Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tiểu luận Sinh học cơ thể Động vật NHỮNG ĐẶC ĐIỂM THÍCH NGHI CỦA HỆ TUẦN HOÀN Ở CÁC NHÓM ĐỘNG VẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 16 trang )

Tiểu luận: Sinh học cơ thể động vật
PHẦN I: GIỚI THIỆU CHUNG
I. KHÁI NIỆM VỀ HỆ TUẦN HOÀN:
Hệ tuần hoàn là hệ cơ quan trong cơ thể có chức năng vận chuyển các chất
để đáp ứng nhu cầu trao đổi chất của cơ thể.
Ở các động vật đơn bào và đa bào bậc thấp chưa xuất hiện hệ tuần hoàn,
nhưng đến các nhóm động vật đa bào bậc cao hơn, hệ tuần hoàn xuất hiện như
một hệ quả tất yếu, do các lí do sau đây:
1. Diện tích bề mặt cơ thể nhỏ hơn so với thể tích cơ thể, vì thế sự khuyếch
tán các chất qua bề mặt cơ thể không đáp ứng được nhu cầu trao đổi chất của cơ
thể.
2. Đối với các động vật sống ở trên cạn, bề mặt cơ thể phải là không thấm
nước để đảm bảo giữ được lượng nước cần thiết trong cơ thể. Vì vậy, sự thải và
lấy các chất trực tiếp qua bề mặt cơ thể là rất khó xảy ra.
3. Các khoảng cách bên trong rất lớn, gây khó khăn cho việc khuyếch tán.
Những vấn đề trên có thể khắc phụ được trước tiên nhờ sự xuất hiện các hệ
cơ quan chuyên biệt có chức năng như trao đổi khí, tiêu hóa, bài tiết và sau đó là
sự liên kết các cơ quan này với nhau thông qua hệ thống tuần hoàn.
Hệ thống này có thể vận chuyển nhanh chóng các chất từ nơi này sang nơi
khác, do đó mỗi cơ quan chuyên biệt kia có thể thực hiện tốt chức năng của mình.
II. NGUỒN GỐC CỦA HỆ TUẦN HOÀN
Hệ tuần hoàn ở động vật xuất hiện gần như đồng thời với sự xuất hiện lá
phôi thứ 3.
Ở Giun vòi: hệ tuần hoàn hình thành do sự hình thành và phát triển nhu mô
đệm giữa thể xoang nguyên sinh, phần còn lại của thể xoang nguyên sinh tạo
thành hệ tuần hoàn.
Từ Giun đốt trở đi: hệ tuần hoàn hình thành do sự phát triển thể xoang thứ
sinh. Thể xoang thứ sinh khi hình thành và phát triển sẽ chèn ép thể xoang nguyên
sinh có từ trước đó, phần còn lại của thể xoang nguyên sinh sẽ hình thành hệ tuần
hoàn.
III. CẤU TẠO CHUNG CỦA HỆ TUẦN HOÀN:


Học viên thực hiện: Hoàng Thih Phương Nhi 1
Tiểu luận: Sinh học cơ thể động vật
Một hệ tuần hoàn cấu tạo hoàn chỉnh bao gồm các thành phần sau:
1. Dịch tuần hoàn
Dịch tuần hoàn: là chất giúp vận
chuyển các chất khí, các hormone,
kháng thể, thức ăn và các sản phẩm thải
dư thừa.
Ở nhiều loài động vật, dịch tuần
hoàn còn có các sắc tố đặc biệt, giúp
tăng khả năng vận chuyển oxy của máu.
Hình 1. Dịch tuần hoàn
VD: hemoglobin
Dịch tuần hoàn có thể là máu hoặc hỗn hợp máu – dịch mô.
2. Bơm máu
Là cơ chế để tạo ra sự chênh lệch về áp lực, giúp dịch tuần hoàn có thể lưu
thông trong cơ thể.
Hình 2. Cấu tạo của tim
Có nhiều cơ chế giúp dịch tuần hoàn có thể lưu thông trong cơ thể. Động
vật bậc cao đã hình thành tim – là một khối cơ rỗng hoạt động như một cái bơm
để hút và đẩy máu đi trong mạch. Tim tạo sự tuần hoàn nhờ sử dụng năng lượng
2
Tiểu luận: Sinh học cơ thể động vật
chuyển hoá để làm tăng áp suất thuỷ tĩnh của dịch tuần hoàn, dịch này sau đó chảy
qua một vòng các mạch máu rồi quay trở về tim. Tuy nhiên, đối với động vật bậc
thấp, tim chưa hình thành hoặc chưa phát triển hoàn thiện, chỉ là các mạch co bóp.
Do đó, để tạo áp lực đủ lớn giúp dịch tuần hoàn lưu thông phải có sự phối hợp với
hoạt động vận động cơ làm tăng áp lực dòng chảy.
3. Hệ thống mạch máu
Là hệ thống ống dẫn, giúp vận chuyển dịch tuần hoàn trong cơ thể. Bao gồm:

