Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Một số kinh nghiệm trong giảng dạy Từ ngữ trong truyện ngắn của Thạch Lam ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.17 KB, 23 trang )

Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Thạch Lam là một nhà văn có vị trí đáng kể trong văn học Việt
Nam giai đoạn 1932-1945. Là một trong những cây bút chủ chốt của Tự lực
văn đoàn, nhưng ông đã chọn cho mình một hướng riêng, hướng đi ấy thể
hiện bản lĩnh, cá tính của một cây bút giàu chất nhân văn và đậm tính dân tộc,
một tâm hồn nhạy cảm, một văn phong trong sáng và tinh tế. Thạch Lam
không ưa sự ồn ào, hào nhoáng, mà thiên về kín đáo, bình dị. Ông mơ tới một
xã hội có nhiều “công bằng và thương yêu” và muốn đạt tới điều đó không
phải bằng hành động của một nhà cải cách xã hội mà bằng thiên chức của một
nhà văn thuần tuý, luôn khát khao vươn tới sự hoàn thiện của cái đẹp Chân -
Thiện - Mỹ. Thạch Lam đã sống một đời văn quá ngắn ngủi, nhưng những tác
phẩm văn chương của ông chắc chắn sẽ có sức sống dài lâu, bởi ở đó, độc giả
không chỉ nhìn thấy những vẻ đẹp hình thức, mà còn tìm thấy bóng dáng đời
sống tinh thần, đời sống nội tâm phong phú của chính mình.
1.2. Tuy sáng tác ở nhiều thể loại khác nhau, nhưng nhắc đến Thạch
Lam, người ta nghĩ ngay đến hai thể loại đã in đậm dấu ấn riêng ông trong
sáng tạo là truyện ngắn và tùy bút. Cùng với Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Thạch
Lam đã tạo nên một dòng truyện ngắn mang phong cách riêng: dòng truyện
ngắn trữ tình, làm phong phú thêm diện mạo của văn xuôi hiện đại nước nhà.
Người ta xem Thạch Lam là một trong những bậc thầy của truyện ngắn Việt
Nam hiện đại.
1.3. Có nhiều con đường tiếp cận giá trị truyện ngắn của Thạch Lam.
Nhà văn học sử nhìn thấy vị trí của truyện ngắn Thạch Lam trong sự nghiệp
của ông nói riêng và bức tranh văn học Việt Nam hiện đại nói chung. Nhà lý
luận văn học đánh giá những đóng góp của Thạch Lam cho thi pháp thể
loại Bên cạnh những phương pháp nghiên cứu quen thuộc ấy, lối tiếp cận
truyện ngắn Thạch Lam từ góc nhìn ngôn ngữ cũng là một hướng đầy triển
GVTH: HỒ THỊ THẾ Page 1
TỪ NGỮ TRONG TRUYÊN NGẮN CỦA THẠCH LAM


vọng thì việc tìm hiểu, đánh giá mặt hình thức, trong đó có ngôn ngữ của một
cây bút như Thạch Lam là việc làm cần thiết.
Thành công về mặt ngôn ngữ của một cây bút truyện ngắn có thể biểu
hiện ở mọi cấp độ, ở mọi lớp ngôn từ, trong đó, vấn đề từ ngữ là những
phương diện nổi
bật. Thạch Lam cũng không phải là một ngoại lệ. Đi sâu vào phương
diện đó trong truyện ngắn Thạch Lam, chắc chắn chúng ta sẽ bắt gặp quan
niệm về cái đẹp trong ngôn từ nghệ thuật, cách xử lí mang màu sắc của một
phong cách. Và từ đó, ta có cơ sở để đánh giá không chỉ một quan niệm thẩm
mĩ, một phong cách ngôn ngữ, mà cả những đóng góp của ông cho ngôn ngữ
nghệ thuật hiện đại.
Đó là những lí do thúc đầy tôi chọn vấn đề “Một số kinh nghiệm trong
giảng dạy Từ ngữ trong truyện ngắn của Thạch Lam ở trường THPT”
Tiểu luận chọn khảo sát tập truyện ngắn “Nắng trong vườn" được in
trong Tuyển tập Thạch lam văn và đời do Tân Chi tuyển, soạn (1999), Nxb
Hà Nội và Thạch Lam tuyển tập năm 2004, Nxb Văn học và ứng dụng giảng
dạy tác phẩm “Hai đứa trẻ” – SGK Ngữ văn lớp 11 tập I – NXB Giáo Dục và
Đào tạo.
2. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài, tôi sẽ sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau
đây:
- Phương pháp thống kê và phân loại;
- Phương pháp so sánh đối chiếu;
- Phương pháp tổng hợp
GVTH: HỒ THỊ THẾ Page 2
TỪ NGỮ TRONG TRUYÊN NGẮN CỦA THẠCH LAM
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
TỪ NGỮ TRONG TRUYỆN NGẮN THẠCH LAM
1.Truyện ngắn trong văn nghiệp của Thạch Lam

Sự nghiệp văn chương của Thạch Lam tuy không dài nhưng ông cũng
đã thử ngòi bút của mình ở rất nhiều thể loại và ông chỉ thực sự thành công ở
thể loại truyện ngắn và được đánh giá là “cây bút truyện ngắn biệt tài”, ở chỗ
mà người khác dùng tư tưởng, dùng lời nói có khi rất đậm để tả cảnh, tả tình,
ông chỉ nói, nói một cách rất giản dị cái cảm giác của ông. Tên tuổi của Thạch
Lam gắn liền với thể loại truyện ngắn ngay từ khi tập truyện ngắn Gió đầu
mùa ra đời. Tập truyện đầu tay và cũng là tập truyện ngắn gây tiếng vang
trong lòng độc giả và tất cả những người yêu mến văn chương Thạch Lam lúc
bấy giờ. Thạch Lam cùng với truyện ngắn đã góp phần khẳng định và đưa nền
văn học hiện đại nước nhà tiến lên một tầm cao mới và truyện ngắn cũng từ
đây mà gần gũi với người đọc.
Thạch Lam bước vào văn đàn từ những năm 30 của thế kỷ, nhưng xuất
hiện với tư cách truyện ngắn từ thời kỳ Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936-
1939). Phong trào quần chúng rộng rãi này có tác động hoàn toàn giống nhau
đối với các cây bút văn xuôi của nhóm Tự lực văn đoàn. Nhưng Thạch Lam
không khẳng định mình bằng những tiểu thuyết dài, Ông xuất hiện với phong
cách truyện ngắn đặc sắc và tiêu biểu trong Tự lực văn đoàn cũng như trong
nền văn học Việt Nam, tính đến thời đại ông. Trong văn học nước ta, các nhà
phê bình thường đồng ý là Thạch Lam - cây bút tự lực đã đưa thể loại truyện
ngắn đến độ nghệ thuật cao hơn cả. Trước hết xét về mặt khối lượng tác
phẩm, truyện ngắn là thể loại được ông viết nhiều nhất trong toàn bộ sự
nghiệp sáng tác của mình.
Truyện ngắn cũng là thể loại thể hiện được phong cách ngôn ngữ trong
sáng tác của Thạch Lam. Phong cách ấy - như nhiều nhà nghiên cứu phê bình
GVTH: HỒ THỊ THẾ Page 3
TỪ NGỮ TRONG TRUYÊN NGẮN CỦA THẠCH LAM
nhận xét - giàu tính trữ tình, đậm chất thơ, không cầu kì, rườm rà, ngược lại,
hết sức giản dị. Đặc biệt, ngôn ngữ truyện ngắn Thạch Lam rất hiện đại. Hơn
nửa thế kỉ đọc lại vẫn thấy mới mẻ như ngôn từ nghệ thuật của ngày hôm nay.
2. Từ ngữ trong truyện ngắn Thạch Lam

