Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.28 KB, 11 trang )

Bài làm.
A, Mở đầu.
Nhận con nuôi và được nhận làm con nuôi là quyền tự do của cá nhân,
nhằm đáp ứng các nhu cầu tự nhiên của con người. Việc nuôi con nuôi thể hiện
bản chất nhân ái của con người, những giá trị nhân văn mà con người hướng tới
và mong muốn đạt được. Việc nuôi con nuôi chịu sự chi phối của các điều kiện
kinh tế, xã hội, biểu hiện qua tôn giáo, văn hóa, phong tục tập quán, đạo đức,
qua mỗi thời kỳ lịch sự đều có đặc điểm riêng. Song việc nuôi con nuôi luôn
biểu hiện sự kết hợp lợi ích của các bên, đồng thời ảnh hưởng tới lợi ích chung
của nhà nước và xã hội. Trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay, việc cho nhận
con nuôi ngày càng phát triển về quy mô và số lượng, ở trong cũng như ngoài
nước, điều đó tạo cho trẻ em có cơ hội được sống trong mái ấm gia đình, nhưng
cùng với nó cũng đặt ra những thách thức đòi hỏi phải hoàn thiện các thiết chế
và pháp luật về nuôi con nuôi nhằm giải quyết quyết tốt việc cho nhận con nuôi,
đảm bảo lợi ích cho trẻ em được nhận nuôi.
B, Nội dung
I. Khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Ý nghĩa của việc nuôi con nuôi là bảo đảm cho người được nhận làm con
nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã
hội và bảo đảm cho người nhận nuôi con nuôi được quan tâm, chăm sóc khi già
yếu, ốm đau, bệnh tật. Xuất phát từ ý nghĩa xã hội và mục đích nhân đạo của
việc nuôi con nuôi, chúng ta có thể hiểu “nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ
cha mẹ và con giữa người nhận con nuôi (cha mẹ nuôi) với người được nhận làm
con nuôi” (theo Từ điển Luật học ) (1)
Page | 1
Hiện nay, cho và nhận nuôi con nuôi không chỉ còn là vấn đề của từng
quốc gia mà cũng được rất nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm. Ở Việt Nam,
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài chính là quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có
yếu tố nước ngoài. Quan hệ này đã được pháp luật quy định tại Điều 758 –
BLDS2005 (2), và được cụ thể hóa tại Khoản 5 – Điều 3 – Luật nuôi con nuôi
2010, theo đó : “Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là việc nuôi con nuôi giữa


công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau
thường trú ở Việt Nam, giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên định cư ở
nước ngoài.”
II. Tình hình nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam
+ Nuôi con nuôi quốc tế tại Việt Nam bắt đầu từ những năm 70, với số
lượng rất ít trong những năm 80 và bắt đầu tăng trở lại vào những năm 90.
Chiến tranh Mỹ đóng vai trò quan trọng trong việc khởi xướng nhận con nuôi
Việt Nam, đặc biệt là vào cuối thời kỳ chiến tranh khi bắt đầu một chương trình
con nuôi ồ ạt (3). Tính đến cuối thập kỷ 90, Việt Nam vẫn là một trong các quốc
gia đứng đầu với tư cách là nước cho con nuôi, với ít nhất 10.000 trẻ được cho
làm con nuôi ở tất cả các nước trong thập kỷ trước. Số liệu thống kê từ các cơ
quan con nuôi ở cấp Trung ương (xem Bảng 1 dưới đây) cho thấy số lượng con
nuôi đi từ Việt Nam là tương đối nhiều và nhìn chung đã tăng trong những năm
gần đây, dĩ nhiên là tăng với những nước có quan hệ gần gũi và với những nước
đã ký Thoả thuận song phương với Việt Nam.
Bảng 1: Con nuôi từ Việt Nam đến các nước nhận nuôi với số lượng lớn từ
năm 2002 – 2008. (4)
2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Tổng số
Canađa 84 45 6 5 34 54 45 189
Đan Mạch 75 19 13 72 44 51 39 313
Pháp 61 234 363 790 742 268 284 2742
Ai len 81 39 16 92 68 130 181 607
Page | 2
Ý 90 59 6 140 238 263 313 1109
Thụy Điển 86 32 6 80 67 54 45 370
Thụy Sĩ 24 47 31 4 3 5 5 119
Hoa Kỳ 766 382 21 7 163 828 751 2918
Tổng số 1183 857 462 1190 1359 1648 1658 8357
+ Thông qua cơ chế ký kết điều ước quốc tế về hợp tác nuôi con nuôi với
các nước, nước ta có thể tăng cường sự hợp tác trong việc xử lý một cách tổng

