Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Vai trò của tư duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo,quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (739.48 KB, 34 trang )

Vai trò của tư duy biện chứng đối với cán bộ
lãnh đạo,quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay


Nguyễn thị kim Thanh

Trường Đại học KHXH&NV
Luận văn ThS ngành: Triết học; Mã số: 60.22.80
Người hướng dẫn: PGS.TS Đặng Hữu Toàn
Năm bảo vệ: 2013




Abstract: Làm rõ các phạm trù tư duy, tư duy biện chứng. Làm rõ vai trò tư duy biện chứng
đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế. Phân tích thực trạng tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay và yêu cầu nâng cao trình độ tư duy biện chứng ở đội
ngũ cán bộ này. Đề xuất phương pháp và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực và trình
độ tư duy biện chứng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay.
Keywords: Triết học; Tư duy biện chứng; Cán bộ lãnh đạo; Cán bộ quản lý.
Content:

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chương 1. TƯ DUY BIỆN CHỨNG VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI CÁN
BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ KINH TẾ Ở NƯỚC TA 7
1.1. Tư duy và tư duy biện chứng 7
1.1.1. Tư duy là quá trình phản ánh ở trình độ lý tính đối với hiện
thực khách quan 7
1.1.2. Bản chất và đặc điểm của tư duy biện chứng 14
1.2. Vai trò cuả tư duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý


kinh tế 32
1.2.1. Khái niệm lãnh đạo, quản lý kinh tế 33
1.2.2. Tư duy lãnh đạo, quản lý kinh tế 38
1.2.3. Vai trò của tư duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý
kinh tế 41
Chương 2. THỰC TRẠNG TƯ DUY VÀ YÊU CẦU NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ
TƯ DUY BIỆN CHỨNG ĐỐI VỚI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN
LÝ KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 46
2.1. Thực trạng tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế ở
nước ta hiện nay 46
2.1.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay 46
2.1.2. Những ưu điểm và nhược điểm trong tư duy của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay 61
2.2. Yêu cầu nâng cao trình độ tư duy biện chứng của đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay 76
2.2.1. Nắm bắt các quy luật của kinh tế thị trường 76
2.2.2. Tư duy về kinh tế phải thật sự năng động, nhạy bén, sáng tạo 77
2.2.3. Kết hợp chặt chẽ giữa tư duy về kinh tế với tư duy về chính trị 78
2.2.4. Kết hợp tư duy về kinh tế với tư duy về pháp quyền, đạo đức,
văn hóa, xã hội và môi trường 80
2.2.5. Tư duy phải hướng tới hiệu quả và lợi ích kinh tế 82
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA TƯ DUY BIỆN
CHỨNG ĐỐI VỚI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ KINH TẾ Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY 84
3.1. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 84
3.1.1. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa là cơ sở hình thành tính năng động, sáng tạo
của tư duy 84

3.1.2. Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là nhân tố
phát triển tư duy biện chứng duy vật ở cán bộ lãnh đạo, quản lý
kinh tế 93
3.2. Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức văn hóa, khoa
học - công nghệ và nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ lãnh
đạo, quản lý kinh tế 98
3.2.1. Nâng cao trình độ tư duy biện chứng thông qua đào tạo, bồi
dưỡng tri thức văn hóa nói chung và khoa học kinh tế, quản lý
kinh tế nói riêng 98
3.2.2. Nâng cao trình độ tư duy biện chứng thông qua công tác đào
tạo, bồi dưỡng về lý luận 100
3.3. Đổi mới công tác tổ chức và công tác cán bộ, coi trọng việc rèn luyện,
nâng cao trình độ tư duy biện chứng cho cán bộ lãnh đạo, quản
lý kinh tế thông qua hoạt động thực tiễn của họ 106
KẾT LUẬN 111
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 114


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực tiễn đổi mới ở Việt Nam trong những năm vừa qua đã khẳng định
rằng cán bộ là một nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách
mạng, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Hiện nay, công
cuộc đổi mới, mà trọng tâm là đổi mới kinh tế ở nước ta chỉ có thể thắng lợi
khi các cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực cần thiết, có trình độ tư duy
cao đáp ứng được nhiệm vụ mới - đó là tư duy biện chứng.
Nhận thức rõ điều đó, nghị quyết các đại hội Đảng trong nhưng năm
đổi mới cũng như nhiều nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng

và Bộ Chính trị đã thường xuyên nhấn mạnh tầm quan trọng của tư duy,
trí tuệ đối với cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế. Đại hội XI
của Đảng (2011) một lần nữa khẳng định chủ trương tiếp tục đổi mới
mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ; thực hiện tốt chiến lược cán bộ thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đổi mới tư duy, cách làm,
khắc phục những yếu kém trong từng khâu của công tác cán bộ; xây
dựng và thực hiện nghiêm các cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn,
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; trọng dụng những người có đức, có tài; nâng
cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; chú trọng xây dựng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp,…
Với một đội ngũ khá đông được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau
và trưởng thành từ thực tiễn chỉ đạo sản xuất, kinh doanh, cán bộ lãnh
đạo, quản lý kinh tế ở nước ta thời gian qua đã góp phần không nhỏ đưa
đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những thế mạnh về phẩm chất đạo đức, kinh
nghiệm thực tiễn và năng lực tư duy, những yếu kém về tư duy lý luận,
sự lạc hậu của tư duy so với sự phát triển của thực tiễn, mà đặc biệt là sự
yếu kém về tư duy biện chứng được biểu hiện trên các căn bệnh trong
phương pháp tư duy, như lối tư duy siêu hình, kinh nghiệm chủ nghĩa,
giáo điều, bảo thủ, chủ quan duy ý chí đã dẫn tới những sai lầm
nghiêm trọng trong chỉ đạo hoạt động kinh tế thời gian qua. Những yếu
kém về tư duy biện chứng, về phương pháp tư duy của đội ngũ cán bộ


2
lãnh đạo, quản lý kinh tế đang là một vấn đề hết sức cấp bách cần phải
giải quyết khi nước ta đang tập trung phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi lẽ, sự thành công hay không thành
công của quá trình này phụ thuộc rất nhiều vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý kinh tế hiện nay.

Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải nghiên cứu một cách sâu sắc vai trò tư
duy biện chứng, cũng như đánh giá đúng những mặt mạnh, mặt yếu về
phương diện tư duy ở cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế, làm rõ tầm quan
trọng của tư duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế
trong quá trình đổi mới hiện nay. Trên cơ sở đó, đề xuất những phương
hướng, giải pháp đúng đắn nhằm phát triển, rèn luyện, nâng cao trình độ
tư duy biện chứng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế. Đây
cũng là yêu cầu cấp bách mà cả lý luận và thực tiễn hiện nay đang đặt ra.
Vì những lý do đó, tác giả đã chọn vấn đề "Vai trò của tư duy biện
chứng đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay"
làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề tư duy và tư duy biện chứng duy vật đã được đề cập đến một
cách toàn diện, có hệ thống và sâu sắc trong các tác phẩm kinh điển của
chủ nghĩa Mác- Lênin. Ở Liên xô trước đây, vấn đề này chủ yếu được
bàn đến khi các tác giả trình bày về lịch sử triết học, về phép biện chứng,
lôgíc học hoặc những vấn đề của lý luận nhận thức.
Xin nêu một số công trình quan trọng sau:
- I.X. Narxki, Gorxki: Phép biện chứng của nhận thức khoa học,
Mátxcơva, 1978;
N.C. Vắctômin: Thực tiễn - tư duy - tri thức, Mátxcơva, 1978.
- M.M. Rôdentan: Nguyên lý lôgíc biện chứng, Trường Đảng cao cấp
Nguyễn Ái Quốc, 1979;
- K.C. Orutjep: Lôgic biện chứng, Mátxcơva, 1981;
- I.D. Anđrâyep: Lôgíc biện chứng, Mátxcơva, 1985;
- Lịch sử phép biện chứng mácxít. Từ khi xuất hiện chủ nghĩa Mác
đến giai đoạn Lênin. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1986;


3

- A.P. Septulin: Phương pháp nhận thức biện chứng, Nxb Sách giáo
khoa Mác-Lênin, Hà Nội, 1987
Ở Việt Nam, trong thời kỳ đổi mới đất nước, đã có rất nhiều công
trình tập trung nghiên cứu ở những khía cạnh khác nhau của vấn đề tư
duy, tư duy biện chứng và thu được kết quả to lớn.
Xin nêu một số công trình cơ bản sau:
- Lê Hữu Tầng: Về phương pháp biện chứng, Triết học, số 3/1984;
- Ngô Thành Dương: Một số khía cạnh về phép biện chứng duy vật,
Nxb Sách giáo khoa Mác-Lênin, Hà Nội, 1986.
- Nguyễn Văn Linh: Đổi mới tư duy và phong cách, Nxb Sự thật, Hà
Nội, 1987.
- Nguyễn Duy Quý: Đổi mới tư duy: Nội dung và phương hướng,
Triết học, số 1/1987;
- Nguyễn Ngọc Long: Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi
mới tư duy, Tạp chí Cộng sản, số 10/1987;
- Lê Hữu Nghĩa: Một số căn bệnh trong phương pháp tư duy của cán
bộ ta, Triết học, số 2/1988;
- Trần Hữu Tiến: Đổi mới tư duy lý luận - vấn đề cấp bách hiện nay,
trong sách: “Mấy vấn đề cấp bách về đổi mới tư duy lý luận”, Học viện
Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội, 1988;
- Lại Văn Toàn: Đổi mới tư duy. Tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi
mới, Triết học, số 1/1988;
- Nguyễn Trọng Chuẩn (chủ biên): Về sự phát triển của xã hội ta
hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991.
- Phạm Ngọc Quang: Thử vận dụng lý luận về mâu thuẫn vào thời kỳ
quá độ ở nước ta, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991;
- Vũ Văn Viên: Suy nghĩ về những định hướng trong nghiên cứu và
giảng dạy Lô gích học thời gian tới, Triết học, số 1/1992;
- Hồ Bá Thâm: Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo chủ chốt cấp xã hiện nay, Luận án PTS, Học viện Chính trị Quốc gia

Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1994;


4
- Trần Văn Phòng: Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa ở đội ngũ cán bộ
nước ta trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Luận án PTS, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1994;
Tuy nhiên, có một điểm chung là đa số các tác giả đều tiếp cận vấn
đề từ góc độ triết học, do đó thường tập trung vào giải quyết những vấn
đề lý luận chung, mang tính khái quát và phổ biến. Bên cạnh đó cũng có
một số tác giả bàn riêng về tư duy kinh tế, nhưng trong các tác phẩm này
mối liên hệ giữa tư duy biện chứng với tư duy kinh tế dường như chưa
được quan tâm đúng mức. Như vậy, cho đến nay, dường như chưa có
công trình khoa học nào nghiên cứu một cách riêng biệt, có hệ thống và
chuyên sâu về vai trò của tư duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo,
quản lý kinh tế.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích của luận văn: Trên cơ sở làm sáng tỏ vai trò của tư
duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế, cũng như thực
trạng tư duy của đội ngũ cán bộ này ở nước ta, đề xuất một số giải pháp
cơ bản nhằm nâng cao trình độ tư duy biện chứng cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn:
- Làm rõ các phạm trù tư duy, tư duy biện chứng
- Làm rõ vai trò tư duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế.
- Phân tích thực trạng tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
kinh tế ở nước ta hiện nay và yêu cầu nâng cao trình độ tư duy biện
chứng ở đội ngũ cán bộ này.
- Đề xuất một số giải pháp và phương pháp cơ bản nhằm nâng cao
năng lực và trình độ tư duy biện chứng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh

tế ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tư duy biện chứng của
cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế cấp chiến lược ở nước ta.


5
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn là vai trò của tư duy biện
chứng đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế cấp chiến lược ở nước ta
từ khi đổi mới đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhất là những nguyên lý
của phép biện chứng, lý luận nhận thức và lôgíc biện chứng. Luận văn quán
triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng các Nghị quyết của Đảng, sử dụng
các công trình của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan
đến đề tài luận văn.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn đã sử dụng các phương
pháp, như phân tích và tổng hợp; qui nạp và diễn dịch; lịch sử và lôgíc;
phương pháp so sánh; phương pháp thống kê và các phương pháp khác.
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần làm rõ vai trò của tư duy biện chứng đối với cán bộ lãnh
đạo, quản lý kinh tế cấp chiến lược ở nước ta hiện nay.
- Khái quát một số đặc điểm nói lên thực trạng tư duy ở cán bộ lãnh
đạo, quản lý kinh tế, từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng
cao trình độ tư duy biện chứng cho đội ngũ cán bộ này ở nước ta hiện
nay.
Kết quả nghiên cứu trong luận văn có thể được sử dụng như một tài
liệu tham khảo cho công tác đào tạo, qui hoạch và sử dụng cán bộ, đặc biệt
là cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay.

