Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Nghiên cứu, ứng dụng một số bài tập bổ trợ nhằm nâng cao thành tích nhảy xa kiểu ngồi cho nam học sinh lớp 9 Trường Trung học cơ sở Lương Thế Vinh – Thành phố Buôn Ma Thuột – ĐăkLăk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.46 KB, 50 trang )

- 1 -
ĐẶT VẤN ĐỀ
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong cuộc sống hiện nay, sức khỏe đóng vai trò rất quan trọng trong
đời sống của con người. Với phương châm “ Khỏe để xây dựng và bảo vệ
tổ quốc” hơn nữa hiện nay đất nước ta đang tiến hành công cuộc “Công
nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước”. Vì vậy đòi hỏi con người không chỉ
hiểu biết về mặt kỹ thuật mà đòi hỏi con người có một sức khỏe tốt, một
tinh thần minh mẫn, một cơ thể cường tráng. Đảng – Nhà nước, Bác Hồ
luôn quan tâm đến thế hệ trẻ. Tháng 9- 1945. Trong thư gửi cho thiếu niên
học sinh nhân ngày khai giảng năm học đầu tiên dưới chế độ mới – Nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa – Bác Hồ đã căn dặn “Cố gắng siêng năng
học tập, ngoan ngoãn nghe thầy đua bạn, để sau này đóng góp vào công
cuộc kiến thiết đất nước”. Bởi vì “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang
hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới vinh quang để sánh vai với các
cường quốc năm châu hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học
tập của các cháu”.
Trong văn kiện Đại hội VIII và Nghò Quyết Trung Ương khóa III của
Đảng về giáo dục và đào tạo và các công nghệ phải trở thành quốc sách
hàng đầu. Chuẩn bò tốt hành trang cho thế hệ trẻ bước vào thế kỷ 21.
Muốn vậy phải xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh toàn diện, không
chỉ phát triển về trí tuệ, trong sáng về đạo đức lối sống mà còn phải là
người cường tráng về thể chất.
- 2 -
Giáo dục thể chất là một quá trình sư phạm nhằm bảo vệ tăng cường
sức khỏe hoàn thiện thể chất, rèn luyện nhân cách vàø trang bò những kỹ
năng vận động cần thiết cho mỗi cá nhân trong cuộc sống.
Giáo dục thể chất và hoạt động TDTT giữ vai trò rất quan trọng, trong
đó nhảy xa là một môn không thể thiếu được của nền giáo dục Trung học
cơ sở toàn diện nói chung, giáo dục thể chất học sinh trong trường Trung
học cơ sở nói riêng. Qua thực tế giảng dạy thể dục cho học sinh lớp 9


trường THCS Lương Thế Vinh chúng tôi nhận thấy thành tích nhảy xa còn
khá thấp. Xuất phát từ những vấn đề mang tính thực tiễn trên chúng tôi
mạnh dạn nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu, ứng dụng một số bài tập bổ trợ nhằm nâng cao thành tích
nhảy xa kiểu ngồi cho nam học sinh lớp 9 Trường Trung học cơ sở Lương
Thế Vinh – Thành phố Bn Ma Thuột – ĐăkLăk
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Nghiên cứu ,ứng dụng một số bài tập bổ trợ nhằm nâng cao thành tích
nhảy xa kiểu ngồi cho nam học sinh lớp 9 Trường trung học cơ sở Lương
Thế Vinh- Thành phố Bn Ma Thuột- Tỉnh Đắk Lắk
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
Để giải quyết mục đích nghiên cứu nói trên chúng tôi đề ra 2 mục tiêu
nghiên cứu sau:
Mục tiêu 1 : Lựa chọn và xác định các bài tập bổ trợ nhằm nâng cao thành
tích nhảy xa kiểu ngồi cho nam học sinh lớp 9 Trường trung học cơ sở
Lương Thế Vinh- Thành phố Bn Ma Thuột- Tỉnh Đắk Lắk
- 3 -
Mục tiêu 2 : Đánh giá hiệu quả ứng dụng các bài tập bổ trợ nhằm nâng cao
thành tích nhảy xa kiểu ngồi cho nam học sinh lớp 9 Trường trung học cơ
sở Lương Thế Vinh- Thành phố Bn Ma Thuột- Tỉnh Đắk Lắk

- 4 -
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về công tác giáo dục thể
chất.
Trong lời kêu gọi toàn dân tập thể dục tháng 3 năm 1946, Bác Hồ đã
viết: “… Mỗi người dân khỏe mạnh làm cho cả nước mạnh khoẻ, mỗi người
dân yếu ớt làm cho cả nước yếu ớt một phần, dân cường, nước thònh. Tự tôi
ngày nào cũng tập…”

Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến mục tiêu Giáo Dục toàn diện
cho thế hệ trẻ. Trong đó Đức - Trí - Thể - Mỹ được coi là những vấn đề
quan trọng nhằm giáo dục, hình thành nhân cách cho học sinh, sinh viên -
những người chủ tương lai của đất nước, có phẩm chất cao về trí tuệ, cường
tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức (Nghò
quyết TW4 khoá VII).
Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghóa Việt Nam năm 1992
điều 41 có quy đònh: “Nhà nước và xã hội phát triển nền TDTT dân tộc
khoa học và nhân dân. Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp phát triển
TDTT, quy đònh chế độ giáo dục thể chất bắt buộc trong trường học…”.
Trong văn kiện Đại Hội VIII của Đảng đã chỉ rõ: “giáo dục và đào tạo
cùng với khoa học công nghệ phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu…
chuẩn bò tốt hành trang cho thế hệ trẻ bước vào thế kỷ 21…”. Đồng thời đã
khẳng đònh rõ: “ sự cường tráng về thể chất là nhu cầu của bản thân con
người, đồng thời là vốn quý để tạo tài sản trí tuệ và vật chất cho xã hội,
- 5 -
chăm lo cho con người về thể chất là trách nhiệm của toàn xã hội, của các
cấp, các nghành, các đoàn thể…”
Chỉ thò 36 CT/TW của ban Bí Thư TW Đảng: “ Thực hiện Giáo dục thể
chất trong tất cả các trường học, làm cho việc tập luyện TDTT trở thành
nếp sống hằng ngày cho hầu hết học sinh, sinh viên và các tầng lớp dân cư
trong cả nước.
Bộ Giáo Dục và Đào Tạo trong thông tư số 11/ 97 GD-ĐT ngày
01/8/1994 đã chỉ rõ: “…cải tiến tiêu chuẩn rèn luyện thân thể và nội dung
chương trình giảng dạy TDTT cho học sinh, sinh viên. Đào tạo và bồi
dưỡng giáo viên TDTT cho trường học các cấp. Tạo những điều kiện cần
thiết về cơ sở vật chất và kinh phí để thực hiện dạy và học thể dục bắt
buộc ở tất cả các trường học…”
Qua những Chỉ thò và Nghò quyết trên, cho thấy Đảng và Nhà nước ta
rất coi trọng việc tăng cường sức khoẻ cho nhân dân, nhất là đối với tầng

lớp học sinh, sinh viên. Trong việc xây dựng và phát triển đất nước như
hiện nay, thì việc giáo dục và phát triển thể chất là một trong những biện
pháp tích cực nhất, góp phần tăng cường và bảo vệ sức khoẻ, cải tạo nòi
giống… qua đó thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
cũng như thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng là xây dựng và bảo
vệ tổ quốc.
1.2. Sơ lược các công trình nghiên cứu về giáo dục thể chất cho học
sinh ở nước ta.
- 6 -
Ở nước ta trong nhiều năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về
lónh vực giáo dục thể chất nhằm tìm ra những quy luật và lập những thang
điểm đánh giá sự phát triển thể chất của học sinh như:
* Đánh giá tình hình sức khoẻ học sinh (Cao Quốc Việt - Vũ Việt Bắc,
năm 1972).
* Nghiên cứu đánh giá thực trạng công tác giáo dục thể chất và phát
triển TDTT trong nhà trường các cấp (PGS Vũ Đức Thu - Phùng Thò Hòa -
Vũ Bích Huệ – Th.s Nguyễn Trọng Hải) cho thấy chất lượng giờ thể dục
còn thấp, hoạt động ngoại khoá chưa được chú trọng. Các trường vùng cao,
vùng sâu còn nhiều khó khăn nên đa số các trường, lớp không thực hiện
giờ thể dục.
* Giáo Dục Thể Chất cho học sinh ở Hà Tónh (Nguyễn Văn Nam - Sở
GD và ĐT Hà Tónh) đã cho ra bài học kinh nghiệm trong 5 năm (1991-
1996) thực hiện việc đổi mới, cải tiến phương pháp giảng dạy môn Thể
Dục. Thể chất học sinh được nâng lên rõ rệt, năng lực vận động được tăng
cường, các tố chất của cơ thể được phát triển tốt.
* Tổng quan các công trình nghiên cứu phát triển thể chất học sinh Việt
Nam trong 10 năm qua của Nguyễn Quỳnh Hương 1995.
* Các công trình nghiên cứu của Nguyễn Thành Sơn - Trònh Hữu Lộc
về: “Nghiên cứu tình hình phát triển hình thái, thể lực cơ thể học sinh lứa
tuổi 15 ở thành phố Hồ Chí Minh”. Kết quả nghiên cứu này đã cung cấp

những hằng số sinh học mới của các lứa tuổi trên.
* Điều tra, đánh giá tình trạng thể chất và xây dựng tiêu chuẩn thể lực
chung của người Việt Nam giai đoạn I, từ 6 - 20 tuổi (Uỷ ban TDTT - Viện
- 7 -
KHTDTT. Chủ nhiệm PGS.TS Dương Nghiệp Chí) căn cứ vào kết quả
điều tra thể chất nhân dân của người Việt Nam từ 6 - 20 tuổi. Cho thấy sự
phát triển thể chất của người Việt Nam đã có những tiến bộ rõ rệt nhất về
chiều cao và cân nặng. Cho thấy có sự khác biệt về thể chất giữa thành thò
và nông thôn.
* Công trình nghiên cứu về chương trình giảng dạy thể dục ( Lê Văn
Lẫm - Trònh Trung Hiếu - Vũ Đức Thu - Phạm Khắc Học - Trần Đồng Lâm
- Nguyễn Mạnh Liên và các cộng sự năm 1978 - 1985).
* Các công trình nghiên cứu này cũng đã cung cấp nhiều thông tin quý
về tình hình phát triển thể chất của học sinh. Qua đó tạo cơ sở cho việc so
sánh, đònh hướng và đánh giá sự phát triển thể chất của học sinh trong
tương lai.
1.3. Lòch sử phát triển môn điền kinh.
1.3.1. Vài nét về điền kinh thế giới.
Điền kinh là môn có lòch sử lâu đời so với các môn thể thao khác. Đi
bộ, chạy, nhảy, và ném đẩy là những hoạt động tự nhiên của con người. Từ
những hoạt động với mục đích di chuyển để tìm kiếm thức ăn, tự vệ đến
phòng chống thiên tai, vượt chướng ngại vật, hoạt động này ngày càng
hoàn thiện cùng với sự phát triển của xã hội loài người và dần dần trở
thành một phương tiện giáo dục thể chất, một môn thể thao có vò trí xứng
đáng thu hút mọi người tham gia tập luyện.
Các bài tập Điền kinh đã được loài người sử dụng từ thời cổ Hy Lạp,
song lòch sử phát triển của nó được ghi nhận trong cuộc thi đấu chính thức
vào năm 776 trước Công nguyên.
- 8 -
Năm 1837 tại thành phố Legbi (Anh) cuộc thi đấu chạy 2km lần đầu

