Tải bản đầy đủ (.ppt) (30 trang)

thảo luận môn quản lý phát triển kinh tế: Cụm ngành dệt may ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.11 KB, 30 trang )

Quản lý
Phát triển kinh tế
Nhóm 10
Đề Bài:
Porter đã đưa ra các cụm ngành ưu tiên thí điểm, bạn hãy lựa chọn 1
cụm ngành và trả lời các câu hỏi:
1. Cơ sở nào để M.Porter và các nhà nghiên cứuVN đưa ra cụm ngành
đó.
Sử dụng mô hình Kim cương 4 nhân tố, có số liệu minh họa đưa ra
được các ngành bên trong cụm ngành đó, mức độ phát triển, lấy
VDMH các cụm ngành của 1 quốc gia khác.
2. Phân tích các hỗ trợ hiện nay của chính phủ cho cụm ngành đó: lấy
số liệu minh họa. (xoay quanh 7 chính sách hỗ trợ của CP).
3. Đề xuất giải pháp chính sách trong tương lai ( xoay quanh 7 chính
sách hỗ trợ của chính phủ).
1. Giới thiệu chung cụm ngành
* Theo M.Porter, năng lực cạnh tranh chủ yếu của Việt Nam hiện nay đều
dựa trên những lợi thế tự nhiên được thừa hưởng, đặc biệt là vị trí địa lý
và đặc điểm dân số. Tuy nhiên, Việt Nam chưa tạo dựng được các lợi thế
mới, đặc trưng.
* Một giải pháp được giáo sư nhấn mạnh là phát triển các cụm ngành sản
xuất.Ông đề xuất Việt Nam nên chia thành các cụm khu vực, đánh vào lợi
thế từng khu vực để xây dựng các cụm ngành
* Ông nói“xâydựngcụmngànhlàxâydựngnăngsuất”. Vì thế, vai trò của
Chính phủ trong các sáng kiến cụm ngành được ông nêu rõ: Chính phủ
nên hỗ trợ tất cả các cụm ngành đã tồn tại và mới nổi, hỗ trợ thu thập và
công bố số liệu ở cấp cụm ngành, sẵn sàng thực hiện các kiến nghị. Chính
sách cụm ngành phải tận dụng tất cả những tài sản sẵn có, yếu tố lịch sử
và vị trí địa lý, thúc đẩy cạnh tranh để nâng cao năng suất và hiệu quả.
Cụm ngành dệt may ở Việt Nam
Ngành dệt may Việt Nam, từ năm 1990 đến nay, đã phát triển mạnh mẽ


và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quá trình tăng trưởng của
nền kinh tế. Trong tất cả các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu hiện nay,
dệt may Việt Nam là ngành có kim ngạch xuất khẩu và tốc độ tăng
trưởng lớn nhất.
Năm 2011 có khoảng 115 DN sản xuất sợi và chỉ, gần 290 DN dệt, gần 180
DN thêu, in, đính cườm, gần 40 DN tham gia cung cấp phụ liệu, 50 DN
đan lưới, bện dây đai, 40 DN nhuộm, tẩy.( một số DN có thể thực hiện
trọn gói chuỗi giá trị sợi – dệt – nhuộm, hoàn tất gia công sản phẩm cuối),
10 DN sản xuất linh kiện máy móc chuyên ngành dệt – may. Với những
thành tựu này dệt may Việt Nam đang là ngành công nghiệp quan trọng
cho sự phát triển của đất nước.
2. Các yếu tố tác động đến cụm ngành hỗ trợ dệt
may theo mô hình kim cương:


Các yếu tố đầu vào:

Tài nguyên thiên nhiên:

Tài nguyên con người:

Nguồn vốn:

Cơ sở hạ tầng thông tin và khoa học công nghệ:

Tính chuyên môn hóa các yếu tố sản xuất:

Các điều kiện về nhu cầu:

Bối cảnh cạnh tranh:


Độ mở và cạnh tranh trong nước:

