Vì sao phải sử dụng Bản đồ tư duy trong việc dạy, học và hệ thống kiến
thức? Bản đồ tư duy sẽ giúp chúng ta sáng tạo hơn, tiết kiệm thời gian hơn, ghi
nhớ tốt hơn, có thể nhìn thấy bức tranh tổng thể…Khi lập một bản đồ kiến thức,
ngoài việc nhớ và hiểu kiến thức mới còn giúp chúng ta nắm kiến thức sâu, kĩ hơn.
Dùng Bản đồ tư duy để dạy, giáo viên sẽ có một định hướng rõ rệt, một kế hoạch
cụ thể nắm vững và trình bày những nội dung cơ bản một cách đơn giản hơn để
học sinh dễ hiểu, dễ nắm bắt được tính hệ thống và mối quan hệ của những tri thức
mà không rơi vào những chi tiết vụn vặt, thứ yếu hoặc khơng thấy rõ tính hệ thống
của bài học.
3.2.2. Quy trình lập bản đồ tư duy:
Trước hết, chúng ta bắt đầu bằng từ trung tâm với hình ảnh của chủ đề. Sau
đó, nối các nhánh chính (cấp một) đến hình ảnh trung tâm, nối các nhánh cấp hai
đến các nhánh cấp một…bằng các đường kẻ (luôn sử dụng màu sắc vì màu sắc
cũng có tác dụng kích thích não như hình ảnh). Các đường kẻ càng gần hình ảnh
trung tâm càng được tô đậm hơn, dày hơn. Khi chúng ta nối các đường với nhau,
chúng ta có thể hiểu và nhớ nhiều hơn do bộ não chúng ta làm việc bằng sự liên
tưởng. (Các đường ở cùng một cấp độ phải có cùng màu sắc).
- Lưu ý: Mỗi từ hoặc ý nên đứng độc lập và được nằm trên một đường kẻ. Nên
dùng đường kẻ cong thay vì các đường thẳng vì các đường cong được tổ chức rõ

ràng sẽ thu hút được sự chú ý của mắt nhiều hơn. Ngồi ra cần bố trí thơng tin đều
quanh hình ảnh trung tâm.
Hiện nay đã có rất nhiều phần mềm hỗ trợ vẽ bản đồ tư duy trên máy tính.
Khi học sinh học trên lớp, chúng ta chỉ cần hướng dẫn cách vẽ sơ đồ. Các em chỉ
cần dùng bút màu, giấy A4 ….
- Ví dụ: Khi học bài Người lái đị sơng Đà của nhà văn Nguyễn Tn
+ Với phương pháp đặt câu hỏi phát vấn hoặc nêu vấn và giải quyết vấn đề, chúng
ta có thể tìm hiểu từng nội dung theo các đoạn văn bản ở sách giáo khoa.

10


Giáo viên có thể dùng câu hỏi: Đoạn văn “Hùng vĩ của Sông Đà….vừa tắt phụt
đèn điện” miêu tả đá bờ sông như thế nào? Tác giả đã dùng nghệ thuật gì để khắc
họa hình ảnh đó? Hình ảnh đó cịn giúp em hình dung ra điều gì?
Có thể nói, khi giáo viên đặt câu hỏi thì học sinh tìm các chi tiết từ văn bản ở sách
giáo khoa (hoặc học sinh đã soạn trước ở nhà) rồi trả lời câu hỏi.
+ Với phương pháp dùng Bản đồ tư duy, giáo viên cũng có thể phát huy tính tích
cực của học sinh bằng cách sử dụng các câu hỏi, đồng thời giúp học sinh nhớ kĩ và
liên tưởng đến nội dung bài học mà không cần ghi chép quá nhiều. Cũng với đoạn
văn trên, chúng ta có thể dùng câu hỏi: Đoạn văn “Hùng vĩ của Sông Đà….vừa tắt
phụt đèn điện” miêu tả hình ảnh gì của sơng Đà? Hãy tìm một từ miêu tả hình ảnh
ấy? Từ học sinh tìm được sẽ là “đá bờ sơng”. Từ đó học sinh có thể tự tìm những
chi tiết miêu tả đá bờ sông và triển khai theo các cấp độ.
Chúng ta có thể vận dụng Bản đồ tư duy vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới,
củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ơn tập hoặc hệ thống hóa kiến thức sau mỗi
chương, mỗi kì…Trong bài viết này tơi muốn đề cập đến vấn đề giúp học sinh hệ
thống hóa kiến thức bằng Bản đồ tư duy.
IV.


TIẾN TRÌNH THỰC HIỆN.