tiên được tổ chức. Từ năm 1851 các môn chạy tốc độ, chạy vượt chướng
ngại vật, nhảy xa, nhảy cao, ném vật nặng bắt đầu được đưa vào chương
trình thi đấu tại các trường đại học ở nước Anh.
Năm 1880, Liên đoàn Điền kinh nghiệp dư nước Anh ra đời. Đây là
Liên đoàn điền kinh nghiệp dư đầu tiên trên thế giới. Từ năm 1880 đến
năm 1890, môn điền kinh phát triển mạnh ở nhiều nước như Pháp, Mỹ,
Đức, Na Uy, Thụy Điển và các liên đoàn Điền kinh quốc gia lần lượt được
thành lập ở hầu hết các châu lục.
Từ 1896, việc khôi phục các cuộc thi đấu truyền thống của đại hội thể
thao Olympic đã đánh dấu bước ngoặc quan trọng trong việc phát triển
môn điền kinh. Từ đại hội thể thao Olympic Athen (Hy Lạp 1896), điền
kinh đã trở thành nội dung chủ yếu trong chương trình thi đấu tại các đại
hội thể thao Olympic (4 năm tổ chức một lần).
Năm 1992, Liên đoàn điền kinh nghiệp dư quốc tế ra đời, với tên gọi
tắt là IAAF (International Amateur Athletic Federation). Đây là tổ chức
cao nhất lãnh đạo phong trào điền kinh toàn thế giới. Hiện nay tên gọi của
Liên đoàn điền kinh nghiệp dư quốc tế đã được chuyển thành Hiệp hội
quốc tế các liên đoàn điền kinh (International Association of Athletic
Federations) với tên viết tắt là IAAF. IAAF có 210 thành viên là các Liên
đoàn điền kinh quốc gia và các vùng lãnh thổ ở các châu lục, trong đó có
Liên đoàn điền kinh Việt Nam. Hiện nay trụ sở của IAAF đặt tại Monaco.
- 9 -
1.3.2. Vài nét về điền kinh Việt Nam.
Nguồn gốc môn điền kinh nước ta đã được các nhà nghiên cứu xác đònh
là có từ lâu đời.
Trong lòch sự hàng ngàn năm đấu tranh sinh tồn, dựng nước và giữ nước
của dân tộc Việt Nam, tổ tiên của chúng ta cũng đã rất quen thuộc với
hoạt động đi bộ, chạy, nhảy, ném đẩy. Lòch sử đã ghi nhận chiến công
dưới sự lãnh đạo của vò anh hùng dân tộc Quang Trung, hàng chục vạn
quân Tây Sơn đã hành quân thần tốc, từ Phú Xuân (Bình Đònh) đến Thăng

Long để đánh tan quân Thanh xâm lược, giành độc lập cho đất nước.
Động lực phát triển môn điền kinh đã tiềm ẩn trong lòch sử sinh tồn,
dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Trong thời gian dài thực dân Pháp đô hộ nước ta, môn điền kinh phát
triển rất chậm và yếu ở cả 3 miền: Bắc, Trung, Nam. Theo tờ báo “Tương
lai Bắc Kỳ” (bằng tiếng Pháp), tại cuộc thi đấu điền kinh ở Hà Nội vào
tháng 4/1925 bao gồm 9 môn: chạy 100m, 110m rào, 400m, nhảy cao, nhảy
sào, đẩy tạ, ném đóa, ném lao, thành tích còn rất thấp như: chạy 100m
nam: 11”3; chạy 1500m nam: 4’56”4; đẩy tạ nam: 10m45…
Sau Cách mạng Tháng 8 năm 1975 đến nay, trong điều kiện Tổ quốc
hoà bình, độc lập, môn điền kinh tiếp tục được phát triển mạnh hơn so với
giai đoạn trước đây. Nhiều người tự rèn luyện thân thể bằng đi bộ, tập
chạy chậm. Chương trình giáo dục thể dục thể thao nói chung và môn điền
kinh nói riêng đã được cải tiến trong các trường học. Sau Đại hội Đảng
Cộng sản Việt Nam lần thứ VI, đất nước ta bước vào công cuộc đổi mới,
thực hiện chính sách “mở cửa” muốn làm bạn với tất cả các nước vì hoà
- 10 -
bình và sự tiến bộ của nhân loại. Trong công cuộc đổi mới, chúng ta đã đạt
được những thắng lợi to lớn về kinh tế – xã hội, ngoại giao…từ đó môn
điền kinh có thêm điều kiện phát triển. Điền kinh Việt Nam đã mở rộng
giao lưu, thi đấu với các nước trong khu vực Đông Nam Á, Châu Á và thế
giới đạt nhiều thành tích đáng khích lệ.
1.4. Cơ sở lý luận của việc giảng dạy kỹ thuật nhảy xa “ kiểu ngồi” cho
đối tượng học sinh Trung học cơ sở.
1.4.1. Các yếu tố cấu thành thành tích nhảy xa.
Theo PGS - TS Phạm Trọng Thanh, PGS - TS Lê Nguyệt Nga, Đào
Công Sanh thì những yếu tố để vận động viên đạt thành tích cao gồn 5
nhóm cơ bản sau: phẩm chất cơ bản của người vận động viên (cấu trúc cơ
thể, đặc điểm, thể chất, thể hình và tính cách) các tố chất cơ bản (nhanh,
mạnh, bền, mềm dẻo và khả năng phối hợp vận động) kỹ năng, kỹ xảo