Các quy định và động lực khuyến khích đầu tư
Tài nguyên thiên nhiên

Một thực tế là ngành dệt may Việt Nam vẫn đang chủ yếu gia công dựa
trên đơn đặt hàng của đối tác với mẫu mã và nguyên phụ liệu đối tác cung
cấp

Hiện nay, VN chủ yếu là sản xuất gia công do chỉ chủ động được khoảng 30
– 40% nguồn nguyên phụ liệu, trong đó, sợi tổng hợp đáp ứng được 60%
nhu cầu, vải 30 – 35%, bông đáp ứng 10% ( mỗi năm trong nước chỉ mới
sản xuất được từ 13000 đến 16000 tấn bông xơ).
* Hàng may mặc thường xuất khẩu qua nước thứ ba nên hầu hết nguyên
phụ liệu đều được khách đặt hàng cung cấp, tỷ lệ chất trợ và hóa chất cơ
bản trong nước sản xuất cung cấp cho ngành dệt chiếm từ 5 – 25% tùy
chủng loại nhưng hầu hết là sản phẩm có giá trị thấp, còn thuốc nhuộc và
phụ tùng, chi tiết cho thiết bị dệt may phải nhập khẩu hoàn toàn.
* Các nguyên liệu chính: chỉ may, bông tấm, mếch dính, cúc nhựa, khóa
kéo, băng chun, bao bì đã được đầu tư sản cuất nhưng chỉ đáp ứng được 1
phần nhỏ nhu cầu thị trường nội địa.
Tài nguyên thiên nhiên
*VN chỉ tập trung ở các sản phẩm gia công và quá phụ thuộc vào nhập khẩu
nguyên liệu đầu vào nên giá trị gia tăng hàng xuất khẩu thấp.
*VD Tổng công ty may Nhà Bè – công ty cổ phần cũng phải nhập khẩu tới
50% nguyên phụ liệu từ nước ngoài; họ sử dụng chỉ khâu của Phong Phú,
dây kéo của Công ty cổ phần phụ liệu may Nha Trang hay của Công ty
TNHH YKK Việt Nam…, phần còn lại vẫn phải nhập khẩu. Không chỉ May
Nhà Bè mà nhiều DN may khác đều có nhu cầu mua nguyên phụ liệu trong

nước bởi nếu mua được nguyên liệu trong nước thì DN sẽ tiết kiệm được chi
phí và thời gian, nhất là bảo đảm đúng thời gian giao hàng cho các đối tác
* Theo thống kê của Hiệp hội Dệt May Việt Nam (Vitas), năm 2012, tổng
nhập khẩu nguyên phụ liệu để phục vụ xuất khẩu và tiêu dùng nội địa năm
qua đạt 11,3 tỷ USD. Trong đó, nhập khẩu bông 875 triệu USD (chiếm 98%
nhu cầu), xơ sợi các loại 1,4 tỷ USD (chiếm 54%), nhập khẩu vải lên tới 6,8
tỷ mét, trị giá 7,045 tỷ USD (chiếm 88%) phụ liệu các loại 2,043 tỷ U
 thiếu cung nguyên phụ liệu phục vụ ngành dệt may, ảnh hưởng nghiêm
trọng đến tiến độ sản xuất, nâng cao chi phí sản xuất, nâng cao giá thành sản
phẩm.
Tài nguyên con người

Mạnh: Nguồn lao động dồi dào, khéo léo,tay nghề may tốt, cần cù,
chịu khó. Tiền gia công sản phẩm rẻ, chi phí nhân công thấp;

