Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Rèn luyện một số kỹ năng nói và đọc cho học sinh lớp 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.98 KB, 15 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lời mở đầu
Trong những năm gần đây việc đổi mới phương pháp dạy học để phù hợp
với SGK mới được xem là yêu cầu cấp bách của ngành giáo dục.
Người giáo viên không chỉ làm nhiệm vụ truyền đạt kiến thức đơn
thuần cụ thể mà phải cung cấp những kiến thức chìa khóa để tự bản thân các em có
thể khám phá được tác phẩm văn học dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Hay nói
cách khác nhiệm vụ của các môn học trong đó có môn Ngữ văn trong nhà trường
phổ thông là làm sao bồi dưỡng cho học sinh cách suy nghĩ làm phát triển tư duy
nhận thức, tư duy sáng tạo và năng lực vận dụng của học sinh. Giờ văn phải đưa
đến cho học sinh những hứng khởi đam mê, những thăng hoa trong tâm hồn hạn
chế trình trạng các em “yêu văn học nhưng chán học văn”. Mặt khác đặc trưng của
bộ môn Ngữ văn không chỉ là hình thành kiến thức mà còn là giáo dục, hình thành
đạo đức cho các em , qua bài học học sinh phải tự rút ra được cách ứng xử cho phù
hợp với chuẩn mực xã hội. Để học sinh lĩnh hội được những giá trị đó của môn học
trong quá trình dạy ngoài kiến thức, phương pháp thì kỹ năng đọc nói cũng là một
khâu quan trọng nó ảnh hưởng rất lớn đến một tiết học. Đặc biệt là trong một tiết
học văn, để dẫn dắt học sinh cảm thụ các tác phẩm văn học, dẫn dắt học sinh không
ngừng lớn thêm về tâm hồn trí tuệ qua môn học phải cần đến kỹ năng đọc và nói.
Cần phải đi từ khâu đọc bài văn, đọc đoạn văn, đọc câu văn mà giáo viên và học
sinh sẽ phân tích.
Để phân tích bài văn thì phải có quá trình trao đổi giữa giáo viên và học sinh
là cần phải nói (khâu nói). ở khâu này, giáo viên mà làm tốt được về ngôn từ, âm
lượng , học sinh trả lời lưu loát rõ ràng thì sẽ đem lại hứng thú cho người học và
hiệu quả bài dạy sẽ cao hơn.
Nhờ vậy đọc và nói, có mối quan hệ mật thiết trong một tiết học văn. Đọc
văn, đoạn văn là thể hiện yêu cầu bám sát bài văn trong quá trình giảng văn, tạo
1
điều kiện cho học sinh căn cứ vào từ ngữ, hình ảnh trong bài văn mà nắm được nội
dung hiện thực và nội dung tư tưởng, ý nghĩa của bài văn, của tác phẩm.
Mặt khác, muốn cho học sinh thưởng thức cảm thụ cái hay cái đẹp của bài


văn hoặc bài thơ về các mặt ngữ âm, cú pháp, tiết tấu, nhịp điệu thì việc đọc bài
văn bài thơ lên với cách diễn cảm cần thiết là điều không thể thiếu được. Đọc tốt
bài văn nhằm lôi cuốn học sinh, truyền cảm cho học sinh ở giai đoạn cảm tính là
một việc hết sức quan trọng, có tác dụng kích thích hứng thú học tập của học sinh
trong cả tiết học để đạt kết quả tốt hiệu suất cao.
II.Thực tế của vấn đề nghiên cứu.
1.Thực trạng
Đối với học sinh lớp 6, đây là học sinh lớp đầu cấp , vừa rời cấp tiểu học bước
sang cấp Trung học cơ sở nên các em còn nhiều bỡ ngỡ trong việc tiếp cận các
môn học đặc biệt là môn Ngữ văn . Các em tiếp thu kiến thức còn thụ động, thiếu
tích cực , thiếu chủ động sáng tạo. Ngay cả trong việc tiếp xúc với giáo viên các
em vẫn cẩm thấy lo sợ khi phải nói, phải trình bày một vấn đề nào đó. Còn trong
quá trình đọc một văn bản các em cũng còn nhiều lúng túng chưa biết đọc như thế
nào cho truyền cảm, đọc để cảm thụ, đọc để hiểu một tác phẩm .
Mặt khác, về phía giáo viên đôi khi có tâm lí sợ mất nhiều thời gian, chú trọng
nhiều vào việc dạy các tri thức mà bỏ qua khâu luyện kĩ năng đọc, nói cho học sinh.
Từ những thực tế trên đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình tiếp thu những
giá trị của các tác phẩm văn học. Khâu đọc văn bản trở nên vô vị, đọc để nghe và
làm theo trình tự quen thuộc không có chất lượng. Còn việc nói trong các giờ luyện
nói hay ngay cả khi phát biểu bài cũng chưa có chất lượng.
2. Kết quả của thực trang trên.
Lớp