thể vấn đề nuôi con nuôi, giảm bớt được những rào cản về trình tự, thủ tục, giấy
tờ, cũng như tăng cường cơ chế bảo vệ trẻ em. Trong năm 2003, Chính phủ Việt
Nam đã điều chỉnh quy định về nuôi con nuôi, thành lập Cục Con nuôi quốc tế
thuộc Bộ Tư pháp để xét duyệt việc nhận con nuôi và đưa ra những yêu cầu đối
với nước nhận nuôi để ký kết thoả thuận song phương với Việt Nam. Các thoả
thuận song phương đã được ký với Pháp (năm 2000), và các nước khác như Đan
Mạch (2003), Ý (2003), Thuỵ Điển (2004), Ailen (năm 2004), Canada (năm
2005), tỉnh bang Québec (năm 2005), Mỹ (năm 2005), Thuỵ Sĩ (năm 2005), và
Tây Ban Nha (năm 2009). Các nước nhận con nuôi trong khuôn khổ Hiệp định
song phương đã uỷ quyền cho một số tổ chức con nuôi quốc tế phát triển hoạt
động con nuôi ở Việt Nam. Vào giữa năm 2008 có gần 70 tổ chức con nuôi
nước ngoài.
+ Trên thực tế, còn thiếu sự gắn kết giữa nuôi con nuôi trong nước và
nuôi con nuôi quốc tế theo hướng ưu tiên nuôi con nuôi trong nước; nuôi con
nuôi nước ngoài chỉ được coi là biện pháp thay thế cuối cùng khi không thể tìm
được mái ấm cho trẻ em ở trong nước. Đây là một yêu cầu quan trọng của Công
ước Lahay về bảo vệ trẻ em và hợp tác nuôi con nuôi quốc tế mà Việt Nam
đang chuẩn bị ký. Nhưng hiện nay yêu cầu này chưa được bảo đảm thực thi
nghiêm túc ở nước ta, do còn thiếu các biện pháp kiên quyết và hữu hiệu.
Theo Nghị định 68/2002/NĐ-CP, trước khi giải quyết cho làm con nuôi
người nước ngoài, cơ sở nuôi dưỡng có trách nhiệm thông báo 30 ngày trên
phương tiện thông tin đại chúng cấp tỉnh (trên báo chí, đài phát thanh, truyền
Page | 3
hình) về việc tìm mái ấm gia đình trong nước cho trẻ em. Nhưng trên thực tế,
nhiều nơi chỉ làm một cách hình thức, chiếu lệ, không bảo đảm đích thực của
việc tìm mái ấm gia đình trong nước cho trẻ em. Thậm chí có nơi chỉ nộp giấy
xác nhận đã thông báo trên đài phát thanh hoặc trên vô tuyến truyền hình, còn
thực tế có thông báo hay không, lại không có sự kiểm tra, xác thực chính xác.
+ Còn tồn tại một số điểm không rõ ràng, thiếu minh bạch trong hồ sơ
của trẻ em Việt Nam được cho làm con nuôi người nước ngoài. Những công bố