Yếu:
Lao động có tay nghề cao, giàu kinh nghiệm còn chiếm tỷ lệ nhỏ. Mức
độ ổn định của nguồn lao động trong ngành may mặc không cao khiến
cho các doanh nghiệp may thường xuyên phải quan tâm đến việc tuyển
dụng lao động mới;
Bên cạnh đó, các rào cản kỹ thuật về vệ sinh, an toàn, môi trường,
trách nhiệm xã hội, chống trợ giá có xu hướng ngày càng tăng.
Sản xuất mô hình gia công chiếm tỷ lệ cao, giá trị gia tăng còn thấp; kỹ
năng quản lý sản xuất còn yếu.
So với Trung Quốc, Việt Nam thua kém về khả năng cung cấp sản
phẩm trọn gói, năng suất lao động ,kinh nghiệm sản xuất. Với
Indonesia, năng lực sản xuất lớn, đồng bộ, truyền thống dệt lâu đời,
nguồn lao động ổn định và chi phí thấp… là những yếu tố cạnh tranh
với Việt Nam.
Nguồn vốn:

Hai ngành cần đầu tư vốn lớn nhất là dệt và nhuộm vải, tuy đã được chú
trọng nhưng chưa đủ sức và hiệu quả còn thấp, chưa đáp ứng được nhu
cầu phục vụ cho khâu sản xuất ra sản phẩm cuối cùng.
Mặc dù dòng đầu tư đang dịch chuyển sang các nước Đông Nam Á trong
đó có Việt Nam, thị trường tiêu thụ ngày càng được mở rộng, phát triển do
các hiệp định FTA mang lại nhưng khả năng cạnh tranh từ thị trường
Trung Quốc, Bangladesh, Indonesia, Campuchia ngày càng quyết liệt.
ngoài nguyên vật liệu thiếu, tỷ lệ nội địa hóa máy móc của các doanh
nghiệp còn thấp, địa phương có xu hướng không mặn mà thu hút đầu tư
vào các ngành dệt nhuộm vì sợ ô nhiễm môi trường, đang tiếp tục là thực tế
khó cho ngành trong nỗ lực cải thiện sự chênh lệch này.
Là DN có vai trò đầu tàu, từ đầu năm đến nay, Vinatex đã khởi công 5 dự
án sản xuất nguyên phụ liệu, trong đó chủ yếu là các nhà máy sợi. Tuy
nhiên, trong khi các dự án nguyên liệu thì có hạn, nhu cầu của DN lại lớn,
"nguồn cung thiếu hụt" vẫn là vấn đề nan giải.
Cơ sở hạ tầng thông tin và khoa học công nghệ

Cơ sở hạ tầng thông tin
Công tác thu thập, phân tích, cung cấp thông tin, thị trường trong
nước và quốc tế chưa kịp thời.

Cơ sở hạ tầng khoa học công nghệ
Công nghệ và thiết bị may đã được đổi mới và hiện đại hóa đến
90%, sản phẩm may chất lượng phân khúc trung bình khá có tính
cạnh tranh cao.
Nhìn chung, hiệu quả sử dụng thiết bị sợi, dệt, nhuộm chưa cao.
Công nghệ hỗ trợ còn yếu, phần lớn vải và phụ liệu may phụ thuộc
vào nhập khẩu. Liên kết trong chuỗi cung ứng yếu, chưa hình thành
được các cụm, các khu công nghiệp dệt may.
Tính chuyên môn hóa YTSX

Nghiên cứu đã chứng minh rằng ngành dệt may đang có những
điểm yếu cần phải thay đổi để tồn tại và phát triển: hoạt động xuất
khẩu hàng dệt may của Việt Nam đang chỉ tập trung ở các sản
phẩm gia công và quá phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên liệu đầu
vào nên giá trị gia tăng hàng xuất khẩu thấp. Bên cạnh đó, năng lực
cạnh tranh của ngành chủ yếu dựa vào chi phí lao động thấp và các
chi phí được hỗ trợ như điện, nước và đất đai. Phân tích chuỗi giá
trị ngành dệt may Việt Nam cho thấy sự phát triển thiếu đồng bộ
giữa các phân khúc trong toàn bộ chuỗi cung ứng. Sự yếu kém
trong phân khúc sản xuất nguyên phụ liệu mà đặc biệt là khâu dệt
nhuộm và hoàn tất đã cản trở sự phát triển của phân khúc may nói
riêng và ngành dệt may Việt Nam nói chung. tính chuyên môn hóa
còn thấp, chưa rõ ràng.
Các điều kiện về nhu cầu

Tỷ lệ nội địa hóa của toàn ngành dệt may mới đạt khoảng 48% và còn
tiếp tục tăng.