động mạch, mao mạch và tĩnh mạch.
Ở các nhóm động vật bậc cao, trong mạch máu có thể hình thành các van,
đảm bảo cho máu chỉ lưu thông theo một chiều.
Trong hệ thống tuần hoàn, các thành phần trên được bố trí sao cho sự trao
đổi chất giữa máu và các tế bào của mô diễn ra một cách có hiệu quả.
Hình 3. Hệ thống mạch máu
3
Tiểu luận: Sinh học cơ thể động vật
IV. CHỨC NĂNG CỦA HỆ TUẦN HOÀN:
1. Vận chuyển các chất trong cơ thể
- Vận chuyển các chất khí: vận chuyển O
2
từ cơ quan hô hấp đến các tế bào
và CO
2
từ các tế bào đến cơ quan hô hấp để bài tiết ra ngoài.
- Vận chuyển các chất dinh dưỡng hấp thụ được từ các cơ quan tiêu hóa đến
các mô và tế bào của cơ thể, vận chuyển các chất thải từ tế bào đến các cơ quan
bài tiết.
- Vận chuyển các hormone từ tuyến tiết đến các cơ quan đích.
2. Điều chỉnh sự cân bằng của môi trường trong cơ thể
- Do máu có tỉ lệ H
2
O cao, giúp điều hòa thân nhiệt ổn định.
- Các thành phần máu giúp ổn định cân bằng các yếu tố của môi trường
trong cơ thể: Hemoglobin và hệ đệm giúp ổn định pH; ổn định áp suất thẩm thấu,

3. Bảo vệ cơ thể
- Các tế bào máu đóng vai trò bảo vệ cơ thể giúp chống lại các vật lạ xâm
nhập: đại thực bào, các tế bào limpho B và limpho T.

- Do sự lưu thông liên tục của dịch tuần hoàn trong hệ mạch mà các tế bào
và các kháng thể có thể di chuyển đến vị trí bị nhiễm một cách nhanh chóng, bảo
vệ cơ thể khỏi các tác nhân trên.
4. Điều hòa hoạt động cơ thể
- Dịch tuần hoàn còn giúp vận chuyển các hormone từ cơ quan tiết đến các
cơ quan đích, góp phần điều hòa các hoạt động của cơ thể.
4
Tiểu luận: Sinh học cơ thể động vật
PHẦN II: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM THÍCH NGHI CỦA HỆ
TUẦN HOÀN Ở CÁC NHÓM ĐỘNG VẬT
Động vật sống trong môi trường thường xuyên trao đổi vật chất với môi
trường. Các phân tử O
2
và CO
2
có thể chuyển dịch giữa các tế bào và môi trường
xung quanh bằng khuếch tán. Tuy nhiên, tốc độ khuếch tán tỉ lệ thuận với bình
phương khoảng cách. Đối với động vật đơn bào, sự trao đổi vật chất với môi
trường diễn ra rất đơn giản vì thực hiện trực tiếp qua màng tế bào.
Ở động vật đa bào, sự trao đổi phức tạp hơn. Giữa tế bào và môi trường có
một chất trung gian là nội môi, gồm máu và bạch huyết. Ở các loài Ruột khoang,
xoang vị có cả chức năng tiêu hoá và phân phối các chất tiếp xúc với mặt trong cơ
thể và một phần bên trong các xúc tu. Ở Giun dẹp, xoang vị hay ruột phân nhánh
cùng với cấu tạo cơ thể dẹp giúp tối ưu hoá cho bề mặt khuyếch tán. Muốn sự trao
đổi được tốt và thường xuyên, máu và bạch huyết phải lưu thông khắp cơ thể. Sự
lưu thông đó nhờ hệ tuần hoàn.
Hệ tuần hoàn chính thức xuất hiện ở ngành Giun vòi. Chúng có một mạch
máu lưng, hai mạch máu bụng chạy dọc cơ thể và được nối nhau bởi các mạch
máu ngang. Chưa có tim, lực co bóp là của tế bài biểu mô cơ và thể xoang.
Ở Giun đốt hệ tuần hoàn đã có cấu tạo phức tạp hơn: một mạch lưng, một