Kết quả của luận văn cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
việc nghiên cứu và giảng dạy Triết học, Xây dựng Đảng, Kinh tế học
trong hệ thống các trường Đảng, các trường đại học và cao đẳng ở nước
ta.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm có 3 chương, 7 tiết.



6
Chương 1
TƯ DUY BIỆN CHỨNG VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI
CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ KINH TẾ Ở NƯỚC TA

1.1. Tư duy và tư duy biện chứng
1.1.1. Tư duy là quá trình phản ánh ở trình độ lý tính đối với hiện
thực khách quan
Tư duy là một thuộc tính cố hữu của con người, là một trong những
tiêu chí để đánh giá năng lực hoạt động nhận thức và thực tiễn của các
chủ thể. Việc nghiên cứu tư duy, vì lẽ đó, đã từ lâu rất được chú trọng.
Tư duy của con người được nghiên cứu trong những lĩnh vực khoa học
khác nhau.
Tư duy có một số đặc trưng sau:
Thứ nhất: Tư duy phản ánh cái chung. Cái chung ở đây được hiểu là
những dấu hiệu, những thuộc tính chung của sự vật. Tư duy là trình độ
nhận thức ở mức lý tính, và chỉ ở trình độ nhận thức này mới có thể phản
ánh được những thuộc tính chung, mang tính phổ biến và cơ bản của sự
vật.
Thứ hai: Trừu tượng hóa cũng là nét đặc trưng của tư duy. Như trên

đã trình bày, trong hiện thực cái chung không tách khỏi cái riêng. Việc
tách cái chung ra khỏi cái riêng trong tư duy chính là sự trừu tượng hóa.
Nói như vậy không có nghĩa việc tách cái chung ra khỏi cái riêng là tất
cả sự trừu tượng hóa của tư duy.
Thứ ba: Tư duy phản ánh thế giới khách quan một cách gián tiếp.
Tư duy có tính gián tiếp vì tư duy phải dựa trên cơ sở các hình thức nhận
thức cảm tính. Cảm giác, tri giác, biểu tượng là những hình thức nhận
thức trực tiếp với sự vật. Nhờ tính gián tiếp, có khả năng tách rời nhất
định với sự vật nên tư duy có sức mạnh to lớn trong sự phản ánh thế giới.
Song điều đó cũng tạo nên khả năng dễ rơi vào ảo tưởng, thoát ly thực tế.
Thứ tư: Tư duy phản ánh thế giới khách quan một cách tích cực,
sáng tạo trên cơ sở hoạt động thực tiễn của con người. Tư duy của con
người là để chỉ đạo cho hành động của con người, nó có xu hướng


7
"hướng ngoại", hiện thực hóa chứ không dừng lại ở trong đầu óc con
người.
1.1.2. Bản chất và đặc điểm của tư duy biện chứng
1.1.2.1. Bản chất tư duy biện chứng
Tư duy biện chứng đã được hình thành từ rất sớm ở trình độ tự phát,
chất phác. Trong triết học phương Đông (Trung Quốc, Ấn Độ ) cổ đại
không bàn trực tiếp về tư duy biện chứng, song đã có những yếu tố của
tư duy biện chứng trong các học thuyết của họ.
Tư duy biện chứng là tư duy phản ánh những mối liên hệ, sự vận
động, phát triển của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
1.1.2.2. Một số đặc điểm cơ bản của tư duy biện chứng
Tư duy biện chứng mácxít là trình độ cao của tư duy biện chứng ở
trình độ lý luận. Tư duy đó không chỉ dựa trên các quy luật của tự nhiên,
xã hội và tư duy mà còn dựa trên các quy luật biện chứng riêng của tư

duy được phản ánh trong lôgíc biện chứng mácxít. Tư duy biện chứng
mácxít có một số đặc điểm cơ bản sau.
a) Nắm bắt và vận dụng được trong tư duy các quy luật phổ biến của
phép biện chứng duy vật.
Trong tư duy biện chứng, bước nhảy có những đặc tính cơ bản sau:
Thứ nhất: từ tích lũy về mặt lượng những sự kiện riêng lẻ, những tư
liệu về sự vật đến chỗ khái quát thành những kết luận, những khái niệm về
bản chất sự vật. Đây là một bước nhảy vọt quan trọng trong quá trình
nhận thức.
Thứ hai: những khái niệm, phán đoán, suy lý, những quy luật khoa
học được hình thành từ những tài liệu về sự vật đã tích lũy không phải là
sự tổng hợp giản đơn về số lượng những tài liệu ấy, mà nó là sự khái
quát có khả năng vạch ra bản chất ẩn náu trong vô số tài liệu ấy. Kết quả
của sự vận động đó của tư duy là sự hiểu biết tương đối hoàn chỉnh về sự
vật với những tri thức bản chất nhất, về sự vật, hiện tượng dưới dạng
phản ánh lý tính.
Thứ ba: kết quả đó cũng lại là một hạn độ của tư duy trong tiến trình
chiếm lĩnh đối tượng, đi từ bản chất cấp một đến bản chất cấp hai Tư


8
duy con người không gì khác hơn là kết quả của hàng triệu những tư duy
của con người cụ thể.
b) Tư duy biện chứng phải nắm bắt và vận dụng được các nguyên
tắc của lôgíc biện chứng mácxít.
Trước hết, tư duy biện chứng phải tuân thủ nguyên tắc khách quan.
Tính khách quan của tư duy biện chứng mácxít trước hết phải là sự tái
hiện bản thân đối tượng đúng như nó vốn có.
Tóm lại, tư duy biện chứng phải tuân thủ hàng loạt các nguyên tắc,
có như vậy mới phản ánh đúng đắn được sự vật, hiện tượng, đồng thời đi