Ngành dệt may hiện có nhu cầu khoảng 6 triệu mét vải/ năm ( tuy nhiên
chỉ sản xuất trong nước được 1,2 triệu mét)

Tổng công suất ngành nhuộm là 800 triệu mét vải/ năm

phải đáp ứng được nhu cầu nguồn nguyên phụ liệu trong nước, trong đó
sợi tổng hợp đáp ứng được 60% nhu cầu, vải 30-35%, còn bông là 10%, tỷ
lệ chất trợ và hóa trợ cơ bản trong nước chỉ đáp ứng được 5-25% tùy
chủng loại.

Sau nhiều nỗ lực từ phía doanh nghiệp và chính phủ, một số phụ liệu
chính như chỉ may, bông tấm, mếch dính, cúc nhựa,khóa kéo, băng chun,

nhãn mác, bao bì đã được đầu tư sản xuất nhưng chỉ đáp ứng được một
phần nhỏ của nhu cầu nội địa.
Các điều kiện về nhu cầu:

Không chỉ nhu cầu hàng hóa có chất lượng cao ở các nước bạn hàng,
thì theo Vitas năm 2011 trong số 11 tỷ USD nhập khẩu nguyên phụ
liệu cho ngành dệt may thì có tới 3,6 tỷ USD dành để sản xuất hàng
phục vụ thị trường nội địa. Cho ra đời những dòng sản phẩm phục vụ
người có thu nhập cao.

Ngoài các mặt hàng may mặc thì nhu cầu về các mặt hàng khác như:
chăn, ga, gối, đệm, màn, thảm… của người dân ngày càng cao để phục
vụ nhu cầu đa dạng của đời sống

Dệt may Việt Nam hiện chiếm vị trí thứ 5 trong số các nước phát
triển lớn trên Thế giới, đặc biệt là việc Việt Nam tham gia đàm phán
các hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa Việt Nam, ASEAN với EU,
đặc biệt là Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã
mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu dệt may
b. Bối cảnh cạnh tranh

ĐỘMỞVÀCẠNHTRANHTRONGNƯỚC:

Việc khởi động đàm phán các hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa Việt
Nam, ASEAN với EU, đặc biệt là Hiệp định Thương mại xuyên Thái Bình
Dương (TPP) mà Việt Nam là một trong 9 thành viên, đang ở ra nhiều cơ
hội cho dệt may Việt Nam.

Dệt may Việt Nam hiện đang chiếm vị trí t5 trong số các nước xuất khẩu
lớn trên thế giới. =>Cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may


Các doanh nghiệp và Chính phủ đã nỗ lực để giả quyết vấn đề thiết bị dệt
may phải nhập khẩu hoàn toàn thúc đẩy đầu tư phát triển các ngành
thiết bị phụ liệu như chỉ may, bông tấm, mếch dính, cúc nhựa, khóa kéo,
băng chun, nhãn mác, bao bì.

Công nghiệp dệt may thành phố Hồ Chí Minh có dải sản phẩm và dịch vụ
phong phú, từ sản xuất bông gòn, bông tấm, dệt thảm, đan lưới…đén tẩy,
nhuộm, hoàn tất, may trang phục, đính cườm chất lượng sản phẩm đa
dạng nhưng có quá ít sản phẩm tạo dựng được thương hiệu mạnh, chiếm
được sự tin cậy

Cụm ngành hỗ trợ may mặc tại thành phố Hồ Chí Minh đang gặp
những khó khăn chung như quy mô sản xuất nhỏ,công nghệ lác hậu, khả
năng quản tị yếu, khó tiếp cận vốn đòi hỏi có chính sánh đầu tư phát
triển ngành may mặc trong nước chứ không chỉ chủ yếu gia công cho các
công ty nước ngoài.