mạch bụng, mạch dưới thần kinh và các đôi “tim bên” bơm máu vào các mạch.
Trong các đốt của cơ thể có mạng mao mạch nối các mạch và đến các nội quan.
Lực co bóp như ở Giun vòi.
Ở Chân khớp và Thân mềm là hệ
mạch hở, gọi là hệ tuần hoàn hở (Hình 4).
Các mạch máu vở ra trong xoang cơ thể
và các cơ quan tắm trong dịch tuần hoàn.
Một hoặc nhiều tim co bóp bơm dịch
tuần hoàn (máu hay bạch huyết) qua các
mạch máu vào trong các xoang bao
quanh các cơ quan.
Hình 4. Sơ đồ hệ tuần hoàn hở
5
Tiểu luận: Sinh học cơ thể động vật
Hình 5. Hệ tuần hoàn của giáp xác, Thân mềm
Hệ tuần hoàn của Giun đốt và các động vật khác là hệ mạch kín gọi là hệ
tuần hoàn kín (Hình 6). Hệ tuần hoàn của động vật có xương sống gồm có tim, hệ
động mạch, hệ tĩnh mạch và mao mạch được tố chức theo một sơ đồ chung.

Hình 6. Sơ đồ hệ tuần hoàn kín
Trong quá trình tiến hoá từ cá đến động vật có xương sống bậc cao kể cả
người, hệ tuần hoàn có những biến đổi thể hiện ở cấu tạo của tim và do sự biến
đổi trong cơ chế hô hấp từ hô hấp mang sang hô hấp phổi. Hệ tuần hoàn kín được
phân làm 2 loại: hệ tuần hoàn đơn và hệ tuần hoàn kép.
6
Tiểu luận: Sinh học cơ thể động vật
TUẦN HOÀN ĐƠN
Ở các loài cá Xương, cá Đuối và cá Mập tim có 2 ngăn: 1 tâm nhĩ và 1 tâm
thất. Máu qua tim một lần trong mỗi vòng hoàn thiện, sự sắp xếp này được gọi là
tuần hoàn đơn.Tâm thất co bơm máu tới mang, ở đây có sự khuếch tán O