số
Thực trạng học sinh đầu năm
Kém Yếu Trung bình Khá Giỏi
6A 34 SL % SL % SL % SL % SL %
2
3 8,8 9 26,5 18 52,9 4 11,7 0 0
Từ những thực trạng trên, cùng với tầm quan trọng của việc phát triển kĩ năng nói

và đọc cho học sinh kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, tôi đã mạnh dạn trình
bày một số ý kiến của mình về việc ‘‘Rèn luyện một số kỹ năng nói và đọc cho học
sinh lớp 6”
nhằm giúp học sinh phát triển được kĩ năng đọc, nói một cách có hiệu quả giúp
cho việc dạy học của giáo viên và học sinh đạt kết quả ngày một cao hơn
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Rèn kĩ năng nói
Kĩ năng nói liên quan mật thiết với việc hình thành và phát triển các kĩ năng
nghe, nói, đọc, viết. Nói tốt không chỉ góp phần rèn luyện tư duy mà còn giúp viết
tốt.Muốn nói và viết tốt, người nói cần phải có kĩ năng tiếp nhận thông tin. Những
kĩ năng này luôn đi cùng nhau, hỗ trợ cho nhau, không thể tách rời. Trong đó, nói
là một trong những kĩ năng rất quan trọng trong giao tiếp hàng ngày. Có một thực
tế là nhiều thế hệ học sinh khi ra trường không biết lắng nghe và thấu hiểu, không
biết nói ra những điều mình nghĩ, không truyền đạt được chính xác một thông tin
hoặc không nói đúng theo những nguyên tắcc giao tiếp, không biết viết những văn
bản tối thiểu phục vụ cho cuộc sống hàng ngày, không biết cách đọc hiểu chính
xác một văn bản
Chính vì thế, mục tiêu dạy môn Ngữ văn THCS, Về kĩ năng, Chương trình
môn Ngữ văn nhấn mạnh ‘‘trọng tâm của việc rèn kĩ năng Ngữ văn cho HS là làm
cho HS có kĩ nưng nghe nói, đọc, viết tiếng Việt khá thành thạo theo các kiểu văn
bản và có kĩ năng sơ giản về phân tích tác phẩm văn học, bước đầu có năng lực
cảm nhạn vfa bình giá văn học’’. SGK Ngữ văn đã chú trọng hơn tới việc hình
3
thành và phát triển kĩ năng nói.Đây là quan điểm mới về dạy học của môn học.Cụ
thể ở lớp 6 có các tiết luyện nói:
-Luyện nói kể chuyện (bài 7, bài 10)
-Luyện nói về quan sát, tưởng tượng, so sanh và nhận xét trong văn miêu tả
(bài 20)
-Luyện nói về văn miêu tả(bài 23)
Mục đích của các giờ học này là để tiếp tục rèn luyện kĩ năng trước tập thể