Năm 2012, nhiều doanh nghiệp (DN) ngành dệt may Việt Nam bị cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn cầu tác động, ảnh hưởng lớn đến sản xuất, cũng
như thị trường tiêu thụ sản phẩm trong nước, nhất là thị trường xuất
khẩu. Các doanh nghiệp dệt may phải chịu áp lực tỷ giá đồng EUR so với
đồng USD và đồng tiền VND đều giảm, chi phí đầu vào tăng, khó khăn
trong việc huy động vốn, lực lượng lao động biến động… làm giảm hiệu
quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.

CÁCQUYĐỊNHVÀĐỘNGLỰCKHUYẾNKHÍCHĐẦUTƯ:

Chính sách vĩ mô khi tác động đến các doanh nghiệp ngành nghề sẽ trở thành
chính sách vi mô ở cấp địa phương. chính sách của địa phương liên quan đến vấn đề

tài chính, đầu tư, giáo dục phải xoay quanh cụm ngành nòng cốt. Đây chính là động
lực chung để cả cụm ngành phát triển.

Chính sách khuyến khích của nhà nước “người Việt dung hàng Việt”  đẩy
mạnh phát triển phụ liệu để tạo ra các sản phẩm có tính khác biệt.

Chuyển dịch cơ cấu sản phẩm theo hướng sản phẩm sạch, sản phẩm có giá trị gia
tăng và hàm lượng chất xám cao (sản phẩm dệt, sợi, may cao cấp), đẩy mạnh xuất
khẩu.
=>Tácđộngtrởlại: Cụm ngành dệt may giúp doanh nghiệp tiếp cận với các nhân tố
đầu vào chuyên biệt như nguyên vật liệu, thông tin, dịch vụ, lao động kỹ năng, thể
chế, cũng như các “hàng hóa công” khác. Ngoài ra, khi hoạt động theo cụm, các
doanh nghiệp trong ngành có thể tăng tốc độ, giảm chi phí điều phối và giao dịch
giữa các doanh nghiệp trong cụm ngành. Doanh nghiệp còn tăng khả năng truyền bá
các thực hành tốt và kinh nghiệm kinh doanh hiệu quả, thúc đẩy cạnh tranh nhờ so
sánh trực tiếp với các doanh nghiệp trong cụm ngành.
3. Liên hệ với dệt may ở Đức:
.
Mặc dù đã là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn thứ hai trên thế
giới, lớn nhất khối EU và kinh tế Đức bị ảnh hưởng của khủng hoảng
kinh tế toàn cầu, nhưng nhu cầu tiêu thụ hàng dệt may tại Đức vẫn tiếp
tục tăng lên trong những năm qua, chủ yếu do sức mua của người dân
trong nước vẫn ổn định. Đây thực sự là cơ hội tốt cho các nước xuất
khẩu hàng dệt may để mở rộng thị trường tại Đức.
Các sản phẩm dệt may nhập khẩu vào Đức trước hết phải đảm bảo đầy
đủ các tiêu chuẩn và điều kiện thương mại chung của EU. Ngoài ra, để
thành công trong việc tiếp cận thị trường khó tính này, các nhà xuất
khẩu nước ngoài cần tìm hiểu đầy đủ thông tin về thị trường, thị hiếu
thời trang và chuẩn bị tốt hàng hóa đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật,
nhãn hiệu, quy định về nhập khẩu, các yêu cầu về chứng chỉ riêng đối