trong phối hợp kỹ thuật, khả năng chiến thuật, khả năng trí tuệ (bao gồm
sự hiểu biết về lónh vực TDTT, chính trò tư tưởng và tâm lí).
Nhảy xa bao gồm những động tác được liên kết lại với nhau thành một
động tác kỹ thuật hoàn chỉnh, để tiện phân tích và giảng dạy người ta phân
thành các giai đoạn: chạy đà và chuẩn bò giậm nhảy, giậm nhảy, bay trên
không và rơi xuống đất.
Về mặt lý thuyết, trong điều kiện không có sức cản của môi trường
không khí, điểm bay và điểm rơi trên một mặt phẳng thì vật bay xa của vật
thể được phóng ra tỉ lệ thuận với bình phương tốc độ bay ban đầu, Sin 2 lần
góc bay tỉ lệ nghòch với gia tốc rơi tự do.
- 11 -
Công thức:
g
SinV
S
α
2
2
0
=
Trong thực tế nhảy xa chạy đà và giậm nhảy là 2 giai đoạn tạo cho cơ
thể có tốc độ bay ban đầu lớn, góc độ bay hợp lý nhất vì thế đây là 2 giai
đoạn có ảnh hưởng quyết đònh đến độ bay xa của lần nhảy.
Theo PTS Bùi Thò Dương - Trần Đình Thuận, muốn đạt được thành tích
cao trong nhảy xa điều cơ bản là cần kéo dài đoạn đường bay bằng cách
chạy lấy đà chuẩn xác và giậm nhảy tích cực.
Theo Dương Nghiệp Chí - Mai Văn Muôn thành tích trong các môn
nhảy xa được xác đònh trước hết bởi độ cao và độ xa của quỹ đạo trọng
tâm lúc bay. Quỹ đạo trọng tâm lúc bay phụ thuộc phần lớn vào tốc độ bay
ban đầu, góc bay. Vì vậy góc độ bay ban đầu, góc bay là những yếu tố

quan trọng quyết đònh đến thành tích nhảy.
Qua những quan điểm trên chúng ta thấy các yếu tố cấu thành, thành
tích nhảy xa:
• Đặc điểm hình thái.
• Các tố chất thể lực.
• Kỹ năng kỹ xảo trong phối hợp kỹ thuật.
• Tâm lý.
Dựa vào các điều kiện thực tế giảng dạy tại trường Trung học cơ sở
Lương Thế Vinh. Trong luận văn này chúng tôi chỉ nghiên cứu một số bài
tập bổ trợ kỹ thuật để nâng cao thành tích môn nhảy xa kiểu ngồi cho học
sinh của nhà trường.
- 12 -
1.4.2. Kỹ thuật nhảy xa kiểu ngồi.
Nhảy xa bao gồm những động tác liên tục. Nhưng để tiện phân tích
người ta có thể chia kỹ thuật nhảy xa thành 4 giai đoạn sau:
• Chạy lấy đà và chuẩn bò giậm nhảy.
• Giậm nhảy.
• Bay trên không.
• Rơi xuống đất.
1.4.2.1. Chạy lấy đà và chuẩn bò giậm nhảy.
Mục đích của chạy đà là tạo ra tốc độ tối đa theo phương nằm ngang
trước khi giậm nhảy và chuẩn bò tốt cho việc đặt chân giậm nhảy chính xác
vào ván giậm.
Số bước chạy đà ở các vận động viên nam xuất sắc là 18 - 24 bước
(khoảng 38 - 48m), còn ở các vận động viên nữ: 16 - 22 bước (khoảng 32 -
42m). Số bước chạy đà tối ưu phụ thuộc nhiều vào trình độ huấn luyện
chuyên môn về chạy của vận động viên.
Tính chuẩn xác của chạy đà phụ thuộc vào độ dài chuẩn và nhòp điệu
thực hiện các bước chạy trong đà.
Bắt đầu chạy đà tốt cũng đóng vai trò quan trọng, vì vậy vận động viên

cần có tư thế ban đầu và động tác ổn đònh. Có một vài cách bắt đầu chạy
đà: Đứng tại chỗ, đi bộ vài bước, chạy bước đệm vài bước… Thông thường
là vận động viên đứng tại chỗ, một chân đặt vào vạch giới hạn của cự ly
đà, chân kia để ở phía sau hoặc bắt đầu chạy đà bằng vài bước đi bộ hoặc
chạy nhẹ nhàng rồi tăng dần tốc độ. Đến khoảng giữa cự ly đà, độ ngả của
thân trên giảm dần (chỉ còn 74 - 80
o
), tăng biên độ động tác của tay và
- 13 -
chân. Kết thúc đà, ở những bước cuối cùng, thân trên gần như thẳng đứng.
Điều rất quan trọng là phải duy trì kỹ thuật chạy đúng cho đến bước đà
cuối cùng, có cảm giác về “độ nẩy” khi tiếp xúc đất và kiểm tra được các
động tác của mình.
Hai phương án chạy đà thường được dùng là: tăng tốc độ đều trên toàn
đà và đạt tới tốc độ tối đa ở các bước cuối cùng (cách này phù hợp với
những người mới tập nhảy); cố gắng chạy nhanh ngay từ đầu, duy trì tốc độ
cao trên cự ly và lại cố gắng tăng tốc độ ở cuối cự ly. Dù theo phương án
nào, vận động viên cũng cần đạt tốc độ chạy đà 9 - 10m/giây với nữ và 10
- 11m/giây với nam. Để giậm nhảy chính xác ở mỗi vận động viên cần xác
đònh vạch báo hiệu 2 (nơi bắt đầu vào 4 - 6 bước cuối). Nếu chạy đà không
cần điều chỉnh nhòp điệu, độ dài bước chạy đà mà vẫn có độ dài 4 - 6 bước
cuối theo dự kiến thì mới đảm bảo giậm nhảy đúng ván giậm với tốc độ tối
ưu.
Thông thường độ dài bước cuối nên ngắn hơn bước trước đó 15 - 20 cm
(nữ là 5 – 10 cm). Tuy vậy cũng có vận động viên có độ dài 2 bước cuối
như nhau và thậm chí có trường hợp bước cuối dài hơn bước trước đó
(R.Bimơn khi lập kỉ luật thế giới 8,90m có bước đà cuối dài 257 cm trong
khi bước trước đó chỉ dài 240 cm). Trước khi đặt chân giậm nhảy vào ván
(khi còn cách 0,06 – 0,1 cm) người ta nhận thấy ở các vận động viên nhảy
có sự căng sơ bộ các cơ vòm bàn chân và cơ tứ đầu đùi của chân giậm