sâu vào nắm bắt được quy luật, bản chất của nó.
1.2. Vai trò cuả tư duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo, quản
lý kinh tế
1.2.1. Khái niệm lãnh đạo, quản lý kinh tế
Lãnh đạo thực chất là quá trình tác động đến con người làm sao cho
họ nhiệt tình và hăng hái trong công việc nhằm đạt được những mục đích
nhất định của một tổ chức hay một nhóm xã hội. Người ta có thể xem xét
công tác lãnh đạo như một quá trình tác động qua lại - tức tương tác giữa
chủ thể (người lãnh đạo) và khách thể (người bị hay được lãnh đạo).
Lãnh đạo là quá trình chủ thể lãnh đạo tác động đến khách thể lãnh đạo
nhằm điều khiển khách thể theo một mục tiêu nhất định. Trong quá trình
đó, chủ thể lãnh đạo cũng thu nhận được những tác động từ phía khách thể
lãnh đạo.
1.2.2. Tư duy lãnh đạo, quản lý kinh tế
Khi nói đến công tác lãnh đạo, các tác giả phương Tây thường khái
quát thành nghệ thuật lãnh đạo. Cố nhiên, khi nói nghệ thuật lãnh đạo là
đề cập tới sự lãnh đạo thành công. Theo họ, một nhà lãnh đạo khi hành
động biến công tác lãnh đạo thành một nghệ thuật là khi họ kết hợp được
một cách nhuần nhuyễn ba yếu tố cơ bản cấu thành sự lãnh đạo: 1) khả
năng thấu hiểu được rằng những con người có những động cơ thúc đẩy
khác nhau ở những hoàn cảnh và thời gian khác nhau, 2) có khả năng cổ
vũ và khích lệ người dưới quyền, và 3) khả năng hành động theo một
phương pháp mà nó sẽ tạo ra một bầu không khí hữu ích cho sự hưởng
ứng và khơi dậy được các động cơ thúc đẩy mọi người.


9
Như vậy, xét từ trong bản chất của tư duy lãnh đạo kinh tế và yêu
cầu đối với người cán bộ lãnh đạo kinh tế thì tư duy lãnh đạo kinh tế
phải là tư duy mang tính biện chứng duy vật và người lãnh đạo kinh tế

theo một nghĩa nào đó phải là nhà biện chứng duy vật.
Trong xã hội hiện đại, triết học ngày càng có vai trò vô cùng to lớn,
đặc biệt là triết học duy vật biện chứng do C. Mác xây dựng. Triết học
duy vật biện chứng với một hệ thống chức năng quan trọng của mình,
trong đó đặc biệt là hai chức năng thế giới quan và phương pháp luận
đang ngày càng trở thành một nhân tố quyết định đối với tư duy và hành
động của mỗi con người cũng như các cộng đồng, dân tộc trong thời đại
nhiều biến động của toàn cầu hóa hiện nay.
1.2.3. Vai trò của tư duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo, quản
lý kinh tế
Tư duy biện chứng trong triết học Mác-Lênin sẽ cho con người ta
xem xét sự vật một cách khách quan, toàn diện, phát triển, lịch sử - cụ
thể và thực tiễn, chính vì thế mà chủ thể hoạt động tránh được sự chủ
quan, phiến diện, cứng nhắc, giáo điều, xa rời thực tiễn và đồng thời
cũng tránh được sự dao động, chao đảo, cực đoan hay ngả nghiêng
chuyển từ cực này sang cực khác.
Chính vì vai trò hết sức quan trọng của tư duy biện chứng đối với
mỗi con người trong quá trình hoạt động nên ta có thể khẳng định, trong
bối cảnh hiện nay nếu người cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế không có
trình độ tư duy biện chứng cao và vận dụng được nó vào quá trình lãnh
đạo, quản lý kinh tế thì không thể lãnh đạo kinh tế thành công, có hiệu
quả.
Thứ nhất, ra quyết định, đối với người lãnh đạo ở tầm vĩ mô việc ra
quyết định là vô cùng quan trọng. Trong công tác lãnh đạo mỗi quyết
định được đề ra phải vừa đúng đắn vừa đúng lúc. Để ra được quyết định
đáp ứng yêu cầu đó thì người lãnh đạo phải có đầy đủ thông tin, các
thông tin phải cập nhật, các thông tin ấy phải khách quan, đầy đủ, toàn
diện và cụ thể. Như thế, nếu không có phương pháp nhận thức biện
chứng, không có tư duy biện chứng thì người lãnh đạo không có đủ cơ sở
để đề ra được quyết định đúng đắn và kịp thời.



10
Thứ hai, tổ chức thực hiện quyết định. Đối với một quyết định trong
lĩnh vực kinh tế, rõ ràng người lãnh đạo khi tổ chức thực hiện quyết định
đó cần nhận thức đầy đủ những khó khăn và thuận lợi khi triển khai kế
hoạch thực hiện quyết định; cần dự báo và nắm được những mâu thuẫn
nảy sinh, những vấn đề xuất hiện cần được xử lý kịp thời; cần xem xét
một cách toàn diện các khả năng để thực hiện quyết định và xây dựng
phương án dự phòng.
Thứ ba, phát hiện và giải quyết các mối quan hệ trong quá trình
lãnh đạo, quản lý kinh tế. Khi đề ra và triển khai thực hiện các đường lối,
chính sách hay các quyết định kinh tế lớn bao giờ cũng tác động, ảnh hưởng
tới hầu như mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, như kinh tế và chính trị,
kinh tế và đạo đức, kinh tế và văn hóa - xã hội, kinh tế thị trường và định
hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế và tự chủ kinh tế, tăng trưởng
kinh tế và công bằng xã hội, phân hóa giàu nghèo Nắm bắt được một
cách đầy đủ các quan hệ đa dạng, phức tạp, phong phú và hiện thực đó
người cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế mới có thể kịp thời điều chỉnh,
sửa chữa, bổ sung quyết định cũ và kịp thời đề ra những quyết định mới
phù hợp vừa đúng và vừa trúng. Ở đây vai trò của tư duy biện chứng
chắc chắn càng trở nên vô cùng quan trọng.
Thứ tư, kiểm tra là một mắt khâu không thể thiếu trong quá trình
lãnh đạo kinh tế. Bởi vì, không kiểm tra coi như không lãnh đạo. Để
kiểm tra đúng, phát hiện được vấn đề, tìm ra đúng nguyên nhân, người
lãnh đạo cần phải có tư duy biện chứng duy vật.
Thứ năm, tổng kết rút kinh nghiệm là một trong những khâu quan
trọng của qui trình lãnh đạo, kể cả lãnh đạo kinh tế. Không dừng lại đơn
thuần ở tổng kết rút kinh nghiệm khi kết thúc một giai đoạn, một kế
hoạch, một chương trình để chuyển sang một giai đoạn, một kế hoạch

khác. Tư duy biện chứng sẽ giúp người lãnh đạo rút ra những bài học
kinh nghiệm mang tính tổng quát, chung hơn, sâu sắc hơn nhằm tìm ra
cái chung, cái phổ biến, cái tất yếu, cái căn bản đóng vai trò chi phối
toàn bộ quá trình, cái xu hướng mang tính qui luật Đồng thời, việc
phân tích tổng kết rút kinh nghiệm cũng nhằm tìm ra cái đặc thù của thời
đại đang tác động đến nền kinh tế của mỗi quốc gia. Với tư duy biện