với sản phẩm dệt may và cần tìm hiểu các kênh phân phối hàng dệt may
tại Đức.
Các kênh phân phối
.
* Cách thức thâm nhập thị trường hàng dệt may của Đức hiệu quả nhất và
chi phí thấp nhất là thuê một đại lý bán hàng hoặc một đại diện. Đại lý
thường được trả theo phần trăm hoa hồng và được chuyên môn hóa với
từng sản phẩm. Các đại diện được trả lương và thường có tính chất thay
mặt nhà xuất khẩu.
* Một kênh khác là thâm nhập hàng hóa thông qua các nhà nhập khẩu hay
các công ty bán buôn hàng dệt may ở Đức. Các công ty bán buôn/ nhà nhập
khẩu này thường là những người có hiểu biết sâu sắc về từng sản phẩm và
nhóm sản phẩm dệt may. Họ sẽ có trách nhiệm lo mọi thủ tục, giấy tờ cần
thiết, lưu kho bãi khi hàng đến cảng, phân phối hàng và các việc liên quan
đến việc nhập khẩu lô hàng dệt may vào Đức.
* Các nhà sản xuất nhỏ ở nước ngoài cũng có thể bán sản phẩm qua các
trung tâm mua bán ở Đức. Các trung tâm này có kho hàng và có các chuyên
gia hiểu biết sâu về thị trường có thể giúp bán sản phẩm vào Đức qua việc
gom các nhu cầu nhỏ thành đơn hàng nhập khẩu khối lượng lớn, tăng được
khả năng cạnh tranh.
Các cơ quan hỗ trợ thương mại
.

Tại Đức có nhiều cơ quan hỗ trợ các nhà xuất khẩu nước ngoài thâm
nhập thị trường và thiết lập hệ thống tiêu thụ hàng tại Đức. Đối với hàng
dệt may có các tổ chức quan trọng sau:

Tổ chức xúc tiến hàng dệt may và thời trang Đức (Gasamtextil) – là tổ
chức lớn tập hợp các tổ chức và hiệp hội ngành hàng tại các địa phương.
Các nhà nhập khẩu quan tâm có thể hỏi thông tin về các doanh nghiệp

thành viên trên phạm vi liên bang và về các hiệp hội, tổ chức liên quan
đến dệt may trong phạm vi khối EU.

Hiệp hội các nhà bán lẻ Đức (The Institute of German Textile Retail
Traders (BTE) – có thể cung cấp các thông tin đầy đủ về các công ty bán
lẻ hàng dệt may tại Đức. BTE phát hành “Cẩm nang về bán lẻ hàng dệt
may tại Đức” cung cấp các thông tin liên quan đến 85% các công ty bán lẻ
dệt may tại Đức

Liên đoàn Các trung tâm mua – bán và tiếp thị bán hàng tại Đức (The
Marketing Federation of Buying and Marketing Groups (ZGV) là tổ chức
hỗ trợ các công ty thương mại và dịch vụ vừa và nhỏ tại Đức.
4. Vai trò của nhà nước trong việc phát triển cụm
ngành nói chung :
Chính phủ cần phối hợp cùng Hiệp hội Dệt May, Tập đoàn Dệt May Việt
Nam để lên chiến lược xây dựng cụm ngành dệt may nhằm tận dụng lợi
ích của các cụm công nghiệp như: tăng cạnh tranh, tăng hợp tác và tạo tác
động lan tỏa của các doanh nghiệp trong cụm ngành. Xây dựng cụm
ngành dệt may ở Việt Nam lien quan đến chính sách công nghiệp, do đó
vai trò của Chính phủ là hết sức quan trọng:

Đảm bảo môi trường kinh doanh thuận lợi để thúc đẩy cạnh tranh, hợp
tác và tạo tác động lan tỏa giữa các doanh nghiệp.

Đảm bảo sự tiếp cận của doanh nghiệp đến nguồn lực và nhân tố sản
xuất mục đích của biện pháp nay là nhằm giúp các doanh nghiệp tiếp cận
các nguồn lực sản xuất dễ dàng với chi phí thấp nhất qua đó hạ giá thành
sản phẩm và nâng cao năng lực cạnh tranh.