2.1 Khái niệm từ
Cho đến nay, trong ngôn ngữ học, các định nghĩa về từ đã được đưa ra
không ít. Các định nghĩa ấy, ở mặt này hay mặt khác đều đúng nhưng đều
không đủ và không bao gồm hết được tất cả các sự kiện được coi là từ trong
ngôn ngữ và ngay cả trong ngôn ngữ cũng vậy. Chẳng hạn: Từ là một tổ hợp
âm có nghĩa chăng? Từ là một tổ hợp các âm phản ánh khái niệm chăng?
Tất cả là những câu hỏi đã từng được đặt ra nhưng chưa có câu trả lời xác
đáng.
"Từ là đơn vị cụ thể của ngôn ngữ. Khi nói đến một ngôn ngữ là phải
nghĩ ngay đến từ vì ngôn ngữ mà không có từ thì không tồn tại được. Với tư
cách là một công cụ giao tiếp, trước hết, ngôn ngữ phải là một công cụ bằng
từ".
"Từ là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất, có ý nghĩa độc lập trong lời nói,
nghĩa của nó được vận dụng một cách tự do theo qui luật kết hợp của ngữ
pháp".
Mặc dù chưa đạt được sự đồng thuận hoàn toàn, nhưng những cách
hiểu về bản chất của từ của một số nhà nghiên cứu nêu trên đã cấp cho chúng
ta một cơ sở lí thuyết để đi vào khảo sát từ ngữ trong tác phẩm văn học.
2.2. Nét riêng của Thạch Lam qua việc sử dụng từ ngữ trong truyện ngắn
2.2.1. Nhìn chung về vốn từ của Thạch Lam trong truyện ngắn
Sức sống mãnh liệt của truyện ngắn Thạch Lam là sự thành công từ
nhiều mặt, trong đó có phần không nhỏ của nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ.
Trong quá trình sáng tác của mình, Thạch Lam đã thực sự trở thành người
nghệ sĩ tài hoa trong việc phát huy khả năng vô tận của ngôn ngữ, tạo dựng
GVTH: HỒ THỊ THẾ Page 4
TỪ NGỮ TRONG TRUYÊN NGẮN CỦA THẠCH LAM
được một phong cách riêng, độc đáo. Văn Thạch Lam được viết cách đây hơn
nửa thế kỷ, nhưng vẫn luôn tươi mới, hiện đại. Là một con người tinh tế và
nhạy cảm, Thạch Lam đã thể hiện những rung cảm của mình qua vốn ngôn
ngữ phong phú, trong sáng và giản dị như chính con người ông. Đọc toàn bộ

tác phẩm của Thạch Lam, người đọc như bị cuốn hút vào thứ ngôn ngữ tả tình
và ngôn ngữ tả cảnh. Dù là tả tình hay tả cảnh thì từng từ, từng câu cũng luôn
rất nhẹ nhàng, thắm thiết. Thạch Lam không ưa dùng thứ ngôn ngữ chát chúa,
xô bồ hay miệt thị Ông là một trong những nhà văn đầu tiên có ý thức khai
thác chất thơ trong sáng tác. Truyện ngắn của ông mô tả uyển chuyển, tinh tế
những diễn biến trong lòng người, cảnh giao mùa của thiên nhiên, cũng như
sự giao hoà giữa con người và thiên nhiên. Ở bất cứ truyện ngắn nào, ta cũng
nhận thấy tình trong cảnh và cảnh trong tình.
Phần lớn truyện ngắn Thạch Lam bắt đầu bằng một cảm giác, cảm
tưởng và kết thúc câu chuyện cũng bằng những cảm giác, cảm tưởng. Cách
mở đầu và kết thúc đó không riêng biệt ở một vài tác phẩm mà trở đi trở lai
trong nhiều tác phẩm của Thạch Lam như: Hai đứa trẻ, Người đầm,
Trong truyện ngắn Thạch Lam, ta thấy từ ngữ chỉ cảm giác xuất hiện
nhiều trong câu văn như: thoáng thấy, thoáng nghe, thoáng nhìn, thoáng
nghĩ, thoáng ngửi, bỗng nhiên, mang mámg, không rõ rệt một cách liên
tục. Chính vì thế mà cuộc sống hiện lên tựa hồ rất khó nắm bắt, như có như
không nhưng lại có vẻ rất gần gũi với con người: “Đọc truyện ngắn Thạch
Lam, thấy tần số chữ cảm giác xuất hiện cao. Chính nhờ cái cảm giác mà nhà
văn tạo nhịp cầu nối những tâm hồn đồng điệu chia sẻ. Cảm giác đã tạo nên
chất men đặc biệt trong văn Thạch Lam: say mà tỉnh, ảo mà thực, liên tục mà
đứt đoạn, rõ ràng mà mơ hồ” .
Những trang văn tả thiên nhiên trong truyện ngắn của Thạch lam cảnh
vật đựơc hiện lên thật thuần khiết và sinh động. Ông đã phát hiện ra thiên
nhiên, tâm trạng, “nó thay đổi cùng với tâm trạng con người trong cuộc”.
GVTH: HỒ THỊ THẾ Page 5
TỪ NGỮ TRONG TRUYÊN NGẮN CỦA THẠCH LAM
Trong truyện ngắn Thạch Lam, ta bắt gặp những từ ngữ miêu tả cảnh ánh
sáng và bóng tối xuất hiện nhiều lần, sự đối lập của hai thứ ánh sáng này cũng
đã góp phần tạo nên cái đặc sắc trong các thiên truyện.
Xét một cách tổng thể, vốn từ không phải chỉ là nhân tố tạo nên sắc thái