11
chứng, tổng kết rút kinh nghiệm chính là đúc kết thành những bài học,
thành lý luận phát triển, vạch ra nguyên nhân của những thành công và
chưa thành công. Và điều cơ bản là, với tư duy biện chứng nó cho phép
người lãnh đạo có thể dự báo chính xác xu hướng vận động và phát triển
của các quá trình kinh tế trong tương lai.
Từ thực tế trên đây đòi hỏi người lãnh đạo, quản lý kinh tế để làm
tốt chức trách và nhiệm vụ của mình, bản thân họ phải có một tư duy
kinh tế mới mang tính tổng hợp phù hợp với dân tộc và thời đại. Tư duy
lãnh đạo, quản lý kinh tế trong điều kiện lãnh đạo nền kinh tế nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa phải là tư duy biện chứng duy
vật. Đây là vấn đề mấu chốt đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế của
Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.


12
Chương 2
THỰC TRẠNG TƯ DUY VÀ YÊU CẦU NÂNG CAO
TRÌNH ĐỘ TƯ DUY BIỆN CHỨNG ĐỐI VỚI CÁN BỘ
LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY


2.1. Thực trạng tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế
ở nước ta hiện nay
2.1.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến tư duy của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay
Tư duy là một bộ phận của hoạt động tinh thần của con người, cũng
như các dạng hoạt động tinh thần khác phản ánh tồn tại xã hội, tư duy
cũng có tính độc lập tương đối nhất định. Nhưng cũng như các dạng hoạt
động tinh thần khác của con người, tư duy bao giờ cũng bị qui định, bị
phụ thuộc bởi hiện thực xã hội. Mà như chúng ta biết, trong tồn tại xã
hội thì nhân tố quan trọng nhất là phương thức sản xuất. Phương thức
sản xuất xã hội như thế nào sẽ tạo nên một dạng tư duy tương thích và sự
biến đổi của phương thức sản xuất sẽ tất yếu dẫn đến sự biến đổi của tư
duy sao cho phù hợp. Ngoài sự qui định bởi phương thức sản xuất xã
hội, tư duy của con người còn chịu sự tác động, chi phối của các hình
thái ý thức xã hội hiện tồn.
Như vậy, tư duy của con người tại một thời điểm lịch sử nhất định là
sản phẩm tổng hợp của nhiều nhân tố. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể
là như thế, còn vào một thời điểm lịch sử nhất định của một cộng đồng
nhất định thì hoạt động căn bản nhất của cộng đồng ấy vào thời điểm ấy
sẽ qui định nội dung, tính chất và mục đích tư duy của người ta.
2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên và lịch sử dân tộc
2.1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội truyền thống
2.1.1.3. Sự giao lưu văn hóa và tư tưởng
2.1.1.4. Ảnh hưởng của các nhân tố thời đại
2.1.1.5. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định sự hình thành tư duy
mới ở cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế nước ta


13

2.1.2. Những ưu điểm và nhược điểm trong tư duy của đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay
2.1.2.1. Những ưu điểm trong tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay.
- Tư duy kinh nghiệm phong phú, tư duy mang tính thiết thực
- Tư duy kinh tế năng động nhạy bén, bước đầu có tư duy mới phù
hợp với kinh tế thị trường
- Bước đầu kết hợp kinh tế với chính trị trong tư duy
2.1.2.2. Những nhược điểm trong tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý kinh tế
Như vậy, về mặt tư duy và năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý kinh tế Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương
khóa VIII về công tác cán bộ nhấn mạnh hai điểm yếu kém là: 1) Trình
độ kiến thức, năng lực lãnh đạo và quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ mới, nhất là về quản lý kinh tế thị trường và 2) Kinh nghiệm
còn ít, năng lực còn hạn chế, tổ chức kinh doanh còn kém hiệu quả, quan
hệ với người nước ngoài còn nhiều sơ hở, mất cảnh giác, không ít cán bộ
chưa quán triệt đầy đủ đường lối, chính sách của Đảng, nặng về kinh
doanh đơn thuần.
- Trình độ kiến thức kinh tế còn thấp, thiếu hệ thống nhất là kiến
thức về kinh tế thị trường.
- Năng lực tư duy lý luận, tư duy lôgíc yếu kém
- Còn những biểu hiện của tư duy siêu hình.
- Tư duy còn chịu ảnh hưởng nặng nề của các quan niệm tiêu cực
trong đạo đức truyền thống.
2.2. Yêu cầu nâng cao trình độ tư duy biện chứng của đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay
2.2.1. Nắm bắt các quy luật của kinh tế thị trường
Để nhận thức và nắm bắt đúng, đầy đủ hệ thống các quy luật kinh tế
thị trường hiện nay phải có một tư duy ở trình độ cao. Tư duy đó phải là

tư duy biện chứng ở trình độ lý luận. Chỉ có tư duy về kinh tế một cách
biện chứng mới giúp đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế của chúng


14
ta trong giai đoạn hiện nay "tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan".
2.2.2. Tư duy về kinh tế phải thật sự năng động, nhạy bén, sáng tạo
Tư duy kinh tế năng động, nhạy bén, sáng tạo là một trong những thế
mạnh trong tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế của chúng ta
hiện nay. Nói như thế không có nghĩa năng lực tư duy của đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế của chúng ta ở khía cạnh này đã phù hợp với
kinh tế thị trường.
Thật vậy, như đã nêu ở trên, những phẩm chất tư duy kinh tế năng
động, nhạy bén, sáng tạo của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế
của chúng ta thường được biểu hiện trong sự hòa nhịp, nhập cuộc, xử lý
tình huống, giải quyết nhanh các vấn đề cụ thể Những phẩm chất này
là vô cùng đáng quý. Nhưng nhìn một cách tổng thể nó chỉ là những
phẩm chất tư duy mang tính ứng phó, lệ thuộc, bị động, giải quyết các vụ
việc trước mắt và thường là ở tầm vi mô.
2.2.3. Kết hợp chặt chẽ giữa tư duy về kinh tế với tư duy về chính
trị
Công cuộc đổi mới đất nước thực hiện kinh tế nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường nhưng đó không phải là kinh tế thị trường tự
do như ở các nước tư bản chủ nghĩa mà là có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đường lối cơ bản này cho thấy vấn đề
chính trị của phát triển kinh tế là hết sức rõ ràng. Đại hội VIII của Đảng
ta chỉ rõ: "Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà
là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có kết quả bằng những quan niệm
đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, bằng những hình thức, bước đi và những