Thu hút đầu tư và khâu sản xuất nguyên phụ liệu, đặc biệt là khâu dệt,

nhuộm và hoàn tất.
5. Các giải pháp và chính sách hỗ trợ của nhà
nước
a. Chính sách về giáo dục, đào tạo lao động
Năm 2012, thành công lớn nhất của Dệt may đó là duy trì được công việc và
thu nhập cho gần 2 triệu lao động trong cả nước với mức thu nhập gần 5
triệu đồng một người, cải thiện 14% mức lương. Để làm được điều đó cần có
sự hỗ trợ rất nhiều từ Nhà nước với hàng loạt các chính sách nâng cao chất
lượng và hiệu quả sử dụng lao động:
- Mở các lớp đào tạo cán bộ quản lý kinh tế - kỹ thuật, cán bộ pháp chế, cán
bộ bán hàng chuyên ngành Dệt May
- Mở các khóa đào tạo về thiết kế và phân tích vải, kỹ năng quản lý sản xuất,
kỹ năng bán hàng
- Liên kết với các tổ chức quốc tế để cử cán bộ, học sinh tham gia các khóa
đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ pháp chế, cán bộ kỹ thuật, cán bộ bán hàng
- Kết hợp việc đào tạo dài hạn với đào tạo ngắn hạn, giữa đào tạo chính quy
với đào tạo tại chỗ, giữa đào tạo trong nước với việc cử cán bộ ra nước ngoài
để đào tạo.
- Củng cố và mở rộng hệ thống đào tạo chuyên ngành Dệt May, xây dựng
Trường Đại học Dệt May và Thời trang để tạo cơ sở vật chất cho việc triển
khai các lớp đào tạo.
b. Hạ tầng khoa học – kỹ thuật
- Tổ chức lại các Viện nghiên cứu chuyên ngành dệt may theo hướng tự chủ,
tự chịu trách nhiệm.
- Nâng cao năng lực tư vấn, nghiên cứu triển khai, chuyển giao công nghệ,
khả năng thiết kế và sáng tác mẫu của các Viện nghiên cứu.
- Hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong ngành đẩy mạnh các hoạt động nghiên
cứu
- Nghiên cứu áp dụng các công nghệ mới, các nguyên liệu mới để tạo ra các
sản phẩm dệt có tính năng khác biệt

- Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật sản phẩm dệt may phù
hợp và hài hòa với pháp luật về tiêu chuẩn, quy chuẩnvà thông lệ quốc tế.
- Xây dựng phòng thí nghiệm sinh thái Dệt May và Trung tâm phát triển các
mặt hàng vải
- Xây dựng cơ sở dữ liệu về ngành Dệt May, nâng cao chất lượng của trang
thông tin điện tử.
- Nghiên cứu xây dựng các chính sách khuyến khích thúc đẩy chuyển giao
công nghệ trong ngành Dệt May.
c. Xây dựng và kiểm soát việc thực hiện các tiêu
chuẩn chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn môi trường.
- Bộ tài nguyên môi trường, Bộ khoa học công nghệ và môi trường đã ban
hành các văn bản Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN và các quy chuẩn ký thuật
quốc gia QCVN đối với các loại vật liệu ngành dệt may
- Xây dựng Báo cáo đánh giá tác động môi trường phù hợp với Chiến lược
phát triển ngành Dệt May và các quy định pháp luật về môi trường.
- Triển khai Chương trình sản xuất sạch hơn trong ngành Dệt May
- Xây dựng và thực hiện lộ trình đổi mới công nghệ trong ngành Dệt May
theo hướng thân thiện với môi trường.
- Tập trung xử lý triệt để các cơ sở ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Triển
khai xây dựng các Khu, Cụm Công nghiệp Dệt May có hệ thống xử lý nước
thải tập trung, đạt tiêu chuẩn môi trường để di dời các cơ sở dệt may có
nguy cơ gây ô nhiễm vào khu công nghiệp.
- Tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học công nghệ về môi trường.
- Đáp ứng các yêu cầu về môi trường và rào cản kỹ thuật để hội nhập kinh tế
quốc tế.

×