về sự việc “trẻ bị bỏ rơi”, vốn đã được biết đến là khó điều tra, diễn ra thường
xuyên một cách đáng ngạc nhiên, và không giải thích về “cao điểm khi có nhiều
trẻ bị bỏ rơi” và “trầm xuống khi có ít trẻ bị bỏ rơi”. Thủ tục xác minh thực
trạng đứa trẻ, và những vấn đề khác để đảm bảo có sự tự do và sự đồng ý trước
khi làm con nuôi là không phù hợp và thiếu nhất quán. Việc ra quyết định về
đứa trẻ có đủ điều kiện để làm con nuôi quốc tế khi không còn giải pháp nào
trong nước (kể cả quay trở về với gia đình của trẻ) dường như không xem xét
đến tính chất phụ trợ của con nuôi quốc tế, với rất ít hoặc hầu như không có sự
cố gắng để xác định nhu cầu thực sự của đứa trẻ hoặc để tìm ra cơ hội chăm sóc
ở trong nước.Qua công tác thanh tra cho thấy, có nhiều loại giấy tờ trong hồ sơ
của trẻ em đã được làm để nhằm hợp pháp hóa việc cho trẻ em làm con nuôi
nên không chính xác, thiếu thống nhất và chưa đầy đủ. Ví dụ như trường hợp
của cháu Phan Thanh H ở Cần Thơ, có mẹ đẻ là Phan Thị M, do không có khả
năng nuôi dưỡng nên chị M đã tự nguyện cho con, nhưng khi cơ sở nuôi dưỡng
làm Giấy khai sinh cho cháu H đã bỏ trống phần ghi họ tên mẹ của cháu. Bên
cạnh đó còn tồn tại trường hợp khai sinh không đúng thẩm quyền như khai sinh
tại nơi người mẹ tạm trú vãng lai hoặc thậm chí tại nơi người mẹ đến sinh đẻ mà
không có lý do chính đáng. Trong hồ sơ của trẻ được nhận làm con nuôi, giấy
khám sức khỏe là một thủ tục cần thiết đói với trẻ em mắc các bênh hiểm nghèo,
tàn tật, nhiễm HIV… Tuy nhiên, việc khám sức khỏe thường không được thực
hiện theo đúng trình tự, có nhiều trường hợp trẻ em bị mắc bệnh hiểm nghèo
nhưng lại không được phản ánh trong hồ sơ. Quay trở lại với ví dụ về trường
Page | 4
hợp của Phan Thanh H ở trên, sau khi được cho làm con nuôi của một cặp vợ
chồng người Pháp theo QĐ số 2640/QĐUB-97 của UBND tỉnh Cần Thơ, trong
quá trình làm thủ tục xuất cảnh, khi tiến hành kiểm tra sức khở thì biết cháy H
bị nhiễm HIV.
Bên cạnh đó, về việc xác minh hồ sơ của một đứa trẻ bị bỏ rơi, mặc dù đã có
những quy định cụ thể về trách nhiệm của cơ quan tiến hành xác minh nhưng
trên thực tế, dường như chất lượng điều tra phụ thuộc vào người có trách nhiệm

thực hiện của từng địa phương. Như vậy, việc thiếu nhất quán trong quá trình
điều tra và thiếu rõ ràng về việc ai sẽ là người chịu trách nhiệm đã dẫn tới tình
huống không đảm bảo rằng nguồn gốc của đứa trẻ đã được điều tra kỹ càng.
+ Trên thực tế, có rất ít hồ sơ xin nuôi con nuôi đảm bảo được đúng thời
hạn quy định. Theo quy định tại Nghị đinhh 68/2002/NĐ-CP, thời hạn giải
quyết hồ sơ là 4 tháng. Tuy nhiên, có những hồ sơ kéo dài đến hàng năm do
nhiều nguyên nhân khác nhau. Điều này khiến cho không ít giấy tờ hết giá trị
khiến đương sự phải đi làm lại (Ví dụ như giấy khám sức khỏe, luật chỉ quy
định cho thời hạn có giá trị là 6 tháng…).
+ Pháp luật còn thiếu các quy định minh bạch về phí, lệ phí và các vấn
đề tài chính có liên quan khác trong quá trình giải quyết việc nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài. Thực tế cho thấy, rất nhiều khoản chi phí cần phải có để làm
những thủ tục cần thiết như khám sức khỏe của trẻ em, xét nghiệm… Những
khoản chi phí này không được cấp từ ngân sách mà do các cơ sở nuôi dưỡng tự
xoáy sở. Mặt khác, khi không có sự quy định minh bạch về tài chính sẽ tạo cơ
hội cho các bên có thể thỏa thuận ngầm với nhau với những mức giá nhất đinh
nhằm có được trẻ để nhận nuôi. Điều đó sẽ làm biến dạng việc nuôi con nuôi,
làm nảy sinh việc cạnh tranh không lành mạnh và thúc đẩy hành vi môi giới trục
lợi trong lĩnh vực này. Ví dụ như Một trong nhiều trường hợp (xem dưới đây)
có thể lấy làm ví dụ cho thực tế trên là tổ chức Bàn tay Trợ giúp của Ai-len,
được thành lập vào tháng 5/2006 để chuyên quản lý tất cả các trường hợp nhận
Page | 5

×