về kiểu bài văn vừa được học và thể hiện suy nghĩ cá nhân về những vấn đề gần
gũi, thiết thực với cuộc sống hàng ngày. Cụ thể là tạo điều kiện cho các em
-Biết cách phát biểu miệng quan điểm, ý kiến cá nhân
-Biết cách trình bày trước tập thể ý kiến cá nhân theo đề cương đã chuẩn bị
Các nội dung luyện nói ở lớp 6 đều tập trung vào trọng tâm chương trình tập
làm văn là hai kiểu bài kể chuyện và miêu tả, nhằm tăng cường rèn luyện cho các
em kĩ năng liên quan đến việc tậo lập văn bản miêu tả, kể chuyện.
Để làm tốt việc rèn luyện và phát triển kĩ năng nói, ngoài những yêu cầu cụ
thể và nội dung của mỗi giờ luyện nói, mục đích chung của các giờ luyện nói trong
chương trình vẫn là rèn cho HS có kĩ năng luyện nói tiếng Việt tự tin, thành thạo.
Chính vì thế khi tiến hành các giờ luyện nói tôi đã tiến hành các yêu cầu sau:
-Đứng trước một vấn đề cần trình bày tôi yêu cầu học sinh chuẩn bị tốt nội
dung bài nói ( dàn bài) để các em hình dung được mình sẽ nói cái gì(xác định đề
tài), nói với ai (xcs định giao tiếp), nói trong hoàn cảnh nào (xác định hoàn cảnh
giao tiếp), nói để làm gì (xác định mục đích giao tiếp), nói như thế nào(cách thức
giao tiếp để thuyết phục người ghe)
- Tôi đặt ra yêu cầu về dàn bài phải ngắn gọn, bám sát yêu cầu của đề bài,
nêu được các ý chính, Hs dựa vào dàn bài để nói.
-Khi trình bày cần tránh lối nói vòng vo, tránh đọc lại hoặc học thuộc lòng để
đọc lại bài văn chi tiết đã có trước
4
-Giọng nói cần rõ ràng, biết lên trầm xuống bổng hoặc thể hiện cảm xúc chân
thành, tự nhiên, không gò bó, áp đặt.
-Tác phong tự nhiên, chủ động, phản xạ ngôn ngữ nhanh nhẹn.
-Không nói ra ngoài những gì mà đề bài yêu cầu
Ngoài những tiết luyện nói có trong chương trình, tôi đặc biệt chú ý đến việc
rèn luyện và phát triển kĩ năng nói thường xuyên trong các giờ học Ngữ văn và
phải rèn luyện cùng với các kĩ năng khác. Cụ thể, trong từng tiết học tôi chú trọng
đến việc phát biểu bài của học sinh, rèn cho các em phải suy nghĩ trước khi nói, nói
đúng vấn đề cần trao đổi, khi nói cần bình tĩnh, tự tin, nói theo đúng nghi thức và

tuân thủ các nguyên tắc hội thoại, biết vận dụng các yếu tố phi ngôn ngữ để lời nói
thêm thuyết phục Đặc biệt tôi chú trọng tạo điều kiện cho học sinh được bộc lộ
những suy nghĩ, tình cảm của các em . Các câu hỏi đặt ra có ngữ cảnh giao tiếp cụ
thể, được đặt trong những ‘‘tình huống có vấn đề” để kích thích óc tư duy và sự
phản xạ nhanh chóng của học sinh. Bên cạnh đó, tôi tạo cho học sinh có tính tự tin,
khuyến khích học sinh bộc lộ những suy nghĩ của mình trong việc phat biểu, thảo
luận ngay cả khi ý kiến đó là sai hoặc chưa hoàn toàn chính xác.
Đối với môn Ngữ văn, muốn học tốt phải đọc tốt, muốn đọc tốt phải nói tốt.
Vì vậy, ngoài việc rèn cho học sinh có kĩ năng nói đúng, đủ nội dung theo yêu cầu,
theo tôi cần rèn luyện cho học sinh thực hiện tốt phát âm đúng, ngắt hơi đúng, đọc
đúng thanh điệu, đọc đúng từ. Để đạt hiệu quả tôi luyện cho học sinh phải nói đúng
rồi đến phải đọc đúng.
Trong khi nói học sinh thường biểu hiện nhiều nhược điểm.Tôi rút ra được
một số nhược điểm của các em học sinh như nói ngọng, nói nhỏ, nói sai ngữ pháp,
nói ngập ngừng, ngượng ngựu,
Từ những nhược điểm, tôi đã nhận thấy cần phải khắc phục thì quá trình tiếp
nhận, khai thác văn bản mới diễn ra tốt, tôi chữa cho các em bằng cách:
1.Chữa phát âm sai:
5
Một trong những lỗi do phát âm sai phổ biến nhất là khi phát âm không phân
biệt được giữa thanh ngã và thanh hỏi
Ví dụ: Nguyễn Hữu Dũng thì các em lại đọc thành Nguyển Hửu Dủng
Tôi đã chữa cho học sinh, học sinh đã có tiến bộ hơn, nhưng kết quả chưa đạt được
như mong muốn
Để chữa sai lầm lẫn giữa dấu hỏi và dấu ngã, chúng tôi cũng hướng dẫn học
sinh cách đọc cụ thể và bắt học sinh đọc.
Ví dụ: Nặng trĩu, ngày giỗ, lỗ mỏng, cổ lỗ, giục dã, dữ dội, nói mãi lỗi vẫn lỗi,
Ngoài hiện tượng đã nói trên, thì còn có hiện tượng phát âm không phân biệt giữa
"gi - d", "s - x", “tr - ch’’ vv Vì lỗi này chỉ có một số ít nên khi em nào bị mắc lỗi
này thì khi nói làm em đó ngượng ngập còn cả lớp thì quan tâm vào đó hơn là quan