riêng cho truyện ngắn mà còn là thành tố tạo nên sự mới mẻ, hiện đại cho
ngôn ngữ truyện ngắn của Thạch Lam.
Lớp từ được dùng với tần số cao trong truyện ngắn Thạch Lam là lớp
từ chung hoặc là từ vựng toàn dân. Lớp từ này được sử dụng phần lớn ở tập
truyện mà người viết đi sâu khảo sát. Điều này không có gì đặc biệt. Bất cứ
nhà văn nào, sống và viết trong một thời đại cụ thể, vốn từ của anh ta sẽ là sự
phản ánh khá trung thực từ vựng của toàn dân. Nói cách khác, vốn từ của một
nhà văn luôn có nét thống nhất với từ ngữ trong ngôn ngữ văn hóa của thời
đại. Trong toàn bộ truyện ngắn của Thạch Lam, lớp từ chung là khối từ ngữ
lớn nhất, đóng vai trò nền tảng. Ta bắt gặp trong các truyện ngắn của nhà văn,
những từ ngữ sách vở, từ ngữ thi ca, từ ngữ thông tục, từ ngữ sinh hoạt… của
mọi lớp người được ông miêu tả.
Từ ngữ nghề nghiệp cũng là lớp từ được dùng với tần số cao trong
truyện ngắn Thạch Lam. Từ nghề nghiệp là lớp từ bao gồm những đơn vị từ
ngữ được sử dụng phổ biến trong phạm vi những người cùng làm một nghề
nào đó. Trong tập truyện ngắn được khảo sát, hầu hết lớp từ này đều được sử
dụng để miêu tả nghề nghiệp của các nhân vật. Chẳng hạn, nghề bán hàng
nước của Liên, An với điếu, đóm, thuốc lào, nước chè… trong Hai đứa trẻ;
Đối với người viết văn xuôi, sử dụng từ nghề nghiệp một cách thông thuộc là
đòi hỏi tất yếu. Các nhân vật văn học bao giờ cũng xuất thân từ một tầng lớp
nào đó, mưu sinh bằng một nghề cụ thể nào đó. Khi miêu tả đời sống, số phận
của nhân vật, nhà văn phải thật am hiểu đặc điểm nghề nghiệp, lời ăn tiếng
nói của nhân vật thuộc lớp người nào, đặc biệt các từ ngữ được dùng trong
GVTH: HỒ THỊ THẾ Page 6
TỪ NGỮ TRONG TRUYÊN NGẮN CỦA THẠCH LAM
các nghề cụ thể. Đây cũng là chỗ thử thách vốn sống, vốn từ ngữ của người
cầm bút.
Các lớp từ được dùng với tần số cao trong các tập truyện ngắn Thạch
Lam chủ yếu vẫn là lớp từ biểu hiện cuộc sống của người nghèo, đây cũng là
lớp từ thể hiện được tâm hồn, cảm xúc cũng như bản ngã của nhà văn. Lớp từ

chung trở thành ngôn ngữ chính của truyện đồng thời cũng là lớp từ được dùng
trong sinh hoạt giao tiếp chung của xã hội mà ông viết, lớp từ này là ngôn ngữ
chung của con người thời ấy, xã hội thời ấy và là lớp từ chung của toàn bộ
truyện ngắn Thạch Lam. Lớp từ được sử dụng với tần số cao cũng biểu hiện
một khuynh hướng sáng tác cùng với nó là chất liệu sáng tác của nhà văn.
2.2.2. Các trường từ vựng ngữ nghĩa tiêu biểu
Lý thuyết trường từ vựng ngữ nghĩa ra đời vào mấy chục năm gần đây.
Tư tưởng của lý thuyết này là khảo sát từ vựng một cách hệ thống. Có nhiều
cách hiểu khác nhau về khái niệm trường từ vựng ngữ nghĩa nhưng ta có thể
thấy ở hai khuynh hướng. Khuynh hướng thứ nhất quan niệm: trường từ vựng
ngữ nghĩa là toàn bộ các khái niệm mà các từ trong ngôn ngữ biểu hiện.
Khuynh hướng thứ hai cố gắng xây dựng lý thuyết trường từ vựng trên cơ sở
các tiêu chí ngôn ngữ học. Trường từ vựng không phải là phạm vi các khái
niệm nào đó nữa mà là phạm vi tất cả các từ có quan hệ với nhau về nghĩa.
Tuy vậy, chúng ta cũng chấp nhận với quan điểm trường từ vựng ngữ nghĩa là
tập hợp của những từ có ít nhất một nét chung về nghĩa.
Trường được hiểu là toàn bộ các đơn vị ngôn ngữ (chủ yếu là các đơn
vị từ vựng) tập hợp lại do sự thống nhất về nội dung (đôi khi cũng có sự đồng
nhất của các dấu hiệu hình thức) và phản ánh sự tương đồng về khái niệm, về
đối tượng hay về chức năng của những hiện tượng mà các đơn vị ngôn ngữ đó
biểu thị .
2.2.2. 1 Trường “vận động”
GVTH: HỒ THỊ THẾ Page 7
TỪ NGỮ TRONG TRUYÊN NGẮN CỦA THẠCH LAM
Một lối tiếp cận đời sống và vốn ngôn ngữ riêng của một cá nhân. Có
thể thấy rõ điều này qua việc khảo sát một số trường từ vựng trong truyện
ngắn Thạch Lam bên cạnh sự tương quan với một số nhà văn cùng thời để
nhận ra những nét đặc thù.
Đây là một trong những trường phổ biến nhất trong tác phẩm tự sự. Các
nhân vật trong truyện là những con người thuộc mọi tầng lớp trong xã hội, có

cuộc đời và số phận riêng. Tất cả đều hoạt động nói cười, ăn uống, đi
lại trong không gian được nhà văn xây dựng. Chính vì thế, lớp từ thuộc
trường “vận động” xuất hiện với tần số cao trong tác phẩm của bất kỳ nhà
văn nào. Chẳng hạn trong truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng ta gặp những từ:
rón rén, hấp tấp chạy vào, bước, bước đến, chạy đi, cuống cẳng, bỏ chạy,
nhanh nhẹn, lên tỉnh, ung dung đi ra, đi nghễu nghện, dừng chậm đà
chân, (Khảo sát các truyện Bộ răng vàng, Người có quyền,). Thật khó mà
nhận ra những dấu hiệu riêng đặc sắc trong lớp từ ngữ chỉ sự vận động của
con người trong truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng vì đó chỉ là những từ ngữ
rất quen thuộc, không có gì đặc biệt, ai cũng có thể dùng như thế.
So với Vũ Trọng Phụng thì lớp từ ngữ chỉ sự vận động trong truyện
ngắn của Thạch Lam xuất hiện thường xuyên là: vội vàng quay lại, tất tả
chạy qua đường, đi lên đây, về nhà, rảo bước, đến chơi, chạy khuất,
thong thả bước, theo anh đến nhà, đi bộ, quay đi, quay ra, đưa về. Qua
đây, chúng ta dễ nhận thấy trong lớp từ ngữ chỉ trường “vận động” của
Thạch Lam khác hẳn với của Vũ Trọng Phụng . Nếu như trong tác phẩm của
Vũ Trọng Phụng lớp từ ngữ ấy thể hiện sự vận động của con người một cách
thuần tuý và chính xác là của thế giới nhân vật với những tính cách mạnh mẽ,
từ ngữ ấy cũng là những động từ có tính chất chuyển động nhanh, mạnh
như: cuống cẳng, hấp tấp chạy vào, cắm đầu cắm cổ đi, đi ra cho thoát,
chạy trốn những từ ngữ này dường như vắng bóng trong truyện ngắn của
Thạch Lam. Lớp từ ngữ thể hiện sự vận động của con người trong truyện
GVTH: HỒ THỊ THẾ Page 8
TỪ NGỮ TRONG TRUYÊN NGẮN CỦA THẠCH LAM
ngắn của Thạch Lam đã thể hiện cho nét tính cách của thế giới nhân vật mà
ngòi bút Thạch Lam luôn hướng tới. Đó là những con người lao động nghèo
trong xã hội, họ di chuyển để tìm cho mình một tương lai, một cuộc sống tốt
đẹp hơn, mỗi bước đi của họ mang nặng những tâm tư, tình cảm như: lủi thủi
trên đường, rụt rè bước… Cái độc đáo của Thạch lam ở lớp từ ngữ này là
ông đã đưa nó đạt đến khả năng gợi nhiều hơn tả. Tác giả lựa chọn lớp từ ngữ