1.GIỚI THIỆU PHÂN PHỐI CHƯƠNG TRÌNH THEO QUY ĐỊNH – CƠ
SỞ CỦA VIỆC LẬP KẾ HOẠCH HỌC TẬP BỘ MƠN
HỌC KÌ I
Tiết 1,2 Khái quát văn học Việt Nam từ CM tháng Tám 1945 đến hết thế kỉ XX
Tiết 3

Nghị luận về một tư tưởng đạo lí

Tiết 4

Tun ngơn Độc lập (phần một: Tác giả)

Tiết 5

Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt

Tiết 6

Bài viết số 1: Nghị luận xã hội

Tiết 7,8

Tuyên ngôn Độc lập (phần hai: Tác phẩm )

Tiết 10,11 Nguyễn Đình Chiểu, ngơi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc
Tiết 13

Nghị luận về một hiện tượng đời sống

11


Tiết 14

Phong cách ngôn ngữ khoa học

Tiết 15

Trả bài viết số 1, Bài viết số 2 Nghị luận xã hội (bài làm ở nhà)

Tiết 16,17 Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống AIDS, 1-12-2003
Tiết 18

Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ

Tiết 19,20 Tây Tiến
Tiết 21

Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học

Tiết 22

Việt Bắc (phần một: tác giả)

Tiết 23, 30

Luật thơ

Tiết 25,26 Việt Bắc (Phần 2: Tác phẩm)

Tiết 27
Tiết 28,29

Phát biểu theo chủ đề
Đất Nước (trích trường ca Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa

Điềm)
Tiết 31

Thực hành một số phép tu từ ngữ âm

Tiết 32,33 Bài viết số 3: Nghị luận văn học
Tiết 36
Tiết 37,38

Thực hành một số phép tu từ cú pháp
Sóng

Tiết 39 Luyện tập vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt trong bài văn nghị
luận
Tiết 40,41 Đàn ghi ta của Lor-ca
Tiết 42

Luyện tập vận dụng kết hợp các thao tác lập luận

Tiết 43,44 Quá trình văn học và phong cách văn học
Tiết 45

Trả bài viết số 3


Tiết 46,47 Người lái đị Sơng Đà (trích)
Tiết 48

Chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận

Tiết 49,50 Ai đã đặt tên cho dịng sơng (trích)
Tiết 52

Thực hành chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận

Tiết 53,54 Bài viết số 4
HỌC KÌ II

12


Tiết 55,56 Vợ chồng A Phủ (trích)
Tiết 57,58 Bài viết số 5: Nghị luận văn học
Tiết 60,61,62

Vợ nhặt

Tiết 63

Nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xi

Tiết 64,65,66

Rừng xà nu


Tiết 67,68

Những đứa con trong gia đình

Tiết 69

Trả bài viết số 5 - Bài viết số 6: Nghị luận văn học (học sinh làm ở

nhà)
Tiết 70,71

Chiếc thuyền ngoài xa

Tiết 72

Thực hành về hàm ý

Tiết 76,77

Thuốc

Tiết 78

Rèn luyện kĩ năng mở bài, kết bài trong bài văn nghị luận

Tiết 79,80

Số phận con người (trích)

Tiết 82,83


Ơng già và biển cả (trích)

Tiết 84

Diễn đạt trong văn nghị luận

Tiết 85,86,87

Hồn Trương Ba, da hàng thịt (trích)

Tiết 89,90

Nhìn về vốn văn hóa dân tộc

Tiết 91

Phát biểu tự do

Tiết 92,93

Phong cách ngơn ngữ hành chính

Tiết 94

Văn bản tổng kết

Tiết 95,96

Tổng kết phần Tiếng Việt: Hoạt động giao tiếp bằng ngơn ngữ


Tiết 97

Ơn tập phần Làm văn

Tiết 98,99

Giá trị văn học và tiếp nhận văn học

Tiết 101,102

Ôn tập phần văn học

2. HƯỚNG DẪN HỌC SINH LẬP KẾ HOẠCH HỌC TẬP BỘ MÔN
NGỮ VĂN 12
Xác định những kiến thức cơ bản cần đạt trong từng học kỳ, tháng.
13


Học kỳ 1:
+ Kiến thức: Đọc – hiểu 5 văn bản thuộc thể loại thơ (Tây Tiến, Việt Bắc,
Đất Nước, Sóng, Đàn Ghi ta của Lor-ca) và 2 văn bản văn xi (người lái đị
Sơng Đà, Ai đã đặt tên cho dịng sơng?)
+ Làm văn: Rèn luyện kỹ năng làm văn nghị luận xã hội (về một hiện tượng
đời sống và một tư tưởng đạo lý), kỹ năng làm văn nghị luận văn học (về một
bài thơ, đoạn thơ )
+ Tiếng Việt: Giữ gìn sự trong sáng của TV và phong cách ngôn ngữ, phép
tu từ cú pháp.
Học kỳ 2:
+ Kiến thức : Đọc – hiểu các tác phẩm văn xuôi (Vợ chồng A Phủ, Vợ nhặt,