biện pháp thích hợp".
2.2.4. Kết hợp tư duy về kinh tế với tư duy về pháp quyền, đạo đức,
văn hóa, xã hội và môi trường
Yêu cầu tư duy về kinh tế phải gắn với tư duy về chính trị cũng có
nghĩa là tư duy ấy phải mang tính xã hội, nhân văn cao. Trong điều kiện
kinh tế thị trường hiện nay, tính tất yếu kinh tế không chỉ qui định suy
nghĩ và hành động của con người mà còn chi phối cả đạo đức tình cảm
của mọi người. Mặc dù chúng ta mới bước vào kinh tế thị trường nhưng


15
những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, của lối sống tiêu thụ, thực
dụng và sự xuất hiện ngày càng gia tăng các tệ nạn trong đời sống xã hội
- như là mặt trái của cơ chế thị trường - là một sự thật hết sức đáng lo
ngại.
2.2.5. Tư duy phải hướng tới hiệu quả và lợi ích kinh tế
Tất cả những yêu cầu nêu trên là những đòi hỏi hết sức cốt yếu đối
với tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế của chúng ta hiện
nay. Nhưng dẫu sao thì một vấn đề mang tính cốt yếu nhất, căn bản nhất
đối với tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế hiện nay cuối
cùng vẫn là: tư duy lãnh đạo, quản lý kinh tế phải là tư duy hướng tới
hiệu quả và lợi ích kinh tế. Bởi vì, xét cho cùng, hoạt động của con
người là nhằm đạt được những lợi ích nhất định. Thế thì, hoạt động kinh
tế nói chung và lãnh đạo, quản lý kinh tế nói riêng trước hết phải là nhằm
đạt được hiệu quả kinh tế và lợi ích kinh tế cao nhất. Nếu không đạt
được những lợi ích kinh tế đã được đề ra nhất định thì rõ ràng sự lãnh
đạo, quản lý kinh tế đó là không thành công. Chính trên cơ sở hiệu quả
kinh tế và lợi ích kinh tế đạt được mà đánh giá tư duy kinh tế của người
lãnh đạo là đúng đắn hay sai lầm.
Như vậy, để đạt được hiệu quả kinh tế và lợi ích kinh tế cao trong cơ

chế thị trường mở cửa hiện nay, vấn đề đặt ra đối với đội ngũ cán bộ
lãnh đạo kinh tế là họ phải rèn luyện và phấn đấu đạt tới trình độ tư duy
biện chứng - tư duy biện chứng chính là yêu cầu bao trùm, chính là phẩm
chất, là năng lực đảm bảo sự thành công của đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.






16
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA TƯ DUY
BIỆN CHỨNG ĐỐI VỚI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

3.1. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
3.1.1. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa là cơ sở hình thành tính năng động, sáng tạo
của tư duy
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã trình bày một
cách sâu sắc quan điểm của Đảng ta về "Định hướng xã hội chủ nghĩa
trong việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần" như sau:
- Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần
- Chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà
nước, kinh tế hợp tác. Kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cùng với
kinh tế hợp tác xã dần dần trở thành nền tảng Mở rộng các hình thức

liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế
khác cả trong và ngoài nước. Áp dụng phổ biến các hình thức kinh tế tư
bản nhà nước.
- Tăng cường hiệu lực quản lý vĩ mô của Nhà nước, khai thác triệt để
vai trò tích cực đi đôi với khắc phục và ngăn ngừa, hạn chế những tác động
tiêu cực của cơ chế thị trường. Bảo đảm bình đẳng về quyền và nghĩa vụ
trước pháp luật của mọi doanh nghiệp và cá nhân không phân biệt thành
phần kinh tế.
Như vậy, kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường trở thành hoàn cảnh khách quan độc lập đối với ý chí của người
cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế, buộc họ phải thấy được tình hình tổ
chức, nhân lực, điều kiện vật chất, điều kiện xã hội, điều kiện tự nhiên
hết sức phức tạp. Các điều kiện đó, đan xen nhau, vừa thống nhất vừa
mâu thuẫn. Hoàn cảnh lãnh đạo kinh tế của mỗi người là khác nhau, ở
những cương vị khác nhau, ở mỗi giai đoạn khác nhau, mỗi hoàn cảnh


17
lãnh đạo đều có những thuận lợi và khó khăn riêng, các thuận lợi và khó
khăn cũng hết sức sinh động và có thể chuyển hóa. Do vậy, người cán bộ
lãnh đạo luôn phải kịp thời nắm vững tình hình mới, vấn đề mới không
ngừng xuất hiện. Từ đó định hướng đúng mục tiêu lãnh đạo, trên cơ sở
thực tế khách quan, tránh bảo thủ cũng như không nên nóng vội, phiêu
lưu mạo hiểm. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, nếu bảo thủ,
trì trệ không tránh khỏi tụt hậu, thất bại. Cố nhiên, nếu phiêu lưu, mạo
hiểm thì hậu quả xảy ra nhiều khi cũng hết sức nguy hiểm, khôn lường.
3.1.2. Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là nhân
tố phát triển tư duy biện chứng duy vật ở cán bộ lãnh đạo, quản lý
kinh tế
Ở nước ta, vấn đề công nghiệp hóa đất nước đã được đặt ra từ Đại

hội III của Đảng. Trong Đại hội này Đảng ta xác định công nghiệp hóa là
nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ. Vấn đề này được tiếp tục khẳng
định ở các Đại hội IV, V, VI, VII, VIII, IX, X, XI của Đảng.
3.2. Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức văn hóa, khoa
học - công nghệ và nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ lãnh đạo,
quản lý kinh tế
3.2.1. Nâng cao trình độ tư duy biện chứng thông qua đào tạo, bồi
dưỡng tri thức văn hóa nói chung và khoa học kinh tế, quản lý kinh tế nói
riêng
Để nâng cao trình độ tư duy của con người thì điều cơ bản là họ phải
được đào tạo, bồi dưỡng một cách đầy đủ, có hệ thống tri thức khoa học
và được rèn luyện trong thực tiễn đời sống. Đối với cán bộ lãnh đạo,
quản lý kinh tế thì nếu chỉ đào tạo bồi dưỡng cung cấp cho họ các kiến
thức chuyên sâu về các lĩnh vực kinh tế là chưa đủ mà với vai trò và vị
trí của họ, cần phải trang bị cho họ một cách đầy đủ tri thức văn hóa nói
chung. Những tri thức văn hóa chung này sẽ góp phần tạo nên nhân cách
văn hóa và tầm nhìn của người cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế


18
3.2.2. Nâng cao trình độ tư duy biện chứng thông qua công tác đào
tạo, bồi dưỡng về lý luận
Trong xã hội hiện đại, giai cấp công nhân, với tư duy biện chứng
phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan, mới bảo đảm được lợi ích phát
triển chung của cả nhân loại. Người cộng sản, không áp đặt ý muốn chủ
quan của mình bắt lịch sử phải khuôn theo mà cố gắng nhận thức, phản
ánh đúng lôgíc khách quan của lịch sử.
3.3. Đổi mới công tác tổ chức và công tác cán bộ, coi trọng việc
rèn luyện, nâng cao trình độ tư duy biện chứng cho cán bộ lãnh đạo,
quản lý kinh tế thông qua hoạt động thực tiễn của họ

Trong công tác cán bộ, việc tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ nói chung
và từng loại cán bộ nói riêng nhằm đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đồng thời, tạo động lực kích
thích cho cán bộ tự giác phấn đấu, rèn luyện và học tập để nâng cao trình
độ và năng lực công tác. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần
thứ ba (khóa VIII) đã nghiêm túc đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ hiện
nay, ngoài mặt mạnh cũng bộc lộ nhiều yếu kém và hạn chế, đồng thời
đã đề ra những tiêu chuẩn chung cho đội ngũ cán bộ về cả ba mặt: phẩm
chất chính trị; đạo đức, lối sống; kiến thức, trình độ, năng lực.
Để cụ thể hóa các tiêu chuẩn của Đảng đề ra cho cán bộ quản lý kinh
doanh nói riêng và cán bộ lãnh đạo kinh tế nói chung trong điều kiện
phát triển kinh tế thị trường hiện nay, cần thiết phải thực hiện một số nội
dung cụ thể sau:
- Đổi mới công tác cán bộ
Trước hết, cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế phải là
những người có năng lực. Tài năng cá nhân trong hoạt động thực tiễn,
thể hiện tố chất chuyên sâu của người cán bộ. Việc Đảng và Nhà nước ta
nhấn mạnh tính chất của nền giáo dục ở nước ta là đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, tạo ra đội ngũ chuyên gia có trình độ chuyên sâu trong
các lĩnh vực hoạt động khoa học và kinh tế, phù hợp với việc xây dựng
cơ chế kinh tế thị trường, là một nội dung cần được coi trọng trong việc
xây dựng con người và tiêu chuẩn hóa cán bộ. Cơ chế kinh tế thị trường,
đòi hỏi mỗi người phải tự nâng cao năng lực chuyên môn của mình,


19
người cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế cũng vậy. Trong chính sách cán
bộ, phải thực sự tạo ra cơ chế lựa chọn, đề bạt và bồi dưỡng, sử dụng
những người có năng lực tức là những nhân tài. V.Lênin đã chỉ rõ rằng,
việc lựa chọn cán bộ để bố trí công việc phải xuất phát từ lợi ích của

cách mạng, người cán bộ phải có đủ năng lực để đảm đương công việc
được giao. Như vậy, việc lựa chọn cán bộ chính là một công việc khoa
học. Tránh tình trạng, một người không hiểu biết về kinh tế đi lãnh đạo
kinh tế. sắp xếp, điều động cán bộ một cách tùy tiện, đang làm một công
tác khác không liên quan gì đến kinh tế sang lãnh đạo kinh tế. Phải có
một chính sách cán bộ mà trong đó thống nhất giữa qui hoạch, đào tạo và
sử dụng. Có như thế mới động viên, phát huy và khơi dậy được lòng
nhiệt tình, tinh thần hăng say với công việc của người cán bộ lãnh đạo,
thực sự phát huy được khả năng và năng lực sáng tạo ở người cán bộ
lãnh đạo kinh tế trong điều kiện nhiều biến động hiện nay.
Về sử dụng cán bộ, Hồ Chí Minh chỉ rõ, trước hết phải hiểu và đánh
giá đúng cán bộ:
Phải khéo dùng cán bộ, Không ai cái gì cũng tốt, cái gì cũng hay. Vì
vậy, chúng ta phải khéo dùng người, sửa chữa những khuyết điểm cho
họ, giúp đỡ ưu điểm của họ. Thường chúng ta không biết tùy tài mà dùng
người. Thí dụ: thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo đi rèn dao.
Thành thử hai người đều lúng túng. Nếu biết tùy tài mà dùng người, thì
hai người đều thành công Người đời, ai cũng có chỗ tốt và chỗ xấu. Ta
phải khéo nâng cao chỗ tốt, khéo sửa chữa chỗ xấu cho họ.
Theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong quan điểm lựa chọn
cán bộ phải chuyển từ chỗ bó hẹp trong thói quen kinh nghiệm sang việc
chú trọng tài năng. Thấm nhuần tư tưởng của Bác, trong chiến lược cán
bộ của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ta đã chỉ rõ:
Trên cơ sở phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, nâng cao dân trí
để xây dựng đội ngũ cán bộ một cách cơ bản, chính qui, có hệ thống;
đồng thời thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của
nhân dân để giáo dục, rèn luyện, đào tạo, đánh giá, sàng lọc, tuyển chọn
cán bộ.