này để làm nổi bật lối sống giản dị, tuy nhiên con người trong tác phẩm của
Thạch Lam phần suy nghĩ nhiều hơn hành động. Chính vì thế tần số từ ngữ
thể hiện sự suy nghĩ cũng xuất hiện rất cao trong tác phẩm của ông.
2.2.2.2. Trường “cảm giác”
Là nhà văn có tâm hồn nhạy cảm, Thạch Lam thực sự có tài trong việc
chuyển tải những cảm xúc mơ hồ, khó gọi tên trong lòng người một cách tự
nhiên và uyển chuyển: “Thạch Lam có khả năng tái tạo những rung động tâm
hồn con người nhiều khi chỉ khẽ như cánh bướm non - cái khả năng ấy chỉ có
thể có ở một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm cao độ. Chính nhờ sức mạnh của trực
giác, văn Thạch Lam trong sáng mà không đơn giản, đa nghĩa mà vẫn tự
nhiên” [28]. Đọc truyện của Thạch Lam, ta thấy có những cảm giác sâu kín
trong tâm hồn, song lại được diễn tả rất nhẹ nhàng bởi tài năng của nhà văn.
Thạch Lam có khả năng truyền đạt chính xác những cảm xúc phong phú và
tinh tế của đời sống tinh thần con người. Văn chương của Thạch Lam là thứ
văn chương mài sắc thêm cảm giác của con người về cuộc sống.
Phần lớn, truyện ngắn Thạch Lam được bắt đầu bằng một cảm giác,
cảm tưởng và kết thúc câu chuyện cũng bằng những cảm giác cảm tưởng.
Những cảm giác, cảm tưởng ấy được Thạch Lam thể hiện qua lớp từ ngữ như:
ruột nóng như lửa đốt, đi đi lại lại, chăm chú nhìn cánh cửa, thoáng nghe
thấy, để ý dò xét nét mặt, tò mò ngắm nhìn, thấy một cảm tưởng lạ, hình
như không có chút liên lạc gì,…(khảo sát các truyện ngắn Hai đứa trẻ,
Người đầm). Đọc truyện ngắn Thạch Lam, có thể thấy những từ chỉ cảm giác
GVTH: HỒ THỊ THẾ Page 9
TỪ NGỮ TRONG TRUYÊN NGẮN CỦA THẠCH LAM
xuất hiện với tần số cao. Chính nhờ cái cảm giác, mà nhà văn đã tạo nhịp cầu
nối những tâm hồn đồng điệu chia sẻ. Cảm giác đã tạo nên chất men đặc biệt
trong văn Thạch Lam: say mà tỉnh, ảo mà thực, liên tục mà đứt đoạn, rõ ràng
mà mơ hồ. Nghệ thuật phân tích cảm giác là một trong những biệt tài của ngòi
bút Thạch Lam.
2.2.2.3. Trường “đồ vật”

Trong các tác phẩm, đồ vật thường gắn với đời sống sinh hoạt của các
nhân vật. Qua thế giới đồ vật, ta có thể hình dung phần nào về cuộc sống của
những con người, những lớp người được miêu tả. Từ ngữ chỉ đồ vật vì thế
cũng là một lớp từ ngữ quan trọng.
Nhân vật trong truyện Thạch Lam là những con người nghèo khổ, lam lũ thì
gắn với họ cũng là những đồ vật bình thường, không có gì sang trọng như:
chăn, màn đỏ, giường, phản, hòm, áo bông, thúng áo, áo rét, áo vệ sinh,
áo dạ, siêu nước, vỉ buồm, sách, bàn giấy, bút, cặp, tờ báo, bàn viết, mũ,
đồng hồ, va li, khăn mặt, xà phòng, quả thuốc sơn đen, chõng nan, ).
Trong truyện Thạch Lam ta bắt gặp cả một thế giới đồ vật bình thường, bình
thường nhưng không tầm thường, bởi ở đó lại toát lên một đời sống sinh hoạt
giản dị của những con người lao động nghèo khổ trong xã hội. Thạch Lam nói
về thế giới đồ vật ấy là để thương cảm, xót xa cho con người trong cuộc sống
đói nghèo túng quẫn, thể hiện lòng nhân đạo của một nhà văn với những trang
viết “nặng nghĩa đời”. Cái quan trọng ở đây là Thạch Lam viết về những con
người, những đồ vật trong truyện ngắn của ông xuất phát từ tấm lòng gần gũi,
yêu thương con người chứ không phải từ sự căm thù xã hội như Vũ Trọng
Phụng hay một số nhà văn cùng thời khác.
Trong truyện của Thạch Lam, ta còn bắt gặp lớp từ ngữ thuộc một số
trường khác cũng rất nổi bật như: trường “ánh sáng” và trường “bóng tối”.
Đây là hai tập hợp từ được Thạch Lam chú ý và gửi gắm ý đồ nghệ thuật nhất
GVTH: HỒ THỊ THẾ Page 10
TỪ NGỮ TRONG TRUYÊN NGẮN CỦA THẠCH LAM
định. Chí ít, nó thể hiện sự đối lập giữa hiện thực tăm tối của cuộc sống con
người và khát vọng tươi sáng ở tương lai.
Các trường từ vựng ngữ nghĩa tiêu biểu xuất hiện trong truyện ngắn của
Thạch Lam không phải là hiện tượng ngẫu nhiên. Trong ý thức nhà văn,
những tập hợp từ được sử dụng như vậy góp phần biểu đạt một cái nhìn, một
quan niệm về đời sống, quan niệm về cái đẹp của nghệ thuật văn chương. Và
một khi các trường từ vựng ấy được tập hợp theo phép hội tụ (nhiều từ cùng