Rừng xà nu, Những đứa con trong gia đình, Chiếc thuyền ngồi xa, Hồn
Trương Ba, da hàng thịt )
+ Làm văn : Rèn luyện kỹ năng phân tích tác phẩm, đoạn trích văn xi, kỹ
năng phân tích nhân vật.
+ Tiếng Việt : Hàm ý, phong cách ngơn ngữ hành chính.
Đối với những HS có hướng thi đại học Khối C, D : Nội dung ôn tập phải bao gồm
cả chương trình văn học lớp 11. Cách làm bài cho dạng đề thi đại học.
3. MỘT SỐ MINH HOẠ CỤ THỂ
3.1. Tác phẩm Người lái đị sơng Đà của Nguyễn Tn
Lớp 12, học sinh được tiếp cận tác phẩm Người lái đị sơng Đà - Vẫn lối viết
tài hoa nghệ sĩ, song đối tượng không cịn thuộc tầng lớp đài các “vang bóng một
thời” nữa mà là những người lao động bình thường – chất “vàng mười của Tây
Bắc”. Để tôn lên vẻ đẹp của người lao động trên sông nước, Nguyễn Tuân đã xây
dựng thành cơng hình tượng con sơng Đà với hai nét tính cách nổi bật. Khi giáo
viên triển khai tiết học, bằng phương pháp này hay phương pháp khác, học sinh
cũng nắm được những nội dung cơ bản của bài học. Khi tiến hành ơn tập hoặc hệ
thống hóa kiến thức, giáo viên yêu cầu học sinh lên bảng triển khai theo sơ đồ tư

14


duy. Có thể kèm theo câu hỏi giúp học sinh định hướng đúng các ý chính cần trả
lời.
Ví dụ: Trong tùy bút Người lái đị sơng Đà, Nguyễn Tn đã xây dựng những
hình tượng nhân vật nào? Hình tượng nhân vật ấy được thể hiện ra sao? Nhóm 1
trình bày hình tượng con sơng Đà, nhóm 2 trình bày hình tượng người lái đị.
Con sơng Đà trên trang viết của Nguyễn Tuân hiện lên như một “nhân vật” với hai
nét tính cách trái ngược.
Người lái đị đã chinh phục được con sông hung bạo dữ dằn nhờ sự ngoan cường,
dũng cảm và kinh nghiệm sơng nước.

Sau khi 2 nhóm trình bày lên bảng, giáo viên gọi học sinh dưới lớp nhận xét,
bổ sung để hoàn thiện Bản đồ tư duy về kiến thức bài học đó.
Như đã giới thiệu ở trên, chúng ta cũng có thể dùng cách chia nhỏ nội dung
bài học để học sinh nắm vững kiến thức từng phần. Ví dụ như cũng yêu cầu học
sinh vẽ Bản đồ tư duy tái hiện hai hình tượng cơ bản trong tác phẩm Người lái đị
sơng Đà, nhưng giáo viên yêu cầu 4 nhóm làm việc độc lập:
+ Nhóm 1: tái hiện hình tượng con sơng Đà hung bạo, dữ dằn.
+ Nhóm 2: tái hiện hình tượng con sơng Đà thơ mộng, trữ tình.
+ Nhóm 3: tái hiện hình tượng ơng lái đị với sự ngoan cường dũng cảm và kinh
nghiệm sơng nước.
+ Nhóm 4: tái hiện hình tượng ơng lái đị với vẻ đẹp bình dị và tài hoa.
Lưu ý: Mỗi học sinh trong nhóm phải có trách nhiệm hồn thiện một nhánh của
Bản đồ tư duy.
Ví dụ: Ở nhóm 1, học sinh thứ nhất trình bày lên Bản đồ hình ảnh “đá bờ sơng”,
học sinh thứ hai trình bày “những cái hút nước”… cứ như vậy tất cả các học sinh
trong các nhóm đều tích cực làm việc, đều thể hiện được dấu ấn của mình trong
Bản đồ tư duy tái hiện kiến thức bài học. Với cách làm này, chúng ta khắc phục