tâm bài học.
Tôi ghi tên những em học sinh bị mắc lỗi này lại đưa cho toàn bộ các giáo
viên dạy ở lớp đó và nhờ họ khi học sinh nói ngọng, viết lẫn thì dành thời gian ít
phút để chữa giúp. Liên tục bị nhắc nhở như vậy, học sinh đó phải cố gắng để sửa
chữa.
Tôi vào lớp gây dư luận ở lớp, không tán thành người nói ngọng, là người
nói ngọng không được tự ái mà phải hiểu là các bạn đang giúp đỡ mình.
2.Chữa nói nhỏ:
Lỗi này dễ chữa, nhưng nó cũng rất quan trọng nên cần phải chữa. Đối với
những em nói nhỏ, chúng tôi thường cho các em học sinh trong lớp phản ứng lại:
Ví dụ: Khi em nói nhỏ, nói xong tôi hỏi cả lớp:
- Ở dưới, các em có nghe bạn nói không ?.
Cả lớp trả lời:
- Không ạ !
Tôi yêu cầu em đó:
- Em nhắc lại cho các bạn nghe !
6
Tất nhiên lần này em đó phải nói to hơn trước, cũng có khi em nói nhỏ - vừa nói
xong tôi yêu cầu em khác:
- Em hãy nhận xét ý kiến của bạn.
Em mới được gọi lên nhận xét sẽ trả lời:
-Bạn đó nói nhỏ quá em chẳng nghe thấy gì cả ạ !.
Tôi gợi ý luôn:
- Em nói lại cho bạn nghe đi.
Ngoài thủ thuật đó, tôi dùng biện pháp giáo dục trực tiếp cho các em nói nhỏ.
Nói là trình bày tư tưởng tình cảm, là báo cáo kết quả thu lượm được về kiến thức
của mình trước thầy, trước bạn, trước mọi người. Nếu nói lý nhí thì người ta làm
sao hiểu được mình mà thông cảm với mình. Như vậy dù có ý kiến, dù có hay đến
mấy cũng vô ích.
Vậy khi nói phải nói cho to, cho rõ, cho đúng mực, thế mới là tôn trọng

người nghe.
3. Chữa nói sai ngữ pháp:
Khi các em phát biểu, tôi theo dõi ý kiến của các em một cách chăm chú
(tuyệt đối không tranh thủ lúc học sinh nói để xoá bảng hoặc ghi bảng). Nghe các
em nói thiếu vị ngữ tôi hỏi nhỏ: Làm sao ?, thế nào ?, có khi chúng tôi còn chêm
vào câu nói của các em những liên từ, giới thiệu từ để các em chuyển ý, nối ý cho
mạch lạc và cung cấp những từ các em còn lúng túng tìm tòi.
Tôi không bao giờ gắt giảng học sinh nói sai ngữ pháp mà dùng giọng nói
nhỏ nhẹ, tác phong điềm đạm, làm cho học sinh thấy mình được thật tình giúp đỡ
nên có hứng khởi phát biểu.
Tôi đề ra một số yêu cầu để giúp các em nói đúng ngữ pháp. Chẳng hạn tôi
yêu cầu là khi trả lời các em phải nhắc lại câu hỏi, không thể trả lời theo kiểu câu
nghi vấn, nghĩa là các em không được dùng những từ "rằng, thì, là, mà" chồng chất
trong câu văn.
4. Chữa tư thế ngượng nghịu khi nói:
7
Lỗi này lớp nào cũng có, tôi tìm ra một số lý do cắt nghĩa tại sao các em lại
hay ngượng nghịu khi nói. Đó là do các em không hiểu bài, không hiểu câu hỏi. Đó
còn là do các em lớn quá, phải đứng trên lớp mãi rất ngượng, hoặc vì các em không
quen nói nên sinh ra nhát gan và cuối cùng là do các em thiếu vốn từ để diễn đạt ý
kiến của mình.
Đối với những em không hiểu bài, không thuộc bài, tôi ghép vào nhóm
những em giỏi văn. Yêu cầu những em giỏi này phải giúp đỡ bạn cho đúng mực về
việc chuẩn bị bài, giảng lại những chỗ bạn chưa tiếp xúc được, nghe bạn đọc thuộc
bài trước khi đến lớp. Học sinh giỏi không phải chỉ được đánh giá ở khả năng đọc
nói, viết của mình mà còn được đánh giá ở chỗ phát huy tác dụng trong lớp. Các
em ít hiểu bài, ít thuộc bài được trả lời những câu hỏi thật hợp với trình độ, có gợi ý
từng phần và đòi hỏi chỉ nhắc được bài đã học.
Đối với các em lớn tôi phải làm công tác tư tưởng, động viên là chính nên
vai trò gương mẫu của học sinh trong lớp. Tôi nhắc nhở giáo viên dạy ở lớp đó