nghĩa hoặc gần nghĩa đồng thời được sử dụng) thì đó còn là một dấu hiệu của
một phong cách ngôn ngữ.
GVTH: HỒ THỊ THẾ Page 11
TỪ NGỮ TRONG TRUYÊN NGẮN CỦA THẠCH LAM
CHƯƠNG 2
TÍNH CHẤT NGHỆ THUẬT CỦA TỪ NGỮ TRONG TRUYỆN NGẮN
THẠCH LAM
2.1. Sự giản dị, trong sáng nhưng sâu lắng, thấm đậm tình người.
Lâu nay, các nhà ngôn ngữ học thường đề cập vấn đề giữ gìn sự trong
sáng của tiếng Việt, và sự trong sáng này phải được thể hiện ở các cấp độ,
trước hết là từ ngữ. Đối với các nhà văn, việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng
mẹ đẻ là một nhiệm vụ cao cả, bởi cách sử dụng từ ngữ của họ có ảnh hưởng
rất lớn đến thái độ và thói quen ngôn ngữ của cộng đồng. Ảnh hưởng tích cực
hoặc tiêu cực từ các nhà văn, nhất là những nhà văn nổi tiếng là hết sức rõ rệt.
Trong số những cây bút văn xuôi hiện đại, Thạch Lam là nhà văn có
văn phong trong sáng nhất. Một số nhà văn cùng thời với ông như Nguyễn
Tuân, Vũ Bằng đã nhận ra điều đó.
Tiếp cận từ nhiều khía cạnh, chúng ta dễ dàng nhận thấy, từ ngữ trong
văn Thạch Lam giản dị và trong sáng. Sự thật, Thạch Lam không cố tình dùng
từ ngữ, câu văn đơn giản nhưng nó lại đơn giản cả về văn lẫn cốt truyện.
Trong văn Thạch Lam, ta thấy ông rất chú trọng về sự thật, nên khi tiếp cận
với vốn sống thực tại ông cũng chỉ xây dựng những truyện giản dị, trong
sáng, không thêm thắt, không tô điểm. Truyện ngắn của ông được tổ chức gọn
gàng, diễn tả uyển chuyển, tinh tế những diễn biến trong lòng người. “Thạch
Lam đã cố gắng và thành công trong việc tạo dựng một bối cảnh, gây một bầu
không khí thích hợp hoàn toàn với những tình cảm dịu dàng êm ái của các
nhân vật, với niềm mơ mộng và tình yêu thiết tha của những tâm hồn bén
nhạy trước mọi kích thước từ ngoại giới. Bởi cảnh sinh tình, cảnh gợi tình và
tình hoà với cảnh” .
Cơ sở để tạo nên loại ngôn ngữ này không chỉ xuất phát từ vốn kiến

thức, tính tình của nhà văn mà còn có cội rễ từ quan niệm nghệ thuật mà
Thạch Lam từng kêu gọi “Bỏ hết những cái sáo, những cái kêu to mà trống
GVTH: HỒ THỊ THẾ Page 12
TỪ NGỮ TRONG TRUYÊN NGẮN CỦA THẠCH LAM
rỗng, những cái giả dối đẹp đẽ, đi tìm cái giản dị, cái sâu sắc và cái thật
bằng cách quan sát đúng và rung động đúng, đó là công việc mà các nghệ
sĩ phải làm”. Không quá trau chuốt, cầu kỳ như Nguyễn Tuân, cũng không
biệt tài về tiếng lóng như Nguyên Hồng, trào phúng như Vũ Trọng Phụng,
Thạch Lam chinh phục trái tim độc giả bằng ngôn ngữ vừa cho ta nhìn vào
vừa cho ta cảm. Ngôn ngữ ấy nhẹ nhàng, giản dị, trong sáng và thật đơn giản.
Bên cạnh sự giản dị, trong sáng, mượt mà, từ ngữ trong truyện ngắn
của Thạch Lam còn sâu lắng, đằm thắm và thấm đượm tình người. Văn Thạch
Lam nhẹ nhàng nhưng sức gợi mở lớn và có khả năng khơi sâu tìm vào cảm
giác. Ông đã dùng thủ pháp so sánh để miêu tả tâm hồn nhân vật và thiên
nhiên: “Tiếng mưa reo và gió thổi như một thứ âm nhạc vui vui, ru ngủ người
ta dần dần” (Tiếng chim kêu);“Tâm hồn Thành trơ trọi như một cánh đồng
thấp mà lúa đã gặt rồi” (Cuốn sách bị bỏ quên); “bà cụ già lê nhích lại gần,
cúi xuống khe khẽ kéo lại như có một vết thương chưa khỏi” (Nhà mẹ Lê).
Sử dụng nhiều thủ pháp so sánh với ngôn từ giản dị nhưng không nhàm
chán, ngược lại, rất đắt, rất hay. Nó làm cho câu văn giàu hình tượng và sức
biểu cảm. So sánh cùng với cảnh ngắt nhịp câu dài, ngắn nhịp nhàng uyển
chuyển tạo cho tác phẩm giàu nhạc điệu:
“Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru…” (Hai đứa trẻ); “có cái gì
dịu ngọt, chăng tơ đâu đây”(Dưới bóng hoàng lan); “những thứ hàng nho
nhỏ, khác nhau và xinh xắn: cuộn chỉ, bao kim, hộp bút, cúc áo, giấy lơ một
trăm thứ lặt vạt qua lại trên ngón tay nhỏ bé của thiếu nữ, vừa quý báu lại
vừa ít ỏi” (Cô hàng xén)… tất cả đều tạo nên một âm thanh dịu nhẹ, trong
trẻo, man mác khiến cho lòng người vừa thanh thản, bằng lặng vừa níu kéo,
ám ảnh khôn nguôi.
Những khung cảnh, những nhân vật, những tâm trạng, những ý tưởng

có trong câu chuyện đều nhỏ nhặt, thông thường, thân mật với mỗi chúng ta.
Thạch Lam đã khẳng định sáng tác văn chương không phải để kể những
GVTH: HỒ THỊ THẾ Page 13
TỪ NGỮ TRONG TRUYÊN NGẮN CỦA THẠCH LAM
chuyện thần tiên hay lãng mạn, mà là cuộc sống kín đáo giản dị quanh mình,
là kể về cuộc sống con người với nhiều lo toan, vất vả, nhiều cạm bẫy, chông
gai đang từng ngày vươn lên để tự hoàn thiện bản thân.
Sự giản dị và trong sáng thể hiện ngay trong cách lựa chọn đối tượng
miêu tả. Chất liệu làm nên những trang văn của ông không phải là phố xá hoa
lệ, cảnh sắc mĩ miều, mà là những khung cảnh giản dị nơi thôn quê yên bình.
Không là những vĩ nhân hay những người quyền quý sang trọng mà là những
mảnh đời bình dị, đơn giản trong cuộc sống vùng quê như: mẹ con chị Tý,
chị em Liên và An, vợ chồng bác xẩm, bác phở Siêu, bà cụ hàng nước,
anh xe kéo Thạch Lam luôn tạo nên thứ cảm xúc tự nhiên và diễn đạt bằng
những từ ngữ cũng hết sức tự nhiên Đấy là chất liệu cũng là ngôn ngữ tạo
dựng nên phong cách giản dị của Thạch Lam. Hơn thế, giản dị và trong sáng
ở Thạch Lam còn được thể hiện ở tính cách nhân vật. Nhân vật của ông, nếu
thống kê đầy đủ, hầu hết là những người nghèo, những người nông dân họ
sống đúng với “bản ngã” của mình.
Không nhiều nhà văn viết hay mà không hư cấu, với Thạch Lam sự
trong sáng trong cách thể hiện văn chương thật đặc sắc nhưng ẩn chứa nhiều
giá trị nhân văn. chị em Liên ngây thơ chờ những ánh sáng nơi đường tầu
trong Hai đứa trẻ; Hơn thế, ở sắc thái tình cảm đôi lứa, ta cũng nhận được sự
nhẹ nhàng, trong sáng với cách thể hiện tình cảm trong Cuốn sách bỏ quên.
Sự trong sáng, giản dị được thể hiện dưới nhiều góc độ ở cách biểu hiện cũng
như ngôn từ thể hiện không lố bịch, không cầu kỳ, diêm dúa. Trong sáng ở
văn Thạch Lam là ngòi bút chân thực quan sát, nhìn nhận, mô tả và thể hiện
bằng chính cảm giác của mình.
Càng đi sâu, ta càng thấy Thạch Lam có một lối văn không thích lối
dùng từ to tát, không cố tỏ ra “uyên bác” đan dệt bởi những câu chữ mang