nhảy.
- 14 -
1.4.2.2. Giậm nhảy.
Phần lớn các vận động viên đặt chân xuống ván giậm bằng gót hoặc cả
bàn chân.
Lực giậm nhảy trong nhảy xa rất lớn (700 – 800kg đối với vận động
viên cấp cao). Vì vậy giậm nhảy nhất thiết là phải nhanh, mạnh. Đối với
thiếu niên hoặc người mới tập, việc lựa chọn chân giậm nhảy bằng cách
cho họ nhảy xa một cách tự chọn bằng đà ngắn.
Khi tiếp xúc với ván giậm, toàn bộ trọng lượng cơ thể dồn lên chân
giậm nhảy, do vậy chân giậm nhảy hơi khu gối để giảm chấn động. Khi
giậm nhảy cần nhanh chóng duỗi hết các khớp chân giậm nhảy. Kết thúc
giậm nhảy góc giữa thân trên và đùi chân lăng khoảng 95
0
, bàn chân, cẳng
chân, đùi của chân giậm gần như nằm trên một đường thẳng hơi ngã về
trước với góc độ giậm nhảy khoảng 68 - 72
0
. Tay bên chân giậm vung về
trước – lên trên và dừng khi cánh tay song song với mặt đất. Tay bên chân
lăng gập ở khuỷu và đánh sang bên để nâng cao vai. Động tác kết thúc
giậm nhảy như vậy gọi là bước bộ trên không.
1.4.2.3. Bay trên không.
Sau khi rời đất, trọng tâm cơ thể bay theo đường vòng cung. Toàn bộ
các động tác của vận động viên trong lúc bay là nhằm giữ thăng bằng và
tạo điều kiện thuận lợi để rơi xuống hố cát có hiệu quả nhất.
Sau khi bay ở tư thế “bước bộ” được 1/3 – 1/2 cự ly, vận động viên kéo
chân giậm lên song song với chân ở phía trước (chân lăng) và nâng hai đùi
lên sát ngực. Ở tư thế này, thân trên không nên gập nhiều về trước. Tiếp
đó, trước khi rơi xuống hố cát 2 chân hầu như được duỗi thẳng hoàn toàn

- 15 -
đồng thời 2 tay đánh thẳng xuống dưới – về trước và ra sau. Động tác có
tính chất bù trừ này tạo điều kiện tốt cho việc duỗi thẳng chân trước khi rơi
xuống và giữ thăng bằng.
1.4.2.4. Rơi xuống đất.
Để đạt được độ xa của lần nhảy, việc thực hiện đúng kỹ thuật rơi xuống
đất có ý nghóa rất lớn. Không ít vận động viên do có kỹ thuật này kém nên
đã không đạt được thành tích tốt nhất của mình.
Trong tất cả các kiểu nhảy, việc thu chân chuẩn bò rơi xuống đất được
bắt đầu khi tổng trọng tâm cơ thể ở cách mặt đất ngang với mức khi họ kết
thúc giậm nhảy.
Để chuẩn bò cho việc rơi xuống đất, đầu tiên cần nâng đùi, đưa hai đầu
gối lên sát ngực và gập thân trên nhiều về trước. Cẳng chân lúc này được
hạ xuống dưới, hai tay chuyển từ trên cao ra phía trước. Tiếp đó là duỗi
chân, nâng cẳng chân để gót chân chỉ thấp hơn mông một chút. Thân trên
lúc này không nên gập về trước quá nhiều vì sẽ gây khó khăn cho việc
nâng chân lên cao. Tay lúc này hơi gấp ở khuỷu và được hạ xuống theo
hướng xuống dưới và ra sau. Sau khi hai gót chân chạm đất cần gập chân ở
khớp gối để giảm chấn động và tạo điều kiện chuyển trọng tâm cơ thể
xuống dưới – ra trước vượt qua điểm chạm đất của gót. Thân trên lúc này
cũng cố gập về trước để giúp không đổ người về sau làm ảnh hưởng tới
thành tích.
- 16 -
1.5. Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi 14 – 15 .
1.5.1. Đặc điểm tâm lý.
Lứa tuổi 14 – 15 là lứa tuổi bắt đầu của sự trưởng thành. Các hoạt động
của lứa tuổi này ngày càng phong phú và phức tạp hơn được thể hiện vai
trò của mình trong xã hội, vai trò của người lớn và thực hiện vai trò với
tính độc lập và tinh thần trách nhiệm hơn.
Vò trí của lứa tuổi này trong xã hội chưa được xác đònh rõ ràng, ở mặt