luôn luôn giữ uy tín cho các em. Những giáo viên thấp nhỏ, trẻ tuổi khi yêu cầu các
em lên bảng trả lời thì càng phải giữ gìn tư thế đàng hoàng, đúng mực của người
giáo viên (Cách ngồi, cử chỉ lời nói), nếu không sẽ dẫn đến một sự so sánh bất lợi
giữa thầy và trò làm cho học sinh lớn đã ngượng lại ngượng thêm và ý thức của học
sinh đối với thầy sẽ có thể chỗ lệch lạc.
Đối với các em nhút nhát, tôi xếp các em tham gia vào các tổ chức của lớp,
của đoàn thể, trong hoạt động nội khoá và ngoại khoá. Vì phải luôn luôn tiếp xúc
với công việc, với các thầy, các bạn với thực tế, các em mạnh dạn dần. Tôi quy ước
với các em khi nói không được quay lưng lại, không được cúi đầu, chớp mắt, nghoẹ
cổ, thè lưỡi, gãi đầu gãi tai, hoặc xoay mắc ngón chân xuống đất, Vì đó là những
động tác thừa, làm giảm tác dụng của câu nói và thiếu lịch sự.
Còn những em vì thiếu vốn từ nên nói năng lúng túng, tư thế trở nên ngượng
nghịu, tôi đòi hỏi các em phải chịu khó nghe nhiều, xem nhiều, đi vào thực tế
8
nhiều và phải tập nói nhiều. Phải nắm vững phương pháp tích luỹ vốn từ lựa chọn
vốn từ.
Mặt khác tôi rất chủ động đến việc cho điểm khi học sinh phát biểu. Tiêu
chuẩn cho điểm tôi ấn định như sau:
- Phát biểu nhiều lần trong một tiết, có nhiều ý đúng và gần đúng, cuối giờ
cho điểm 7 - 8.
- Cả lớp không ai trả lời được, em nào phát biểu đúng được 9 - 10 điểm.
- Phát biểu đúng, to, rõ, phong thái bình tĩnh, đàng hoàng, lời lẽ lưu loát
được 10 điểm.
- Nói lúng túng không cho điểm, nhưng phải đứng dậy nghe bạn khác phát
biểu rồi nhắc lại.
Cách cho điểm này khuyến khích được các em thi đua phát biểu.
Như vậy để rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh tôi phải giải quyết tốt "Bốn
chữa", chữa phát âm sai, chữa nói nhỏ, chữa nói sai ngữ pháp và chữa tư thế nói.
II - Rèn luyện kỹ năng đọc:
Ở cấp THCS không có tiết tập đọc riêng như ỏ Tiểu học; nhưng muốn lôi