2
vào
máu và CO
2
ra khỏi máu. Khi máu rời mang, các mao mạch gom vào một mạch
máu đưa máu giàu oxygen tới các mao mạch ở khắp cơ thể. Sau đó, máu trở về
tim.
Hình 9. Tuần hoàn đơn ở cá
TUẦN HOÀN KÉP
Do có sự xuất hiện của phổi, nên ở các loài Lưỡng cư, Bò sát, Chim và Thú
có 2 vòng tuần hoàn khác biệt, sự sắp xếp này được gọi là tuần hoàn kép.
7
Tiểu luận: Sinh học cơ thể động vật
Lớp lưỡng cư:
Lưỡng cư là động vật có xương sống đầu tiên chuyển lên đời sống trên cạn,
có cơ quan hô hấp là phổi, tuy nhiên, phổi của Lưỡng cư chưa đảm bảo đủ nhu
cầu trao đổi khí của nó nên vẫn phải có thêm cơ quan hô hấp là da.
Tim Lưỡng cư đã có 3 ngăn, có vách ngăn giữa 2 tâm nhĩ là nơi nhận máu từ
hai vòng tuần hoàn lớn và nhỏ. Chưa có vách ngăn tâm thất, vì thế máu trong
mạch là máu pha. Khi ở dưới nước, ếch điều chỉnh tuần hoàn của nó với phần lớn
các bộ phận, dòng máu được ngăn không cho tới phổi vì lúc này phổi không hoạt
động. Dòng máu tiếp tục tới da, nơi hoạt động như vị trí duy nhất trao đổi khí khi
ếch ở dưới nước.
Hình 10. Cấu tạo tim và sơ đồ tuần hoàn của ếch đồng
Trong tim của lưỡng cư chưa có sự biệt lập ra hai nửa: nửa tĩnh mạch và nửa
động mạch. Chỉ ở tâm nhĩ trái mang máu động mạch còn tâm nhĩ phải và tâm thất
mang máu pha trộn.
Riêng cá sấu có vách ngăn hoàn toàn giữa tâm thất trái và tâm thất phải nên
có 2 vòng tuần hoàn lớn và nhỏ riêng biệt hoàn toàn.
Hệ mạch máu của Lưỡng cư có sự phân hóa phức tạp hơn so với các lớp Cá:

- Do có cơ quan hô hấp thêm là da, nên ở Lưỡng cư hệ mạch có sự phân
hóa thành các động mạch và tĩnh mạch đến da có kích thước lớn, phục vụ cho việc
trao đổi khí ở da diễn ra hiệu quả hơn.
8
Tiểu luận: Sinh học cơ thể động vật
- Có sự phân chia ra 3 đôi cung động mạch từ thân động mạch chung, đảm
nhận sự trao đổi khí ở các phần khác nhau, hạn chế sự pha trộn của máu.
- Lưỡng cư có thêm tĩnh mạch bụng. Đây là đặc điểm đặc trưng của lớp.
- Hệ bạch huyết phát triển mạnh do sự hô hấp có liên quan đến da.
Lớp bò sát
Bò sát là lớp Động vật có xương sống đầu tiên sống hoàn toàn ở cạn. Chúng
thích ứng với đời sống ở cạn, chuyển vận nhanh, hoạt động mạnh, cơ quan hô hấp
hoàn toàn là phổi.
So với Lưỡng cư, tim của Bò sát đã có thêm vách ngăn không hoàn toàn ở
tâm thất. Sự xuất hiện của vách ngăn này đã làm giảm sự pha trộn máu trong
mạch đi một cách đáng kể. Khi tim co bóp, vách ngăn này được nâng lên chạm
vào nóc của tâm thất, phân chia rõ ràng máu trong tim thành hai nửa trái và phải.
Đây là một đặc điểm tiến hóa chuyển tiếp quan trọng, giúp hệ tuần hoàn được
hoàn thiện hơn ở Bò sát và tiếp tục biến đổi thích nghi ở các nhóm động vật sau.
Hình 11. Sơ đồ hệ tuần hoàn ở thằn lằn
Bò sát đã có hai vòng tuần hoàn, nhưng cũng như ở Lưỡng cư, hai vòng
tuần hoàn của Bò sát chưa biệt lập với nhau.
9
Tiểu luận: Sinh học cơ thể động vật
Máu để nuôi dưỡng phần não bộ của Bò sát hoàn toàn là máu động mạch,
được bơm vào mạch từ nửa trái của tâm thất, đảm bảo cho hiệu quả trao đổi khí ở
phần đầu cao, não được nuôi dưỡng đầy đủ.
Do bò sát chỉ có một cơ quan hô hấp là phổi nên máu của tĩnh mạch chủ
trên, xoang tĩnh mạch và tâm nhĩ phải hoàn toàn là máu tĩnh mạch, khác với ở
Lưỡng cư.