15


được tình trạng một số học sinh ỉ lại, lười biếng hoặc phó thác hết trách nhiệm cho
nhóm trưởng.
Trong các tiết hệ thống kiến thức, giáo viên cần yêu cầu học sinh tích cực tham gia
xây dựng bản đồ. Có như vậy học sinh mới phát huy được tính tích cực và sáng tạo
của mình. Khi trình bày xong bản đồ cũng là lúc học sinh hiểu kĩ và khắc sâu kiến
thức đã học.
Để làm được điều này, giáo viên phải nhắc nhở học sinh nắm kĩ nội dung
của bài học. Giáo viên cũng phải hướng dẫn cho học sinh cách trình bày. Từ Bản
đồ tư duy các em đã thực hiện, học sinh phải lên bảng thuyết trình nội dung bài

học.
3.2. Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
Nhắc đến Nguyễn Minh Châu, người đọc nhớ ngay đến “hạt ngọc ẩn giấu
trong tâm hồn” trong các sáng tác của ông qua nhân vật Nguyệt trong “Mảnh trăng
cuối rừng”. Đến “Chiếc thuyền ngoài xa”, ta lại bắt gặp hạt ngọc trong lấm láp
bùn đất, lam lũ đời thường ở người đàn bà hàng chài trong. Cũng cách gọi phiếm
chỉ như ơng lái đị trong tác phẩm Người lái đị sơng Đà của Nguyễn Tn, người
đàn bà hàng chài đã để lại ấn tượng mạnh với người đọc như một sự ám ảnh.
Nhân vật người đàn bà khiến ta nhớ đến Thị Nở (Chí Phèo – Nam Cao), hay
nhân vật thị (Vợ nhặt – Kim Lân). Khơng phải vì vẻ bề ngồi do sự bất cơng của
tạo hóa, vì nỗi bất hạnh khi họ phải gánh chịu mà có lẽ là vì sự cảm thơng của họ
dành cho người khác, vì vẻ đẹp tâm hồn đáng trân trọng – dù sự trân trọng ấy có
chút gì khiến ta khơng khỏi nghẹn lòng.
Dõi theo lời kể của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, người đọc đi từ ngạc nhiên này
đến ngạc nhiên khác. Mở đầu là một “cảnh đắt trời cho”, tơi hiểu được cảm giác
chống ngợp tâm hồn bởi anh phát hiện được một khung cảnh tồn bích. Anh đang
sống trong sự sung sướng – sự sung sướng của món ăn tinh thần chứ không thuộc
về thể xác. Ấy vậy mà ngay lúc ấy, anh phải chứng kiến cảnh tượng tàn bạo như sự
trêu đùa của tạo hóa. Một cảnh bạo hành dã man diễn ra ngay trước mắt. Lúc này
16


khơng biết có ai đã từng nghĩ: người đàn bà kia là kẻ thù? Người đàn kia đã phạm
phải một tội lỗi không thể dung tha? Nguyễn Minh Châu đã quá khéo khi đặt ra
một tình huống truyện độc đáo làm người đọc nhấp nhổm, đứng ngồi khơng n.
Phải tìm hiểu tiếp câu chuyện để tìm lời giải đáp cho những thắc mắc trên.
Đến tòa án Huyện, người đọc như nhìn thấy vẻ mặt lo lắng, bối rối của
người đàn bà hàng chài. Sao không nghe thấy bà ta kể tội chồng mình như những
người đàn bà bị chồng đánh khác? Hay bà bị một sự đe dọa nào đó? Được khuyên
bỏ chồng, người đàn bà từ chối bằng một hành động khó hiểu “con lạy q tịa”,

“q tịa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…”.
Chính lúc này, người trực tiếp chứng kiến câu chuyện hay người gián tiếp nghe kể
như chúng ta đều cảm thấy khó hiểu, một cảm giác bất ngờ, khó chịu và bức xúc.
Từ trong lời kể của bà toát lên một nỗi đau, một sự cam chịu, một sự hi sinh vô bờ
bến. Lúc đầu, chúng ta nghĩ rằng người đàn bà nghèo khổ kia phải biết ơn nghệ sĩ
nhiếp ảnh Phùng và chánh án Đẩu. Nhưng khơng! Chính Phùng và Đẩu phải thầm
cảm ơn vì sự sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời cuả người mẹ nghèo khổ. Một người mẹ
ln sống vì con. Thậm chí đến niềm vui của bà cũng nhờ có các con “vui nhất là
khi ngồi nhìn đàn con tơi chúng được ăn no”.
Khi học tác phẩm này ở nội dung câu chuyện ở tịa án Huyện, giáo viên có
thể kết hợp nhiều phương pháp như thảo luận, nêu vấn đề, nêu giả thuyết…
+ Nếu em là người đàn bà hàng chài, em sẽ hành xử như thế nào?
+ Em có đồng tình với cách hành xử của bà khơng? Vì sao?
+ Giáo viên có thể cho học sinh thảo luận nhóm (hướng học sinh đến câu trả lời
thể hiện rõ nhất phẩm chất đáng trân trọng của bà.)
Khi ôn tập, giáo viên yêu cầu học sinh lên bảng lập sơ đồ tư duy về lí do
khơng bỏ chồng của người đàn bà, từ đó chúng ta có thể nhận ra những phẩm chất
tốt đẹp, đáng trân trọng của hình tượng nhân vật này. Đồng thời, học sinh hiểu rõ
hơn thông điệp mà nhà văn gửi gắm qua câu chuyện.