cuốn học sinh, truyền cảm cho học sinh ở giai đoạn cảm tính là việc hết sức quan
trọng. Có tác dụng kích thích hứng thú học tập của học sinh trong cả tiết học, thì
trong tiết giảng văn phải đảm bảo một thời gian đọc thích hợp, cho có chất lượng,
tránh lối làm qua loa, đại khái, đọc để mà đọc vì sợ thiếu giờ giảng. Đọc không có
mục đích đúng đắn, không thu được kết quả nào thì đọc làm gì ? Có lẽ tất cả mọi
giáo viên dạy văn đều biết rằng đọc tốt có ảnh hưởng rõ rệt đến nói và viết, làm cho
nói và viết dần dần trở nên tốt. Qua đọc học sinh có thể hiểu được phần nào ý nghĩa
của bài văn, hỗ trợ một phần công tác tìm hiểu văn bản.
Bởi thế tôi nghĩ không thể nào vô tình hay cố ý, chúng ta lại cắt bỏ khâu đọc
mà phải làm cho khâu đọc trở nên có chất lượng. Giải quyết nỗi lo lắng vì thiếu giờ
chúng ta có thể cho các em đọc toàn bài, nếu bài ngắn, còn bài dài thì đọc một vài
đoạn (đoạn cần nhất).
9
Đối với học sinh THCS đọc không chỉ là một hoạt động đơn thuần, mà đọc ở đây
là một trong những hình thức hoạt động nhận thức của con người, phản ánh năng
lực tư duy bằng ngôn ngữ và thông qua ngôn ngữ. Riêng với văn học, đọc là phản
ánh những tình cảm, những ý chí, những ước vọng, những động lực của tâm hồn,
và cùng với tiếng lòng của nhà văn thể hiện trong tác phẩm, đọc là tiếng đồng vọng
của con người trước thời đại và lịch sử
Đọc để hiểu tác phẩm trước hết là phải giúp học sinh tái hiện tác phẩm, vì tái
hiện là thao tác tư duy đầu tiên, quan trọng hất của đọc để cảm nhận tác phẩm.
Tổ chức tốt tâm thế tiếp nhận tác phẩm cho học sinh, với một bài đọc- hiểu trên
lớp, thì sự mở đầu để tiếp cận tác phẩm có giá trị như là sự khơi mào của tưởng
tượng. Bước tiếp theo là đọc.
Đọc chuẩn một văn bản có nghĩa là phải đọc đúng, đọc rõ, đọc diễn cảm-đọc hay,
đọc như là một sự biểu hiện, như là một sự tự cảm nhận; khi đọc phải tính đến đặc
điểm thể loại của văn bản, tính cách của nhân vật, phong cách của tác giả, giọng
điệu của tác phẩm , tức là phải tính đến sự phức hợp của văn bản. Chính vì vậy,
trước một văn bản tôi cung cấp cho các em kĩ thuật đọc một tác phẩm cụ thể trong
giờ đọc-hiểu, kĩ năng đọc trình diễn tại lớp. ở đề tài này tôi xin đi sâu vào một khâu

của quá trình đọc hiểu văn bản, đó là việc đọc một văn bản trước lớp.
Để đọc tốt một văn bản, khi học sinh đọc tôi lưu ý đặc biệt đến cách phát âm,
cách ngắt hơi, đến thanh điệu và đặc biệt tôi đòi hỏi các em phải đọc đúng từ. Để
đọc có hiệu quả tôi đề ra yêu cầu và cách đáp ứng yêu cầu.
1 - Phát âm đúng:
Trong việc này tôi tập trung chống lầm lẫn giữa các từ có chứa dấu nặng hỏi
và dấu ngã , vì ở học sinh ở Phúc Thịnh thường hay nhầm lẫn giữa dấu hỏi và dấu
ngã do ảnh hưởng của phương ngữ địa phương , học sinh đọc khó phân biệt được.
Ngoài ra, tôi sửa chữa cho học sinh nói ngọng lầm lẫn giữa "ch" và "tr", "r" với "s"
và một số lỗi khác.
2 - Ngắt hơi đúng và thể hiện giọng, nhịp thơ:
10
Đối với các bài thơ trước khi đọc tôi hướng dẫn học sinh đọc theo nhịp thơ
như:
- Bài thơ "Lượm" của tác Tố Hữu (lớp 6) nhịp thơ 2/2.
Tôi nhắc vài lần như thế, học sinh phải chú ý và đọc chậm, đúng hơn ở vòng
thứ nhất . Và đến những em đọc vòng thứ hai, thứ ba thì có ý thức lo lắng và chăm
chú rõ rệt. Tôi cho điểm tập đọc khuyến khích các em đọc đúng và hay.
3 - Đọc đúng thanh điệu:
Thanh điệu gồm tốc độ, cao độ và cường độ. Đọc một bài văn diễn cảm là
thể hiện được thanh điệu. Khi đọc mẫu, tôi cho học sinh đánh dấu bằng bút chì vào
sách giáo khoa, làm như viết nốt nhạc:
- Chỗ nào đọc nhanh : Gạch dưới.
- Chỗ nào đọc cao : Chỉ mũi tên bốc lên.
- Chỗ nào hạ giọng : Chỉ mũi tên chúc xuống.
- Chỗ nào đọc chậm : Gạch ngang dưới các từ.
- Chỗ nào đọc liền : Ngoặc một số từ với nhau.
Làm như vậy học sinh nhanh chóng bắt chước được cách đọc của thầy. Do
đó, cũng phần nào giúp các em luyện được cách đọc diễn cảm. Tôi cho các em hiểu
đặc điểm từng loại thể và cách đọc thích hợp với từng loại thể, từng loại câu, kiểu