tính sách vở. Thạch Lam dùng “một lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ Nho, một
lối văn thật có tính cách An Nam”. Những viên gạch dựng nên tác phẩm của
GVTH: HỒ THỊ THẾ Page 14
TỪ NGỮ TRONG TRUYÊN NGẮN CỦA THẠCH LAM
ông là những viên gạch mộc, từ ngữ trong văn của ông trong sáng, giản dị
không quá nhiều những phương pháp tu từ.
Văn Thạch Lam giản dị mà nó không làm mất đi vẻ mềm mại, trong
sáng, không làm duyên một cách cứng nhắc, cầu kỳ mà tự nhiên, nhẹ nhàng
nhưng đầy sức lan toả. Văn của ông lột tả những cảnh đời số phận của người
nông dân, những người chất phác trong xã hội bấy giờ, vậy nên ngoài bút của
ông tả một cách chân thực nhất về cái giản dị, mộc mạc, chất phác của những
người nông dân, những người nghèo. Nó sẽ gượng gạo, sáo rỗng, thiên cưỡng
nếu ông tô vẽ những người nông dân, người nghèo hàng ngày vật lộn với cuộc
sống mưu sinh. Để có sự giản dị trong sáng trong ngôn từ, nhà văn phải có mĩ
cảm riêng, bởi xét cho cùng, cái đẹp của ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm là
kết quả của một quan niệm thẩm mĩ mà nhà văn luôn có ý thức trau dồi
2.2. Sự mới mẻ hiện đại
Nói đến Thạch Lam, người đọc luôn nhớ đến một cây viết truyện ngắn
xuất sắc trong nhóm Tự lực văn đoàn cũng như văn học giai đoạn 1930-1945.
Là nhà văn của Tự lực văn đoàn nhưng ông lại hướng ngòi bút của mình theo
một hướng riêng, hướng đi ấy thể hiện phong cách, cá tính sáng tạo của nhà
văn, ông đã tạo cho mình một lối viết riêng mới mẻ, hiện đại.
Trong những sáng tác viết về người dân lao động Thạch Lam khác với
các nhà văn Tự lực văn đoàn, và cũng khác với các nhà văn hiện thực như
Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng. Các nhà văn
của Tự lực văn đoàn cũng quan tâm đến đời sống của nhân dân lao động, hiểu
được nỗi thống khổ của dân nghèo thành thị nhưng họ chỉ quan tâm đến đời
sống bên ngoài, những mối quan hệ xã hội và tập trung khai thác nguyên nhân
của nỗi khổ đó. Họ kêu gọi tầng lớp trên cúi xuống ban ơn cho người nghèo,
cứu vớt nhân dân trong cảnh "bùn lầy nước đọng".

Còn Thạch Lam, đứng ngang hàng hay bề trên so với người lao động
điều đó không quan trọng, mà theo ông quan niệm sáng tác văn chương trước
GVTH: HỒ THỊ THẾ Page 15
TỪ NGỮ TRONG TRUYÊN NGẮN CỦA THẠCH LAM
hết là vì con người, muôn đi sâu vào tâm hồn con người không thể nhìn từ
bên ngoài hay bên trong, nêu chỉ từ một hướng thì không thể có cái nhìn toàn
diện về con người, không thấy được trạng thái luôn vận động của nó. Những
con người nhỏ bé trong truyện ngắn của ông nghèo mà không hèn. Chính
niềm yêu thương trân trọng đối với con người ở Thạch Lam đã tạo cho ông
một giọng văn ấm áp, ngay cả khi kể về sự oan trái, cay nghiệt của cuộc đời
ông vẫn luôn giữ con người đứng bên bờ của sự yêu thương cam chịu. Và Thế
Lữ đã rất xúc động khi nhớ về Thạch Lam: “Sự thật tâm hồn Thạch Lam diễn
trong văn chương phức tạp nhiều hình, nhiều vẻ, nhưng bao giờ cũng đằm
thắm, thân mật, cũng nhân hậu, cũng nghẹn ngào một chút lệ thầm kín của tình
thương.” (Thạch Lam và văn chương)
Thạch Lam hướng ngòi bút về phía người nghèo với lòng cảm thương
sâu sắc, từ đó gợi lên trong lòng người đọc niềm xúc động. Tình cảm chân
thành mà nhà văn dành cho người nghèo trong xã hội như Vu Gia nhận định,
đối với những kẻ nhỏ bé, ông không đứng ngoài để xem xét, thương hại, mơ
tưởng những công trình cứu giúp to tát như Nhất Linh, Khái Hưng hay Hoàng
Đạo. Thạch Lam đi ngay vào cuộc sống của họ, vỗ về, an ủi, nâng niu những
niềm vui nhỏ bé hiếm hoi trong cuộc đời đầy eo hẹp ấy.
Thạch Lam đã từng quan niệm: “cái thực tài của nhà văn nguồn gốc
chính là ở tâm hồn nhà văn, một nghệ sĩ phải có một tâm hồn phong phú,
những tình cảm dồi dào. Nếu không, nghệ sĩ đó chỉ là thợ văn khéo
thôi.” Ông đã lặng lẽ tự mổ xẻ mình để xây dựng nên những con người sống
động giữa cuộc đời thường. Và từ đó, ngôn ngữ trong truyện ngắn Thạch Lam
là thứ ngôn ngữ được hoà trộn giữa ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân vật.
“Tâm thấy ngày nay cũng như mọi ngày, ngày kia cũng thế nữa, tất cả
cuộc đời nàng lúc nào cũng chịu khó và hết sức như tấm vải thô dệt đều nhau.