20
Không đánh giá, sử dụng cán bộ một cách cảm tính, chủ quan. Mọi phẩm
giá và bằng cấp, danh hiệu và chức vụ, tài năng và cống hiến đều phải được
kiểm nghiệm qua hoạt động thực tiễn. Phong trào cách mạng của quần
chúng là trường học lớn của cán bộ. Phải dựa vào dân để phát hiện, kiểm
tra và giám sát cán bộ.
- Chú trọng đến phát triển trình độ và năng lực tư duy thông qua
hoạt động thực tiễn
Trình độ và năng lực tư duy thể hiện qua phương thức tư duy.
Phương thức tư duy ảnh hưởng quan trọng tới hoạt động của con người.
Phương thức tư duy khác nhau thì cách hành động cũng khác nhau.
Trong đời sống hiện thực, thường tồn tại một số phương thức thể hiện
trình độ tư duy khác nhau - tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận.
Tư duy kinh nghiệm thuần túy sẽ dẫn tới mất đi tính sáng tạo, làm
cho người cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế không vượt qua được những
trở ngại vướng mắc nảy sinh trong nền kinh tế thị trường. Bước sang thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cần có những con người có tư
duy duy lý mạnh mẽ. Trong lịch sử phát triển nền kinh tế hàng hóa tư
bản chủ nghĩa ở phương Tây đã chứng minh rằng, người làm kinh tế
hàng hóa cần có tư duy lý tính mạnh mẽ. Nguyên tắc lý tính trở thành
truyền thống tư duy, truyền thống văn hóa của các nước phương Tây
trong thời kỳ cận - hiện đại.
Một vấn đề mang tính thực tế của chúng ta hiện nay là, đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế của chúng ta một mặt trưởng thành từ thực
tiễn chỉ đạo sản xuất kinh doanh, nhưng mặt khác, họ cũng được Đảng
và Nhà nước quan tâm đào tạo và đào tạo lại. Điều cơ bản là trên cơ sở
kinh nghiệm thực tiễn phong phú và vốn kiến thức dồi dào qua đào tạo
chúng ta cần tạo ra một cơ chế mới không những phù hợp với cơ chế thị
trường mà cơ bản hơn là cơ chế ấy phát huy được tính chủ động sáng
tạo, tính năng động và nhạy bén cũng như lòng nhiệt tình cách mạng của

họ, giúp họ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lớn lao được Đảng và nhân
dân tin cậy giao cho.
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, đối với đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý kinh tế ở tầm chiến lược chỉ có tài năng thôi là chưa


21
đủ, họ cần phải có đạo đức cách mạng trong sáng, họ phải là những con
người chí công vô tư, phải coi lợi ích của Đảng, của giai cấp và của dân
tộc cao hơn lợi ích của cá nhân mình. Đó là những nhân cách cách mạng
vô sản dám hy sinh lợi ích vị kỷ cá nhân vì lợi ích chung, lợi ích lâu dài
của cách mạng. Tài và đức của người cán bộ lãnh đạo kinh tế đang được
thử thách một cách gay gắt trong điều kiện cơ chế thị trường hôm nay.
Chính trong thực tiễn chỉ đạo kinh tế, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
của chúng ta sẽ được đào tạo và trưởng thành không chỉ về đạo đức, tài
năng mà đặc biệt nhất là về nhận thức, về tư duy. Chính trong thực tiễn
đời sống kinh tế luôn luôn biến động mà tư duy của họ được rèn luyện và
phát triển.
Từ đó cho thấy, thông qua công tác lãnh đạo, quản lý người cán bộ
rèn luyện phát triển tư duy biện chứng là một phương thức hết sức quan
trọng. Dù có được trang bị kiến thức lý luận về tư duy biện chứng, nếu
không thông qua hoạt động thực tiễn, không có sự nỗ lực vận dụng kiến
thức đã học vào thực tiễn để rèn luyện và qua đó thể hiện thì cũng không
thể có tư duy biện chứng và cũng không ai nhận biết được người cán bộ
đó có trình độ, có năng lực tư duy hay không.
Thực tiễn đang có những vận động mới và nhiều tình huống phức tạp
đặt ra trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi
người cán bộ lãnh đạo kinh tế phải có sự vận động mới về tư duy. Qua
quá trình lãnh đạo, quản lý kinh tế trong điều kiện hiện nay, đội ngũ cán
bộ lãnh đạo kinh tế có điều kiện để rèn luyện, phát triển, trưởng thành và

sẽ bộc lộ trình độ và năng lực tư duy của mình.




22
KẾT LUẬN

Với xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ trên thế giới,
chưa bao giờ nhân tố con người lại được mọi quốc gia đề cao như hiện
nay. Phát huy vai trò của con người, về thực chất, nhằm phát huy và khai
thác năng lực trí tuệ của họ, trong đó đặc biệt là tư duy. Chính vì thế, tư
duy ở trình độ cao - tư duy biện chứng đang có vai trò hết sức quan trọng
và vai trò ấy sẽ ngày càng tăng lên trong thời đại ngày nay. Tư duy biện
chứng là tư duy phản ánh sự vật và hiện tượng trong các mối liên hệ,
trong quá trình vận động và phát triển của chúng. Nghĩa là nó xem xét sự
vật và hiện tượng từ sự ra đời đến phát triển và diệt vong theo những qui
luật biện chứng vốn có của chúng. Tư duy biện chứng đi sâu phân tích
bản chất sự vật, vạch ra nguồn gốc, động lực thúc đẩy sự vận động, phát
triển và diệt vong của sự vật ấy trong quan hệ với sự vật khác.
Tư duy biện chứng phản ánh một cách năng động và sáng tạo biện
chứng của thực tại khách quan, vì thế nó phản ánh các qui luật cơ bản
của phép biện chứng, như qui luật mâu thuẫn, qui luật lượng - chất và qui
luật phủ định của phủ định. Tư duy biện chứng có tính độc lập tương đối, có
nét đặc thù riêng. Để nhận thức sự vật, hiện tượng một cách chân thực, đúng
đắn, tư duy biện chứng đòi hỏi sự xem xét phải tuân thủ các nguyên tắc
căn bản, như khách quan, toàn diện, phát triển, lịch sử - cụ thể, nguyên tắc
thực tiễn, lôgíc và lịch sử, trừu tượng và cụ thể, phân tích và tổng hợp, quy
nạp và diễn dịch.
Tư duy biện chứng với những phẩm chất và đặc trưng nêu trên

chính là công cụ nhận thức tiên tiến nhất trong thời đại hiện nay.
Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, tư duy biện chứng có
vai trò hết sức quan trọng đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong
quá trình đổi mới đất nước, nhất là đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý kinh tế. Do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế của chúng ta hiện nay mặc dù có rất nhiều
ưu điểm trong tư duy, nhưng nhìn chung, tư duy của họ cũng còn nhiều
hạn chế. Đó là năng lực tư duy lý luận yếu và trình độ tư duy biện chứng
nhìn chung còn thấp. Bên cạnh đó, trong tư duy của họ còn bị ảnh hưởng

×