câu.
+ Văn miêu tả:
Để làm nổi bật được hình tượng, cảnh sắc cần đọc nhấn vào hệ thống từ, hình
ảnh gợi tả đặc biệt là từ và hình ảnh gợi tả màu sắc, âm thanh, hình khối, đường
nét. Câu văn miêu tả nhìn chung cần đọc thong thả, thoải mái tránh hấp tấp vội
vàng, hoặc dồn dập không cần thiết.
+ Văn kể chuyện:
Đọc lột tả tính cách nhân vật, cần chú ý nhấn mạnh vào những câu diễn tả
tâm lý, hành vi nhân vật. Đặc điểm của truyện đòi hỏi phải chú ý phân biệt giọng
đối với hai câu thể hai loại ngôn ngữ:
11
- Ngôn ngữ trực tiếp.
- Ngôn ngữ dẫn truyện.
+ Thơ:
Nhìn chung đọc sâu lắng, đậm đà, đặc biệt phải nắm chắc nhịp điệu, tiết tấu
của từng đoạn.
Đối với tất cả các thể loại có trong chương trình, mọi học sinh đều phải nắm
vững đặc trưng từng loại thể và được hướng dẫn đọc trong tất cả mọi khâu, theo
một quy trình chặt chẽ: Giáo viên hướng dẫn đọc đến giáo viên đọc mẫu rồi gọi học
sinh đọc, gọi học sinh nhận xét bạn đọc cuối cùng là giáo viên nhận xét.
Tôi còn chỉ dẫn cách đọc các dấu, giọng cho học sinh như sau:
- Dấu hỏi (?): Phải đọc cao giọng.
- Dấu chấm than (!): Phải đọc mạnh, gọn và đanh trong câu mệnh lệnh, đọc kéo dài
và trầm giọng trong câu cảm thán.
- Dấu chấm lửng ( ): Phải đọc chậm, âm thanh ở các từ không thay đổi.
- Dấu ngoặc đơn (): Đọc nhanh và khẽ hơn những từ viết bên ngoài.
- Dấu ngoặc kép "": Phải đọc trang trọng những lời trích dẫn của lãnh tụ, đọc mỉa
mai, châm biếm khi đọc lời trích dẫn của kẻ thù hoặc những từ dùng với nghĩa đả
kích, đọc nhấn mạnh nhữnh từ quan trọng hay đặc biệt.
- Các dấu phẩy (,), dấu chấm (.), dấu chấm phẩy (;), dấu hai chấm (:) thì để thời