này họ được coi là người lớn, ở mặt khác lại không. Do vậy phải tìm cách
tạo điều kiện để lứa tuổi này xây dựng một phương thức sống mới phù hợp
với mức độ phát triển chung của chúng, bằng cách khuyến khích chúng
hành động có ý thức trách nhiệm riêng và khuyến khích sự giáo dục lẫn
nhau trong tập thể thanh niên mới lớn. Ở lứa tuổi này các em ý thức được
rằng mình đang đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời do vậy thái độ ý thức của
các em ngày càng phát triển. Thái độ của các em đối với môn học cũng có
sự chọn lựa hơn và hình thành tính hứng thú học tập gắn liền với khuynh
hướng nghề nghiệp. Ở lứa tuổi này; tính chủ đònh phát triển mạnh, tri giác
đạt đến mức cao, quan sát đã trở nên có hệ thống và toàn diện hơn. Tuy
nhiên, sự quan sát này cũng không hiệu quả nếu như thiếu sự chỉ đạo dẫn
dắt của giáo viên, huấn luyện viên.
Do cấu trúc của não bộ phức tạp và chức năng của não phát triển, do sự
phát triển của quá trình nhận thức, ảnh hưởng của hoạt động học tập mà
hoạt động tư duy của lứa tuổi này có thay đổi quan trọng. Các em đã bắt
đầu có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng càng phát triển, tư duy
- 17 -
có chặt chẽ hơn, có căn cứ và nhất quán hơn đồng thời tính phê phán của
tư duy càng phát triển.
Tóm lại: Ở lứa tuổi này, những đặc điểm chung của con người về mặt
trí tuệ thông thường đã được hình thành và chúng vẫn còn được tiếp tục
hoàn thiện.
Sự phát triển của ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển
nhân cách của thanh niên mới lớn, nó có ý nghóa to lớn đối với sự phát
triển tâm lý ở lứa tuổi này. Sự hình thành ý thức ở lứa tuổi này là một quá
trình lâu dài, trãi qua những mức độ khác nhau, qúa trình tự phát triển ý
thức diễn ra mạnh mẽ, sôi nổi và có tính đặc thù riêng. Ở lứa tuổi này có
nhu cầu tìm kiếm và đánh giá những đặc điểm tâm lý của mình theo quan
điểm về cuộc sống và hoài bão của mình.
Đặc điểm quan trọng trong sự tự ý thức xuất phát từ yêu cầu của cuộc

sống và hoạt động, đơn vò mới mẻ của mình trong tập thể, những quan hệ
mới về thế giới xung quanh buộc mình phải ý thức được những nhân cách
của mình. Các em bắt đầu nhận thức cái tôi của mình trong hiện tại và
nhận thức được vò trí của mình trong xã hội tương lai. Các em đã biết thể
hiện tinh thần trách nhiệm trong công việc mình làm, đã biết thể hiện lòng
tự trọng, biết khắc phục khó khăn để đạt mục đích mình đònh ra. Đây chính
là đặc điểm thuận lợi nhất để rèn luyện các tố chất thể lực cho các em.
1.5.2. Đặc điểm sinh lý.
Lứa tuổi 14 – 15 là thời kỳ đạt được sự trưởng thành về mặt thể lực
nhưng sự phát triển cơ thể còn kém so với sự phát triển cơ thể người lớn, là
lứa tuổi bắt đầu thời kỳ phát triển tương đối ổn đònh về mặt sinh lý, nhòp
- 18 -
độ tăng trưởng chiều cao và trọng lượng đã chậm lại. Các em gái đạt sự
tăng trưởng của mình vào khoảng 14 – 15 tuần. Trọng lượng các em trai
đã bắt kòp các em gái và tiếp tục tăng lên. Sức mạnh cơ bắp tăng nhanh.
Nhìn chung đây là lứa tuổi các em có cơ thể phát triển cân đối, khoẻ và
đẹp. Đa số các em có thể đạt được những khả năng phát triển về cơ thể
như người lớn.
1.5.2.1. Hệ vận động.
Hệ xương:
Ở lứa tuổi 14 - 15 đang diễn ra quá trình cốt hóa. Xương phát triển
mạnh về chiều dài làm tăng chiều cao của cơ thể, các cơ tăng khối lượng
và đạt 43 – 44% trọng lượng toàn cơ thể, bao khớp và hệ thống dây chằng
mỏng, vì vậy độ linh hoạt của khớp cao. Khả năng mềm dẻo giảm dần
theo lứa tuổi và độ bền vững của xương khớp tăng.
Hệ cơ:
Lứa tuổi 14 – 15 là giai đoạn phát triển của hệ thống cơ vân cả về
lượng và chất. Sự phát triển cơ bắp không đồng đều, khi các cơ bắp cơ lớn
phát triển nhanh(cơ đùi, cơ cánh tay), các cơ co phát triển sớm hơn cơ duỗi,
hàm lïng các chất vô cơ, hữu cơ trong tổ chức tăng, cùng với sự phì đại