17


THIẾT KẾ GIÁO ÁN
TIẾT 70-71 : Đọc văn :

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
Nguyễn Minh Châu
I/ MỤC TIÊU BÀI HỌC
1. Kiến thức:

Thấy được những chiêm nghiệm sâu sắc của nhà văn về cuộc sống và con
người một cách đa chiều, nghệ thuật chân chính ln gắn với cuộc đời, vì cuộc đời.
Thấy được nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm: tình huống truyện độc đáo,
mang ý nghĩa khái quát, phát hiện về đời sống, điểm nhìn nghệ thuật đa chiều, lời
văn giản dị mà sâu sắc, dư ba.
2. Kĩ năng: Đọc hiểu truyện ngắn hiện đại.
3. Thái độ: lên án nạn bạo hành gia đình trong xã hội hiện đại ngày nay.
II PHƯƠNG TIỆN THỰC HIỆN
- Giáo viên: SGK, TLTK, thiết kế bài giảng
- Học sinh: Soạn bài theo câu hỏi
III/ TIẾN TRÌNH BÀI HỌC
1/ Ổn định tổ chức
2/ Kiểm tra bài cũ
3/ Bài mới
Hoạt động của

Nội dung cần đạt

giao viên và học sinh

Hoạt động 1: Tổ chức

I. TÌM HIỂU CHUNG

tìm hiểu chung

1. Tác giả

1. HS Đọc mục Tiểu dẫn


- Nguyễn Minh Châu (1930- 1989), quê ở làng Thơi, xã

và tóm tắt những nét Quỳnh Hải (nay là xã Sơn Hải), huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ
chính về tác giả, kể tên An. Ông “thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh
những sáng tác tiêu biểu và tài năng nhất của văn học ta hiện nay"
của Nguyễn Minh Châu.

- Sau 1975, khi văn chương chuyển hướng khám phá trở về
18


với đời thường, Nguyễn Minh Châu là một trong số những
nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám phá sự
thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Tâm điểm những
khám phá nghệ thụât của ông là con người trong cuộc mưu
sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tiền hạnh phúc và
2. HS Đọc mục Tiểu dẫn hồn thiện nhân cách.
và tóm tắt những nét

- Tác phẩm chính (SGK)

chính về tác phẩm Chiếc

2. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngồi xa

thuyền ngồi xa.

- Tóm tắt tác phẩm (HS tự tóm tắt)
- Truyện in đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn
Minh Châu, rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc


GV tổ chức cho HS đọc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai.
văn bản, tóm tắt và chia
đoạn.

- Truyện ngắn lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985),
sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện

HS trên cơ sở đọc ở nhà, ngắn (in năm 1987).
trình bày tóm tắt, chia

- Bố cục

đoạn.

- Truyện chia làm 2 phần lớn:
+ Phần 1: (Từ đầu đến “chiếc thuyền lới vó đã biết mất").
Hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh.
+ Phần 2: (Còn lại): Câu chuyện của người đàn bà làng
chài.

Hoạt động 2: Tổ chức

II. ĐỌC- HIỂU

Đọc- hiểu văn bản

1. Hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh:

GV nêu câu hỏi và tổ

chức cho HS thảo luận:
Phát hiện thứ nhất của

a. Phát hiện thứ nhất đầy thơ mộng của người nghệ sĩ
nhiếp ảnh
- "Trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu .... tơi tưởng

người nghệ sĩ nhiếp ảnh là chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự hồn thiện,
phát hiện đầy thơ mộng. khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn".
Anh (chị) cảm nhận như

- Đôi mắt tinh tường, "nhà nghề” của người nghệ sĩ đã phát
19


thế nào về vẻ đẹp của hiện vẻ đẹp “trời cho” trên mặt biển mờ sương, vẻ đẹp mà cả
chiếc thuyền ngoài xa trên đời bấm máy anh chỉ gặp một lần. Người nghệ sĩ cảm thấy
biển sớm mù sương mà hạnh phúc - đó là niềm hạnh phúc của khám phá và sáng tạo,
người nghệ sĩ chụp được?