gian nghỉ như sau:
Thời gian nghỉ hơi ở dấu chấm xuống dòng, bằng hai dấu chấm.
Thời gian nghỉ ở dấu chấm, bằng hai dấu chấm phẩy.
Thời gian nghỉ hơi ở dấu chấm phẩy, bằng hai dấu phẩy.
Thời gian nghỉ ở dấu hai chấm, bằng dấu chấm phẩy.
4 - Đọc đúng từ:
Để đọc đúng từ, học sinh phải chuẩn bị bài kỹ. Trong quá trình chuẩn bị, các em
phải đọc đi đọc lại bài văn nhiều lần. Một điều kiện quan trọng để đọc đúng, là phải
hiểu nghĩa của từ, xem chú thích mới không đánh chữ "tác" ra chữ "tộ
12
Trong lớp nếu có em đọc lầm lẫn từ này đến từ khác, đọc sót từ, thêm từ, tôi
sửa ngay tại chỗ, yêu cầu các em đọc lại ngay. Tôi không ngại mất thì giờ, vì xét ra
thì thời gian chữa không tốn bao nhiêu, trị bệnh nhẹ hơn còn đến lúc nguy kịch mới
dốc sức vào chữa chạy.
Bên cạnh những yêu cầu về cách phát âm, cách ngắt hơi, đến thanh điệu, đọc
đúng từ tôi đặc biệt chú ý đến việc xác định thể loại và đặc trưng thể loại của văn
bản tác phẩm văn học. Bởi vì tác phẩm chỉ tồn tại trong thể loại và mang những đặc
trưng thể loại.
Tiếp theo là khâu tìm ý nghĩa tác phẩm. Đây là phần việc khó nhất của cả thầy và
trò. Để làm tốt khâu này tôi đã xây dựng một hệ thống câu hởi khai thác, phân tích
những giá trị nội dung cũng như nghệ thuật văn bản một cách hợp lí, phân mức độ
câu hỏi cho phù hợp với đối tượng học sinh, cùng với đó là sự linh hoạt trong các
bước, các khâu lên lớp của người giáo viên.
C. KẾT LUẬN
Trong năm học vừa qua tôi đã mạnh dạn cải tiến phương pháp dạy học theo
hướng trên và kết quả bước đầu cho thấy học sinh có tiến bộ đáng kể về khâu đọc
và nói trong giờ học văn và giúp cho hoạt động dạy học của tôi và học sinh ở
trường bớt lúng túng hơn. Kết quả cụ thể như sau:
Lớp


số
Sau khi vận dụng phương pháp dạy học mới
Kém Yếu Trung bình Khá Giỏi
6A 34 SL % SL % SL % SL % SL %
0 0 2 5,9 20 58,8 10 29,4 2 5,9
Trên đây là một vài kinh nghiệm và kết quả đạt được của bản thân trong việc
giảng dạy một số tiết học của bộ môn Ngữ văn . Tuy nhiên với những kinh nghiệm
của bản thân còn nhiều hạn chế, nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót.
Trong thời gian tới, tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp
cũng với sự nỗ lực không ngừng của bản thân để đề tài này được hoàn thiện hơn.
13
Rất mong ý kiến đóng góp của thầy, cô và bạn bè đồng nghiệp để đề tài này đạt kết
quả tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Mục lục
Phần mở đầu 1
I. Lý do chọn đề tài 2
II. Mục đích của việc nghiên cứu 2
III. Nhiệm vụ nghiên cứu 2
IV. Đối tượng nghiên cứu 3
V. Phương pháp nghiên cứu 3
VI. Phạm vi nghiên cứu 3
14
Nội dung chính 3
I. Rèn luyện kỹ năng nói 3
II. Rèn luyện kỹ năng đọc 8
Kết luận 12
II - Mục đích của việc nghiên cứu:
Thông qua thực tế ở các giờ dạy - học của giáo viên và học sinh trường tôi,
nghiên cứu đề tài này tôi nhằm mục đích đưa ra một số giải pháp hữu hiệu, có tính

khả thi nhằm nâng cao chất lượng của giờ dạy Ngữ văn trong trường THCS.
III - Nhiệm vụ nghiên cứu:
Trong quá trình dạy học, chúng tôi nhận thấy thực trạng ở các tiết học để đưa
ra một số biện pháp cụ thể, thiết thực, có tính khả thi, để rèn luyện kỹ năng đọc và
nói cho học sinh THCS.
IV - Đối tượng nghiên cứu:
- Học sinh lớp 6
- Các biện pháp nhằm rèn luyện kỹ năng đọc và nói cho học sinh để nâng
cao giờ dạy văn.
V - Phương pháp nghiên cứu:
- Tham khảo tài liệu có liên quan đến đề tài.
- Thể nghiệm trong các giờ dạy.
VI - Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài đưa ra một số biện pháp cụ thể để rèn luyện kỹ năng đọc - nói ở lớp 6
15

×