của cơ làm cho việc cung cấp máu cho chúng được cải thiện. Hàm lượng
đạm và các chất giàu năng lượng (miozin, creatin phot phat) và hoạt tính
các men đều tăng lên trong cơ tương, tơ cơ, khả năng trao đổi chất của cơ
cũng tăng. Vì vậy sử dụng các bài tập phát triển sức mạnh là hợp lí nhưng
các bài tập phải đảm bảo các nguyên tắc vừa sức và đảm bảo cho tất cả
các loại cơ.
- 19 -
1.5.2.2. Hệ thần kinh.
Được phát triển một cách hoàn thiện khả năng tư duy, phân tích tổng
hợp và trừu tượng hoá cũng phát triển thuận lợi tạo điều kiện tốt cho việc
hình thành phản xạ có điều kiện, ngoài ra do hoạt động mạnh của tuyến
giáp, tuyến sinh dục, tuyến yên, làm cho quá trình hưng phấn của hệ thần
kinh chiếm ưu thế. Giữa hưng phấn và ức chế không cân bằng đã ảnh
hưởng đến hoạt động thể lực cần bắt buộc phải sử dụng các bài tập sao cho
phù hợp.
1.5.2.3. Hệ tuần hoàn.
Các kích thước tuyệt đối, tương đối của tim tăng dần theo lứa tuổi, tuổi
15 – 18 khoảng 200 – 220g. Tần số co bóp của tim giảm dần theo lứa tuổi
14 - 15 tuổi 70 – 80 lần/phút. Huyết áp tăng theo lứa tuổi. Ở lứa tuổi này
huyết áp tối đa 100 – 110mm Hg và huyết áp tối thiểu giao động từ 70 –
85mm Hg. Ở lứa tuổi 14 - 15 hệ thống tim mạch đang trong giai đoạn hoàn
thiện về cấu trúc và chức năng. Dưới ảnh hưởng của quá trình phát triển
sinh học tự nhiên và sự tác động của tập luyện đã tạo ra những biến đổi
thích ứng như: Tần số giảm trong yên tỉnh, buồn tim giản rộng, thành tim
dày lên và lực co bóp cơ tim tăng là cơ sở tăng lưu lượng phút, lưu lượng
tâm thu, huyết áp tối đa trong vận động. Do đó ở lứa tuổi 14 -15, sau hoạt
động mạch và huyết áp hồi phục tương đối nhanh nên phù hợp với các bài
tập chạy dài và các bài tập có khối lượng và cường độ tương đối lớn.
1.5.2.4. Hệ hô hấp.
Ở lứa tuổi 14 - 15, hệ thống cơ hô hấp, thể tích lồng ngực phát triển

ngày càng hoàn thiện dẫn đến biến đổi các chỉ số chức năng như: Tần số
- 20 -
hô hấp giảm, thông khí phổi, dung tích sống, khả năng hấp thụ oxy tăng,
nhưng chưa ổn đònh ở cuối giai đoạn dậy thì.
Ở lứa tuổi này đã hoàn thiện vòng ngực, trung bình của nam khoảng 75
– 80cm, diện tích tiếp xúc của phổi khoảng 120 – 150 cm, dung lượng phổi
khoảng 4,5lít, tần số hô hấp 10 – 20 lần/phút. Vì vậy các bài tập phát triển
sức bền càng phù hợp với lứa tuổi này.
1.6. Bài tập bổ trợ chuyên môn ở môn nhảy xa.
Sau khi tham khảo một số tài liệu và qua thực tiễn giảng dạy chúng tôi
đã tổng hợp được các bài tập bổ trợ chuyên môn trong môn nhảy xa kiểu
ngồi cho nam học sinh lớp 9 Trường trung học cơ sở Lương Thế Vinh-
Thành phố Bn Ma Thuột- Tỉnh Đắk Lắk
1.6.1. Bài tập để nắm vững kỹ thuật chạy đà:
 Chạy đà có đặt vật chuẩn (chú ý độ dài bước).
 Chạy đà bình thường có giậm nhảy lúc kết thúc (chạy 5 - 6 lần).
 Chạy đà trên đường phủ thảm hay cỏ (chạy 2 - 4 lần).
 Chạy qua phần đầu tiên của đà trên đường dốc,
phần thứ hai của đà (6 bước chạy) trên đường bằng, thực hiện 5 - 6
lần.
 Chạy qua phần đầu tiên của đà (đến vạch kiểm tra) bằng 6 bước
chạy đà có đàn tính. Thực hiện 4 - 5 lần.
1.6.2. Bài tập để nắm vững kỹ thuật giậm nhảy:
 Chạy 4 – 6 bước nhảy lên thang thể dục và đặt bàn chân lăng lên
thang ngang.
 Chạy 3 bước giậm nhảy bước bộ qua rào cao 20 – 30 cm.
- 21 -
 Chạy 4 – 8 bước giậm nhảy chạm vật chuẩn.
 Chạy đạp sau 6 – 8 m thực hiện giậm nhảy.
 Chạy bật lên bằng chân giậm rơi xuống bằng chân lăng và chạy.

1.6.3. Bài tập để nắm vững kỹ thuật động tác trên không:
 Giậm nhảy bước bộ vào hố cát.
 Giậm nhảy bước bộ qua rào cao 20 – 30 cm.
 Đu người trên xà ngang thực hiện động tác bước bộ lăng hông.
 Bước bộ chạm vật chuẩn.
 Chạy 3 bước giậm nhảy bước bộ.
1.6.4. Bài tập để nắm vững kỹ thuật rơi xuống đất:
 Đu người trên xà đơn thực hiện kỹ thuật rơi xuống đất.
 Giậm nhảy qua vạch báo hiệu làm động tác thu hai gối sát
ngực.
 Tại chỗ bật xa (chú ý động tác tiếp đất).
 Đứng trên bục cao 20 – 30 cm tư thế bước bộ thu chân giậm và
rơi xuống hố cát.
 Thực hiện bước bộ thu chân giậm tiếp đất.
- 22 -
CHƯƠNG 2
PHƯƠNG PHÁP – TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU
2.1. Phương pháp nghiên cứu:
Để giải quyết các mục tiêu nghiên cứu của đề tài chúng tôi sử dụng
các phương pháp nghiên cứu sau:
2.1.1. Phương pháp tổng hợp và phân tích các tài liệu có liên quan
đến đề tài.
Đọc và tham khảo tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu nhằm hệ
thống hoá các kiến thức có liên quan đến lónh vực nghiên cứu phục vụ tốt
cho việc thực hiện đề tài. Ngay từ khâu chọn đề tài, xây dựng đề cương,
bắt tay vào nghiên cứu và đến khi chuẩn bò dự thảo, báo cáo kết quả,
người nghiên cứu đã sử dụng phương pháp này.
Phương pháp này cho phép chúng tôi hệ thống hóa các kiến thức có
liên quan đến lónh vực nghiên cứu, hình thành cơ sở lý luận, xác đònh mục
đích, nhiệm vụ nghiên cứu, đồng thời xây dựng tổng quan, xử lý và phân