của sự cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu . Trong hình ảnh chiếc

HS thảo luận, cử đại diện thuyền ngoài xa giữa biển trời mờ sương, anh đã cảm nhận
trình bày trước lớp.

cái đẹp tồn bích, hài hồ, lãng mạn của cuộc đời, thấy tâm
hồn mình được thanh lọc.
b. Phát hiện thứ hai đầy nghịch lí của người nghệ sĩ

GV nêu câu hỏi và tổ nhiếp ảnh

chức cho HS thảo luận:

- Người nghệ sĩ đã tận mắt chứng kiến: từ chiếc thuyền ngư

Phát hiện thứ hai của phủ đẹp như trong mơ bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt
người nghệ sĩ nhiếp ảnh mỏi và cam chịu; một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn, độc ác,
mang đầy nghịch lí. Anh coi việc đánh vợ như một phương cách để giải toả những uất
đã chứng kiến và có thái ức, khổ đau... Đây là hình ảnh đằng sau cái đẹp “tồn bích,
độ như thế nào trước tồn thiện” mà anh vừa bắt gặp trên biển. Nó hiện ra bất ngờ,
những gì diễn ra ở gia trớ trêu như trị đùa quái ác của cuộc sống.
đình thuyền chài.
HS thảo luận, phát biểu.

- Chứng kiến cảnh 1 đứa con đánh lại bố nó để bảo vệ mẹ
nó.
=> Chứng kiến cảnh người đàn ông đánh vợ một cách vô lí
và thô bạo, Phùng đã “kinh ngạc đến mức, trong mấy phút
đầu .... vứt chiếc máy ảnh xuống đất, chạy nhào tới”. Hành
động đó nói lên nhiều điều.
* Ý nghĩa của 2 phát hiện:
- Cuộc đời không phải lúc nào cũng đẹp, cũng thi vị. Vẫn
có những nghịch lí, những cảnh đời éo le bên cạnh những gì
người ta vẫn cho là tồn bích.
- Người nghệ sĩ hay mỗi chúng ta, khi nhìn cuộc đời,
khơng chỉ nhìn bằng cái nhìn thi vị hóa mà phải nhìn nhận từ
nhiều phương diện, nhìn sâu vào bản chất bên trong của sự
20


vật hiện tượng.

- Trước nghịch lí cuộc đời, mỗi người cần có hành động
thiết thực để thay đổi nó. Đặc biệt là với người nghệ sĩ, nếu
không, thứ nghệ thuật mà họ tạo ra cũng đáng vứt bỏ như
GV nêu câu hỏi: Câu chiếc máy ảnh của nghệ sĩ Phùng.
chuyện của người đàn bà

2. Câu chuyện của của người đàn bà ở tồ án huyện

ở tồ án huyện nói lên

Là câu chuyện về sự thật cuộc đời, nó giúp những người

điều gì?

như Phùng, Đẩu hiểu rõ nguyên do của những điều tưởng

HS thảo luận nhóm, cử như vơ lí. Nhìn bề ngồi, đó là người đàn bàn q nhẫn nhục,
đại diện trình bày.

cam chịu, bị đánh đập... mà vẫn nhất quyết gắn bó với lão
chồng vũ phu. Nhưng tất cả đều xuất phát từ tình thương vơ
bờ đối với những đứa con. Trong đau khổ triền miên, người

S nêu cảm nghĩ về các đàn bà ấy vẫn chắt lọc những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi....
nhân vật: người đàn bà

Qua câu chuyện của người đàn bà làng chài, tác giả giúp

vùng biển, lão đàn ông người đọc hiểu rõ: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn
độc ác, chị em thằng nhận mọi sự việc, hiện tượng của đời sống.

Phác, người nghệ sĩ nhiếp

3. Về các nhân vật trong truyện

ảnh.

- Về người đàn bà vùng biển:
+ Tác giả gọi một cách phiếm định “người đàn bà”. Điều
tác giả gây ấn tượng chính là số phận của chị.
+ Ngoại hình: Ngồi 40, thô kệch, mặt rỗ, xuất hiện với
“khuôn mặt mệt mỏi”, người đàn bà gợi ấn tượng về một
cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, nhiều cay đắng.
- Phẩm chất:
+ Bà thầm lặng nhẫn nhục, chịu mọi đau đớn khi bị chồng
đánh không kêu một tiếng, không chống trả, không trốn
chạy=> nghị lực sống mãnh liệt.
+ “tình thương con cũng như nỗi đau, sự thâm trầm trong
cái việc hiểu thấu các lẽ đời hình như mụ chẳng để lộ ra bên
21


(HS

làm việc cá nhân, ngồi”....bà khơng muốn những đứa con biết mình bị chồng

phát biểu trước lớp)

đánh, bà xót xa trước cảnh đứa con đánh lại bố nó…
+ Sắc sảo, giàu lòng tự trọng.
=> Một sự cam chịu đáng chia sẻ, cảm thơng. Thấp thống

trong người đàn bà ấy là bóng dáng bao người phụ nữ Việt
Nam nhân hậu, bao dung, giàu lịng vị tha.