Tim bò sát vẫn còn xoang tĩnh mạch, tuy nhiên, so với Lưỡng cư, xoang
tĩnh mạch phát triển yếu, gắn với tâm nhĩ phải.
Ở Bò sát, hệ động mạch có đặc điểm đặc trưng là có hai cung chủ động
mạch trái và phải đi từ hai nửa của tâm thất, cung động mạch chủ phải sau khi
phát ra động mạch cảnh thì cùng với cung động mạch chủ trái đổ chung vào động
mạch chủ lưng. Sự phân ra hai nhánh rồi chập lại này làm giảm sự pha trộn máu
trong các động mạch.
Tĩnh mạch bụng
ở Bò sát chỉ là phần
mạch máu tập trung
máu từ các mạch nội
quan đổ vào, không
phân biệt với tĩnh
mạch gan như ở
Lưỡng cư.
Hình 12. Hệ mạch của
thằn lằn
Lớp chim
10
Tiểu luận: Sinh học cơ thể động vật
Chim là lớp Động vật không xương sống có số lượng loài lớn, phân bố
khắp mọi nơi trên trái đât. Cơ thể chim tiến hóa theo hướng thích nghi với chuyển
vận bay. Chim hoạt động mạnh, cần nhiều năng lượng và nhu cầu oxy cao.
- Tim của Chim đã có 4 ngăn hoàn chỉnh, không có xoang tĩnh mạch. Đây
là đặc điểm tiến hóa nổi trội so với Bò sát. Máu từ hệ tĩnh mạch đổ thẳng vào tâm
nhĩ, áp lực máu lớn, góp phần giúp cho tốc độ lưu thông máu nhanh hơn.
- Do có cấu trúc 4 ngăn hoàn
chỉnh, hai vòng tuần hoàn biệt lập mà
máu của Chim không bị pha trộn, tăng
hiệu quả trao đổi khí đến các cơ quan.

- Tim co bóp nhanh, nhịp tim
tỉ lệ nghịch với khối lượng cơ thể.
- Hồng cầu nhiều, lồi hai mặt,
có nhân, ái lực của hemoglobin với
oxy yếu hơn so với Thú.
Hình 10. Hệ tuần hoàn của chim bồ câu
Nhờ các đặc điểm trên, máu trong hệ mạch của Chim lưu thông nhanh, sự
trao đổi khí diễn ra hiệu quả, cộng với hoạt động trao đổi khí tích cực nhờ cơ chế
hô hấp kép đã đảm bảo cung cấp đủ oxy cho các hoạt động của cơ thể.
Hệ mạch gan thận của chim tiêu giảm: Đây là đặc điểm thích nghi, đơn giản
hóa hệ thống để làm giảm trọng lượng cơ thể của Chim, giúp thích nghi với đời
sống bay lượn.
Lớp thú
Thú là lớp động vật có tổ chức cao nhất trong các lớp Động vật Có xương
sống. Thú đa dạng về mặt hình thái và cấu tạo cơ thể, dạng điển hình là dạng chạy
trên mặt đất, có các dạng biến đổi phù hợp với điều kiện sống và cách sống.Tuy
nhiên, ở dạng nào thì Thú cũng có các hoạt động sống rất đa dạng và phong phú.
Thú hoạt động mạnh, cần nhiều năng lượng, nhu cầu oxy cao.
Tim của Thú đã có cấu tạo 4 ngăn hoàn chỉnh, máu không pha trộn nên hiệu
quả trao đổi khí cao. Ở tim thú, tâm thất trái đẩy máu vào vòng tuần hoàn lớn có
thành dày hơn tâm thất phải để có thể đẩy máu đi quãng đường xa hơn.
11
Tiểu luận: Sinh học cơ thể động vật
Máu của Thú có các tế bào hồng cầu không nhân, hình lõm hai mặt để giảm
thể tích, tăng diện tích tiếp xúc với oxy và CO
2
, tăng hiệu quả vận chuyển khí
trong mạch và giúp tế bào hồng cầu có thể lách qua các mao mạch nhỏ.
Ở Thú, cung động mạch chủ uốn sang bên trái chứ không sang phải như ở
Chim, đây là đặc điểm đặc trưng ở Thú.