tích kết quả nghiên cứu của đề tài.
2.1.2. Phương pháp phỏng vấn gián tiếp (Sử dụng phiếu điều tra).
Phương pháp này nhằm tìm hiểu và xác đònh các bài tập được sử dụng
trong thực tiễn huấn luyện – giảng dạy Nhảy xa, chúng tôi dùng phiếu
điều tra theo phương pháp phân loại mức độ tin cậy của từng bài tập để
phỏng vấn các huấn luyện viên, giáo viên là những người có kinh nghiệm
trong công tác huấn luyện viên, giảng dạy môn Nhảy xa.
- 23 -
2.1.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
Phương pháp này nhằm mục đích đưa các bài tập mới vào thực tiễn, qua
thực nghiệm góp phần làm sáng tỏ những yếu tố tác động trực tiếp (yếu tố
thực nghiệm) tới kết quả tập luyện của đối tượng nghiên cứu.
Trước thực nghiệm cả hai nhóm đều được kiểm tra thành tích nhảy xa
để lấy thành tích ban đầu. Sau 3 tháng tập luyện chúng tôi tiến hành lấy
thành tích nhảy xa lần 2, để xác đònh các bài tập có hiệu quả nhằm nâng
cao thành tích nhảy xa.
Để kiểm nghiệm trong thực tiễn các bài tập phát triển thể lực ở môn
nhảy xa cho đối tượng nam học sinh. Chúng tôi tiến hành thực nghiệm trên
hai nhóm đối tượng theo qui ước sau:
+ Nhóm thực nghiệm A: gồm 40 học sinh được chọn ngẫu nhiên và
được học theo các bài tập chuyên môn do chúng tôi lựa chọn, thời gian tập
luyện mỗi tuần một buổi, mỗi buổi 2 tiết.
+ Nhóm đối chứng B: gồm 40 học sinh được chọn ngẫu nhiên và được
học theo chương trình sách giáo khoa của Bộ Giáo Dục & Đào Tạo. Thời
gian tập luyện như nhóm thực nghiệm.
2.1.4. Phương pháp kiểm tra sư phạm.
Dựa trên kết quả sử lý số liệu từ các phiếu phỏng vấn gián tiếp theo
phương pháp trên, chúng tôi đã chọn được các bài tập bổ trợ chuyên môn
nhằm nâng cao thành tích nhảy xa của đối tượng nghiên cứu.
- 24 -

* Thành tích nhảy xa (cm):
- Mục đích: dùng để kiểm tra kết quả học tập của đối tượng nghiên cứu.
- Dụng cụ sân bãi: thước dây bằng sắt, đơn vò đo tính bằng centimet, hố
cát, cờ, giấy bút ghi chép.
- Phương pháp kiểm tra và ghi nhận thành tích: khi nghe đọc tên thì học
sinh đó bước vào vò trí chuẩn bò chạy đà. Sau khi thấy cờ phất lệnh, thì thực
hiện lần nhảy của mình. Mỗi lần nhảy chỉ với một học sinh thực hiện, mỗi
học sinh thực hiện nhảy 3 lần (toàn đà), lấy thành tích cao nhất của 3 lần
nhảy. Thành tích chỉ được công nhận khi học sinh không bò vi phạm vào
các điều sau đây: đạp qua khỏi ván giậm nhảy, nhảy không đúng kiểu
ngồi, nhảy ra khỏi hố nhảy.
Thành tích được tính là khoảng cách từ vạch giậm nhảy đến điểm gót
chân chạm đất gần ván giậm nhảy nhất (nếu có bộ phận khác của cơ thể
chạm đất sau gót chân thì thành tích được tính từ điểm tiếp đất gần vạch
giậm nhảy của cơ thể đó).
2.1.5. Phương pháp toán thống kê.
Chúng tôi sử dụng phần mềm excel của máy vi tính, để tính các giá trò
trung bình, độ lệch chuẩn, hệ số biến thiên, sai số tương đối của giá trò
trung bình, t-student, độ tăng trưởng.
2.1.5.1. Giá trò trung bình: ( n

30)
Trung bình cộng là đại diện chung nhất của các giá trò biến thiên ngẫu
nhiên trong mẫu. Đồng thời là tham số phản ánh xu hướng tập trung của
mẫu.
- 25 -
Trong đó:
Σ: là ký hiệu tổng.
X
: là giá trò trung bình.

i
X
: là trò số của từng cá thể.
n: là tổng số các cá thể.
2.1.5.2. Độ lệch chuẩn:
Độ lệch chuẩn cho biết sự phân tán hay tập trung của các trò số X
i
chung quanh giá trò trung bình.

x
δ
=
n
XX
n
i
i

=

1
2
)(
Với ( n
30≥
)
Trong đó:
i
X
: là giá trò của từng cá thể.

X
: là giá trò trung bình của tập hợp mẫu.
n: là tổng các cá thể.
2.1.5.3. Hệ số biến thiên:
Để đánh giá độ đồng nhất giữa hai mẫu nghiên cứu.
Nếu C
v
≤ 10% : thì giá trò trung bình mẫu có độ đồng nhất cao.
Nếu 10%< C
v
<20% : thì giá trò trung bình mẫu có độ đồng nhất trung
bình.
Nếu C
v
>20% : thì giá trò trung bình mẫu có độ đồng nhất thấp(không
nên dùng).

%100.
X
C
X
V
δ
=

n
X
X
n
i

i

=
=
1

×