Gợi ý: Về người đàn ơng

- Về người đàn ơng độc ác: Cuộc sống đói nghèo đã biến

độc ác? Từ các chi tiết để “anh con trai” cục tính nhưng hiền lành xưa kia thành một
làm rõ.

người chồng vũ phu. Lão đàn ơng “mái tóc tổ quạ”, “chân
chữ bát”, “hai con mắt đầy vẻ độc dữ vừa là nạn người của
cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ
cho người thân của mình. Phải làm sao để nâng cao cái phần
thiện, cái phần người trong những kẻ thô bạo ấy.

Về chị em thằng Phác?chi
tiết nào thể hiện rõ?

- Chị em thằng Phác: Bị đẩy vào tình thế khó xử khi ở
trong hồn cảnh ấy. Chị thằng Phác, một cô bé yếu ớt mà can

Suy nghĩ về người nghệ sĩ đảm, đã phải vật lộn để tước con dao trên tay thằng em trai,
nhiếp ảnh

ngăn em làm việc trái luân thường đạo lí. Cô bé là điểm tựa
vững chắc của người mẹ đáng thương, cô đã hành động đúng
khi cản được việc làm dại dột của đứa em, lại biết chăm sóc,
lo toan khi mẹ phải đến toà án huyện. Thằng Phác thương mẹ
theo kiểu một cậu bé con còn nhỏ, theo cái cách một đứa con

trai vùng biển. Nó “lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên
khn mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt
chứa đầy trong những nốt rỗ chặng chịt”, “nó tuyên bố với
các bác ở xưởng đóng thuyền rằng nó cịn có mặt ở dưới biển
này thì mẹ nó khơng bị đánh”. Hình ảnh thằng Phác khiến
người đọc cảm động bởi tình thương mẹ dạt dào.
- Người nghệ sĩ nhiếp ảnh:
+ Vốn là người lính thường vào sinh ra tử, Phùng căm ghét
22


mọi sự áp bức, bất công, sẵn sàng làm tất cả vì điều thiện, lẽ
cơng bằng.
+ Tâm hồn tinh tế: Anh xúc động ngỡ ngàng trước vẻ đẹp
tinh khôi của thuyền biển lúc bình minh. Một người nhạy
cảm như anh tránh sao khỏi nỗi tức giận khi phát hiện ra sự
bạo hành của cái xấu, cái ác ngay sau cảnh đẹp huyền ảo trên
biển...
+Hơn bao giờ hết, Phùng hiểu rõ: trước khi là một nghệ sĩ
biết rung động trước cái đẹp, hãy làm ột người biết yêu ghét
vui buồn trước mọi lẽ đời thường tình, biết hành động để có
GV tổ chức cho HS tìm một cuộc sống xứng đáng với con người.
hiểu cốt truyện:

4. Cách xây dựng cốt truyện độc đáo

Cách xây dựng cốt truyện

Trong tác phẩm, đó là sự kiện Phùng chứng kiến lão đàn


của Nguyễn Minh Châu ông đánh vợ một cách tàn bạo. Trước đó, anh nhìn đời bằng
trong tác phẩm này có gì con mắt của người nghệ sĩ rung động, say mê trước vẻ đẹp
độc đáo?

huyền ảo- thơ mộng của thuyền biển. Trong giây phút tâm

HS tiến hành:

hồn thăng hoa những cảm xúc lãng mạn, Phùng phát hiện ra

a) Tóm tắt lại tình huống.

hiện thực nghiệt ngã của đôi vợ chồng bước ra từ con thuyền

b) Bình luận về ý nghĩa “thơ mộng” đó.
của tình huống

Tình huống đó được lặp lại lần nữa: bên cạnh hình ảnh
người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng “địn chồng”, Phùng còn
được chứng kiến phản ứng của chị em thằng Phác trước sự
hung bạo của cha đối với mẹ. Từ đó, trong người nghệ sĩ đã
có sự thay đổi cách nhìn đời. Anh thấy rõ những cái ngang
trái trong gia đình thuyền chài, hiểu sâu thêm tính chất người
đàn bà, chị em thằng Phác, hiểu thêm người đồng đội (Đầu)
và hiểu thêm chính mình.