Như vậy, ta thấy ở Thú, hệ tuần hoàn đã phát triển hoàn thiện, đảm bảo trao
đổi khí và chất dinh dưỡng đầy đủ phục vụ cho các hoạt động sống đa dạng.
PHẦN III: SỰ TIẾN HOÁ CỦA HỆ TUẦN HOÀN
12
Tiểu luận: Sinh học cơ thể động vật
Sự tiến hóa của hệ tuần hoàn diễn ra theo các hướng sau:
1. Từ chưa có hệ tuần hoàn đến có hệ tuần hoàn:
Hệ tuần hoàn bắt đầu xuất hiện ở Giun vòi, trước đó động vật trao đổi chất
với môi trường qua bề mặt cơ thể như ở động vật đơn bào, động vật đa bào bậc
thấp.
Hệ tuần hoàn xuất hiện và tiến hoá theo hường từ hệ kín (Giun đốt) => hệ
hở (Chân khớp, Thân mềm) => Hệ kín (ĐVCXS).
Hệ tuần hoàn kín có áp lực máu trong mạch lớn, tốc độ lưu thông máu trong
mạch giúp làm tăng hiệu qua trao đổi khí và các chất dinh dưỡng, đáp ứng được
nhu cầu hoạt động của cơ thể.
2. Chiều vận chuyển máu trong mạch:
13
Tiểu luận: Sinh học cơ thể động vật
Ở loài Hải tiêu do cấu tạo cơ thể đơn giản, chưa phân hóa rõ ràng, nên hiện
tượng đảo lộn dòng máu trong mạch giúp chúng thích nghi với đặc điểm sống cố
định, để có thể hấp thu triệt để lượng chất dinh dưỡng cần thiết, đặc biệt là lượng
oxy có trong nước. Ở các nhóm tiến hóa cao hơn, máu trong mạch chỉ di chuyển
theo một chiều, do sự co bóp nhịp nhàng của các phần của tim và vai trò của các
van trong hệ mạch.
3. Chưa có tim đến có tim và cấu tạo của tim ngày càng hoàn thiện
Chưa có tim (Giun vòi) => tim là phần phình của động mạch (Giun đốt)
Tim chưa chính thức, chỉ là một túi tim như ở Hải tiêu, Cá lưỡng tiêm đến tim 2
ngăn ở Cá, tim 3 ngăn ở Lưõng cư, tim 3 ngăn với vách ngăn tâm thất không hoàn
toàn ở Bò sát và cuối cùng là tim có cấu tạo 4 ngăn hoàn thiện ở Chim và Thú.
Trong đó, cấu tạo tim có thể có thêm xoang tĩnh mạch, có thể có bầu chủ