GVTH: HỒ THỊ THẾ Page 16
TỪ NGỮ TRONG TRUYÊN NGẮN CỦA THẠCH LAM
Có phải đâu chỉ mình cô; trong những luỹ tre xanh kia, bao nhiêu người cũng
như cô, cũng phải chịu khó và nhọc nhằn”
Trong sáng tác của mình, Thạch Lam đã thực sự trở thành người nghệ
sỹ tài hoa trong việc phát huy khả năng vô tận của ngôn ngữ, tạo dựng được
một phong cách riêng, độc đáo. Văn Thạch Lam được viết cách đây hơn nửa
thế kỉ nhưng vẫn luôn tươi mới, hiện đại.
Như mọi người đều biết, Thạch Lam, qua hầu hết các truyện ngắn của
ông đã chứng tỏ một nhà văn có lối viết dùng từ ngữ nhẹ nhàng, giản dị và tế
nhị hiếm có. Ở Thạch Lam, dường như không có những từ ngữ phức tạp,
cồng kềnh, thô thiển, vênh váo Xét trên phương diện cấu trúc, truyện Thạch
Lam tiến gần hơn cả với truyện ngắn hiện đại, hầu như truyện của ông không
có cốt truyện hoặc cốt truyện đơn giản. Truyện của ông cảm xúc nhiều hơn là
hình thức truyện. Tiêu biểu là tác phẩm Hai đứa trẻ, toàn truyện không có
hành động phát triển xung đột, mà chỉ toàn là tâm trạng, một khoảng không
gian. Ở nhiều truyện khác, Thạch Lam chỉ xoay quanh một tình huống. Mỗi
tình huống lại thể hiện một cảnh đời tội nghiệp nào đó. Và đằng sau số phận,
hoặc tâm lý nhân vật được miêu tả, bao giờ người đọc cũng thấy thấp thoáng
gương mặt của tác giả.
Ngòi bút của Thạch Lam có xu hướng hướng nội, đi vào thế giới bên
trong với những cảm xúc, cảm giác; ông đặc biệt tinh tế khi diễn tả, phân tích
những rung động mong manh, thoáng qua, những biến thái tinh vi của tâm
hồn trước ngoại cảnh. Đó là cảm giác lâng lâng lạ lùng trước thay đổi bất chợt
của thiên nhiên, được cảm nhận qua tâm hồn trẻ thơ như Hai đứa trẻ. Đó là
cái “rung động khẽ như cánh bướm non”. Đó là cái cảm giác êm ả buồn vắng
khi chiều tàn nơi phố huyện với nỗi đợi chờ mơ hồ và khắc khoải của hai chị
em Liên trong Hai đứa trẻ.
Thạch Lam cũng là cây bút đầu tiên có ý thức khai thác chất thơ trong
đời sống bình dị thường nhật. Không khỏi có ý kiến cho rằng ông là nhà văn

GVTH: HỒ THỊ THẾ Page 17
TỪ NGỮ TRONG TRUYÊN NGẮN CỦA THẠCH LAM
thi vị hoá hiện thực. Khác với truyện ngắn Nguyễn Công Hoan - loại truyện
mang nhiều yếu tố hài hước, trào lộng - truyện của Thạch Lam có cấu tứ và
giọng điệu như một tứ thơ trữ tình, mỗi từ ngữ gợi sự cảm thương trước
những số phận nhỏ bé như trong truyện Hai đứa trẻ.
Để được ghi nhận là một nhà truyện ngắn mới mẻ và hiện đại, nếu
đánh giá ở phương diện nghệ thuật hay phương pháp dựng truyện, ta thấy
truyện Thạch Lam không có gì nổi bật, sự nổi bật ở ông là cách sử dụng
cách thể hiện hiện đại bằng những câu từ, chi tiết truyện đơn giản, gần gũi
với người đọc, khám phá thế giới nhân vật cảm giác bằng một thứ ngôn từ
hiện đại, mới mẻ.
GVTH: HỒ THỊ THẾ Page 18
TỪ NGỮ TRONG TRUYÊN NGẮN CỦA THẠCH LAM
CHƯƠNG 3
Ứng dụng trong việc dạy học tác phẩm “Hai đứa trẻ”
Có thể nói “Hai đứa trẻ” là tác phẩm để lại dấu ấn sâu đậm nhất trong
sự nghiệp sáng tác của Thạch Lam và được đưa vào giảng dạy trong chương
trình SGK Ngữ văn lớp 11- Tập 1. Nhằm giúp học sinh có một cái nhìn đầy
đủ hơn về sự mới mẻ, mang chất riêng trong cách sử dụng từ ngữ của Thạch
Lam, bài viết sẽ đề cập việc sử dụng từ ngữ ở khía cạnh thể hiện “Chất thơ”
3.1 “Chất thơ”: Tính trữ tình – tính chất được tạo nên từ sự hài hòa quyện
giữa vẻ đẹp của cảm xúc, tâm trạng, tình cảm với vẻ đẹp của cách biểu hiện
nó để có thể khơi gợi những rung động thẩm mĩ và tình cảm nhân văn.
Một truyện ngắn (hoặc tác phẩm văn xuôi) được coi là giàu chất
thơ khi mối bận tâm của người viết không đặt vào việc kể lại một
biến cố, sự việc, hành động mà là việc làm bật lên một trạng thái của
đời sống hoặc của tâm hồn con người.
3.2 Sự biểu hiện của chất thơ trong tác phẩm “Hai đứa trẻ”:
Trong truyện, Thạch Lam đã xây dựng được một thế giới hình

ảnh vừa chân thực, sinh động lại vừa vô cùng gợi cảm bởi chính vẻ
đẹp của nó.
Quan niệm của Thạch Lam: "Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len
lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật bình thường".
Không gian được lựa chọn trong tác phẩm: Một phố huyện nghèo nơi
tiếp giáp giữa thành thị và thôn quê song dưới ngòi bút Thạch Lam
dường như tính chất làng đã nhiều hơn tính chất phố.
Trong không gian êm ả, tĩnh lặng của phố huyện, mỗi hình ảnh được
ngòi bút Thạch Lam gợi ra đều chan chứa chất thơ: Phương Tây "đỏ
rực như lửa cháy", đám mây "ánh hồng như hòn than sắp tàn", tiếng
trống thu không "vang xa để gọi buổi chiều", đêm mùa hạ "êm như
GVTH: HỒ THỊ THẾ Page 19
TỪ NGỮ TRONG TRUYÊN NGẮN CỦA THẠCH LAM
nhung và thoảng qua gió mát", vòm trời "hàng ngàn ngôi sao ganh
nhau lấp lánh", những con đom đóm "bay là là trên mặt đât hay len
vào những cành cây", bóng bác phở Siêu "mênh mông ngả xuống đất
một vùng và kéo dài đến tận hàng rào hai bên ngõ"…Tất thảy đều là
những hình ảnh, màu sắc, âm thanh vô cùng quen thuộc, bình dị mà
ngỡ như rất mới mẻ, rất gợi cảm trong những câu văn Thạch Lam bởi
nó không chỉ hiện diện như một khái niệm mà như một trạng thái của
sự sống đang xao động để chuyển dần một cách tinh tế cái xao động
ấy vào tâm hồn con người. Dưới ngòi bút Thạch Lam, thậm chí đến
cả rác rưởi của một phiên chợ quê cũng gợi nhớ bao điều thân thuộc.
Thạch Lam ít dùng những chữ to tát, những nhịp điệu gấp gáp
vội vàng, lời văn của ông nhuần nhuyễn, tinh tế để phô diễn những
trạng thái, những cảm xúc trong tâm hồn. Câu văn của Thạch Lam
nhiều thanh bằng gợi một nhịp điệu chậm buồn nhưng có sức lan toả.
Chẳng hạn khi miêu tả vẻ trầm buồn nhưng cũng rất đỗi nên thơ của
phố huyện, Thạch Lam đã viết: "Chiều, chiều rồi, một chiều êm ả
như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo

gió nhẹ đưa vào…" Hay miêu tả cảnh đêm tối sau khi chuyến tàu đi
qua: "Đêm tối vẫn bao bọc xung quanh, đêm của đất quê, và
ngoài kia đồng ruộng mênh mang và yên lặng"
Bên cạnh đó, Thạch Lam đã sáng tạo ra một thứ ngôn ngữ
nghệ thuật riêng để biểu đạt cái xao động của sự sống khẽ vang lên
trong không gian, thời gian tĩnh mịch để diễn tả cái thanh thoát, dịu
hiền của tâm hồn Liên: êm ả, yên lặng, thong thả, gượng nhẹ, nhỏ
xíu, yên tĩnh, mơ hồ, miên man, tĩnh mịch … Những từ ngữ này
liên kết với nhau tạo một dư âm sâu lắng trong tâm hồn người đọc.
GVTH: HỒ THỊ THẾ Page 20
TỪ NGỮ TRONG TRUYÊN NGẮN CỦA THẠCH LAM
Ngoài việc sử dụng từ ngữ thì trong văn của Thạch Lam còn
được ông sử dung những câu văn ngắn, nhịp văn chậm rãi, thong thả.
Dù diễn tả cái náo nức bên trong, cái sôi động của ước mơ, Thạch
Lam vẫn rất nhẹ nhàng, vẫn tự nén ngòi bút. Chuyến tàu rực sáng vụt
qua, Liên xúc động mạnh khi kỉ niệm xưa dồn dập hiện về "Hà Nội
xa xăm, Hà nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo". Đây là một trong số
ít những câu văn kết hợp lối trùng điệp và những thanh trắc tạo điểm
nhấn và ngay câu sau Thạch Lam viết ngắn hơn, nhẹ hơn, như ghìm
giữ lại niềm xúc động: "Con tàu như đem một chút thế giới khác
đi qua".
Bên cạnh “chất thơ”, khi tìm hiểu tác phẩm, bài giảng cần đi
nhắc đến vai trò từ ngữ trong giá trị mang sự “giản dị, trong sáng
nhưng cũng sâu lắng, thấm đượm tình người” và “tính mới mẻ hiện
đại” được nhắc đến ở trên để giúp học sinh cảm tác phẩm sâu hơn,
hiểu hơn về văn phong của Thạch Lam.
GVTH: HỒ THỊ THẾ Page 21
TỪ NGỮ TRONG TRUYÊN NGẮN CỦA THẠCH LAM
KẾT LUẬN
1. Thạch Lam là cây bút truyện ngắn hàng đầu của văn học Việt Nam

giai đoạn 1930 - 1945. Truyện ngắn của Thạch Lam là loại truyện tâm tình,
không chọn những đề tài câu khách, không chú trọng xây dựng cốt truyện li
kì, giàu kịch tính mà chủ yếu diễn tả những cung bậc tâm trạng của những
kiếp người bé nhỏ, với một sự cảm thông sâu sắc. Truyện ngắn của Thạch
Lam giàu chất thơ. Chất thơ ấy thể hiện ở cái nhìn ấm áp của ông với đời
sống, ở hình ảnh thiên nhiên, ở nỗi buồn dịu nhẹ trong từng thiên truyện, và
nhất là ở hình thức tổ chức ngôn ngữ. Tất cả bắt nguồn từ một quan niệm
nghệ thuật và một nhãn quan ngôn ngữ của nhà văn.
2. Nói đến ngôn ngữ truyện ngắn Thạch Lam, trước hết phải đề cập đến
từ ngữ được nhà văn sử dụng. Trước khi đi vào các vấn đề cụ thể, bài viết nêu
quan điểm về từ ngữ trong tác phẩm tự sự và các hướng tiếp cận.
Có thể thấy, từ ngữ trong văn bản tự sự vẫy gọi nhiều cách tiếp cận
khác nhau. Nhà từ vựng học thống kê vốn từ của nhà văn đặt chúng trong
tương quan với vốn từ của toàn dân ở một nhát cắt đồng đại để đưa ra nhận
xét. Trên cở đó, luận văn đã mô tả vốn từ trong truyện ngắn của nhà văn, ở
đó, nổi bật là các lớp từ toàn dân, từ nghề nghiệp,… Nhưng đáng nói hơn là
các trường từ vựng - ngữ nghĩa tiêu biểu có mặt trong truyện ngắn Thạch
Lam. Đó là trường vận động, trường cảm giác, cảm xúc, trường đồ vật. Để
thấy được những nét riêng ở các trường từ vựng - ngữ nghĩa được khảo sát
tiểu luận đã đối sánh cách sử dụng từ của Thạch Lam với những nhà văn cùng
thời như Vũ Trọng Phụng. Tiểu luận cũng đề cập đến tính trong sáng, giản dị,
tính mới mẻ hiện đại như là những phẩm chất nghệ thuật của từ ngữ trong
truyện Thạch Lam.
GVTH: HỒ THỊ THẾ Page 22
TỪ NGỮ TRONG TRUYÊN NGẮN CỦA THẠCH LAM
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh (1994), "Nỗi buồn Thạch Lam - một tâm thế xã
hội và nhân văn", sách Thạch Lam về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo
dục, Hà Nội, tr.96-101.
2. Đỗ Hữu Châu (1973), “Khái niệm “trường” và việc nghiên

cứu hệ thống từ vựng”, Ngôn ngữ, (2), tr. 45-53.
3. Đỗ Hữu Châu (1997), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
4. Trần Ngọc Dung (1994), "Phong cách truyện ngắn Thạch
Lam", sách Thạch Lam - văn chương và cái đẹp, Nxb Hội Nhà văn, Hà
Nội.
5. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên, 2004),
Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
6. Nguyễn Đăng Mạnh (1996), Con đường đi vào thế giới nghệ
thuật của một nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
7. Vương Trí Nhàn (1994), "Tìm vào nội tâm, tìm vào cảm giác",
sách Thạch Lam về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.102-
108.
GVTH: HỒ THỊ THẾ Page 23

×