HS nhận xét về ngơn ngữ

Ý nghĩa: Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được tình huống


nghệ thuật của tác phẩm mà ở đó bộc lộ mọi mối quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử, thử
23


trên hai phương diện:

thách phẩm chất, tính cách, tạo ra những bước ngoặt trong tư

a) Về ngôn ngữ người kể tưởng, tình cảm và cả trong cuộc đời nhân vật. Tình huống
chuyện?
b) Về ngơn ngữ nhân vật?

truyện mang ý nghĩa khám phá, phát hiện đời sống
5. Ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm
- Ngôn ngữ người kể chuyện: Thể hiện qua nhân vật
Phùng, sự hóa thân của tác giả. Chọn người kể chuyện như
thế đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường
khả năng khám phá đời sống, lời kể trở nên khách quan, chân
thật, giàu sức thuyết phục.
- Ngôn ngữ nhân vật: Phù hợp với đặc điểm tính cách của
từng người.

Hoạt động 3: Tổ chức

III. TỔNG KẾT

tổng kết

Vẻ đẹp của ngòi bút Nguyễn Minh Châu là vẻ đẹp toát ra


GV tổ chức cho HS tự từ tình yêu tha thiết đối với con người. Tình yêu ấy bao hàm
đánh giá một cách tổng cả khát vọng tìm kiếm, phát hiện, tơn vinh những vẻ đẹp con
qt giá trị của tác phẩm.

người còn tiềm ẩn, những khắc khoải, lo âu trước cái xấu, cái
ác. Đó cũng là vẻ đẹp của một cốt cách nghệ sĩ mẫn cảm, đôn
hậu, điềm đạm chiêm nghiệm lẽ đời để rút ra những triết lí
nhân sinh sâu sắc. Chiếc thuyền ngồi xa là một trong số rất
nhiều tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đã đặt ra những vấn
đề có ý nghĩa với mọi thời, mọi người.

V. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
Sau hai năm kiên trì sử dụng kĩ thuật dạy học tích cực trong các giờ đọc hiểu văn bản văn học, tơi nhận thấy khơng khí các giờ học được cải thiện đáng kể.
Số lượng học sinh xung phong phát biểu xây dựng bài cũng như số học sinh trả lời
được câu hỏi do giáo viên nêu ra ngày càng nhiều hơn. Một số em thì thực sự thích
học mơn Ngữ Văn.
Đặc biệt, qua việc xây dựng và lập kế hoạch trong khi ôn tập củng cố lại
kiến thức, khả năng nắm bắt và kiến thức về tác phẩm của nhiều học sinh được mở
24


rộng, khắc sâu. Nhờ thế, các em có vốn liếng văn học nhất định để làm tốt các bài
nghị luận văn học. Điểm số của các bài Làm văn cũng như điểm số môn Ngữ Văn
của các em được cải thiện đáng kể. Ở các lớp tôi phụ trách, tỷ lệ học sinh có điểm
kiểm tra học kỳ cũng như điểm tổng kết mơn Văn trên trung bình đạt từ 85% trở
lên. Trong đó, điểm khá giỏi của bài kiểm tra học kỳ tăng từ 32,3% lên 46.7%, tỷ
lệ khá giỏi trong điểm trung bình cả năm mơn Văn tăng từ 21.6% lên 32.5%. Và sự
hứng thú của các em đối với môn học cũng được cải thiện đáng kể. Kết quả cụ thể
như sau:
Kết quả giờ đọc văn

Trước khi thực nghiệm:

Lớp

Không



hiểu bài

số

Số
lượn

%

g
12A11 48
7
14,5
12A12 50
1
2
Sau khi thực nghiệm:

Lớp

Không



số

12A11 48
12A12 50

hiểu bài
Số
lượng
2
0

%
4.2
0

Hiểu bài
Số

%

lượng
30
38

62,5
76

Hiểu bài
Số

lượng
36
40

%
75
80

Không

Hứng thú

hứng thú
Số
lượng
5
1

%
10,4
2

Không
hứng thú
Số
lượng
2
0

%

4.2
0

Số

%

lượng
5
8

10,4
16

Hứng thú
Số

%

lượng
8
10

16.6
20

Kết quả chất lượng kiểm tra
1. Năm học 2011- 2012 (Lớp: 12A11 và 12A12)
Số lượng và tỷ lệ
điểm trên trung

Bài KT học kỳ I
Bài KT học kỳ II

bình trở lên
62/87
71.26%
70/87
80.45%

Trong đó, tỷ lệ
điểm khá, giỏi
20/62 (32.3%)
26/70 (37.1%)

Ghi chú
Tổng số học sinh:
98
25


×