động mạch hay côn chủ động mạch tùy theo từng lớp động vật thích nghi với điều
kiện và hoạt động sống.
Xoang tĩnh mạch: Là nơi tập trung máu từ các tĩnh mạch trước khi máu đổ
vào tâm nhĩ phải, góp phần giúp máu được lưu thông liên tục, đều đặn theo nhịp
co bóp của tim.
Bầu chủ động mạch: Nơi máu được bơm vào động mạch từ tâm thất trái khi
tim co bóp, hạn chế áp lực máu quá lớn có thể làm tổn thương động mạch chủ.
Côn chủ động mạch: Là cấu trúc được xem là một bộ phận của tâm thất vì
có cơ vân, có thể co bóp tự động và đặc biệt là có van giúp máu di chuyển theo
một chiều.
4. Hệ mạch ngày càng phân hóa rõ rệt và cụ thể thành các mạch riêng,
tương ứng với việc dẫn máu đến từng phần riêng biệt của cơ thể:
- Ở Hải tiêu: Chỉ phân biệt thành mạch mang và mạch bụng
- Từ Cá lưỡng tiêm: đã có sự phân biệt tĩnh mạch và động mạch
- Từ Cá miệng tròn: xuất hiện tĩnh mạch gan và hệ gánh gan.
- Từ Cá sụn: Xuất hiện hệ gánh thận; xuất hiện động mạch cảnh và tĩnh
mạch cảnh riêng biệt dẫn máu đi nuôi phần đầu cơ thể.
Càng về sau, sự phân hóa hệ mạch của động vật ngày càng phức tạp. Sự
phân hóa trên giúp tăng hiệu qua trao đổi chất và khí ở các cơ quan của cơ thể.
14
Tiểu luận: Sinh học cơ thể động vật
Số lượng các cung động mạch tiến hoá theo hướng giảm dần số lượng từ rất
nhiều ở Cá Lưỡng tiêm => Cá Sụn => Cá Xương……….=> Lưỡng cư, Bò sát
(giảm còn 2 cung) => Chim, Thú (chỉ còn 1 cung).
Gốc cung động mạch cũng thay đổi để tách máu đi nuôi cơ thể.
5. Do cấu tạo của tim và hệ mạch mà dẫn đến có sự pha trộn giữa máu
tĩnh mạch và động mạch hay không.
Có sự pha trộn giữa máu giàu oxy và máu giàu cacbonic trong mạch ở hệ
tuần hoàn ở Lưỡng cư và Bò sát. Tuy nhiên, có thể thấy, hệ mạch đã biến đổi thích
nghi theo hướng làm giảm sự pha trộn của máu, nhằm tăng hiệu quả trao đổi khí

và các chất dinh dưỡng tới các phần cơ thể.
Từ máu đỏ với nồng độ oxy thấp (động vật ở nước) => máu pha ở các loài
Lưỡng cư => máu ít pha ở Bò sát => máu đỏ giàu oxy ở Chim và Thú.
6. Hồng cấu có số lượng ngày càng tăng.
Hồng cầu với chức năng là kết hợp và vận chuyển O
2
cung cấp cho tế bào
và vận chuyển CO
2
từ tế bào đến phổi để thải ra môi trường ngoài. Số lượng hồng
cầu trong máu tăng dần ở các nhóm động vật giúp cho sự vận chuyển oxy và
cacbonic diễn ra liên tục.
Từ những kết luận trên, có thể thấy đặc điểm cấu tạo của hệ tuần hoàn ở
từng nhóm động vật thể hiện rất rõ mức độ tiến hóa của nhóm động vật đó, đồng
thời cũng phản ảnh sự thích nghi hợp lý của chúng với môi trường sống đặc
trưng. Dựa vào xem xét, nghiên cứu đặc điểm cấu tạo hệ tuần hoàn cùng những
biến đổi của hệ ở từng nhóm động vật, ta có thể xác định được vị trí phân loại,
phán đoán được môi trường và các điều kiện sống của nhóm động vật đó và hơn
nữa, có thể xác định được mối quan hệ giữa các nhóm động vật và quá trình phát
sinh chủng loại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngô Đắc Chứng, Nguyễn Khoa Lân. Sinh học đại cương (Phần Sinh học
cơ thể). Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998.
15
Tiểu luận: Sinh học cơ thể động vật
2. Ngô Đắc Chứng. Động vật học (Phần Động vật không xương sống). Nxb. Giáo
dục, Hà Nội, 1997.
3. Ngô Đắc Chứng. Động vật học (Phần Động vật có xương sống). Nxb. Giáo
dục, Hà Nội, 1997.
4. Bùi Tấn Anh, Võ Văn Bé và Phạm Thị Nga, 2007. Sinh học đại cương A1.

Đại Học Cần Thơ.
4. Campbell, N. A. et al., (2008). Biology. San Francisco : Pearson Internatinal
Edition.
6. Phillips WD, Chilton TJ, 1998. Sinh học. NXB Giáo dục.
7. Trịnh Hữu Hằng, 2001. Sinh học cơ thể động vật. Hà Nội: Đại học quốc gia.
16

×