TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON
BÀI TẬP TỐT NGHIỆP:
Lâm Đồng th áng 12 n ăm 2009
Ng ườ i hướng dẫn :
PGS.TS Lã Thị Bắc Lý
Nhóm thực hiện:
1. Lâm Thị Kim Huệ
Số báo danh: 67
2. Hoàng Khánh Dung
Số báo danh: 23
Lớp 3A – Lâm Đồng
Để hoàn thành tốt đề tài này, chúng em vô cùng
cảm ơn các thầy cô giáo khoa Giáo dục mầm non,
Trường Đại học sư phạm Hà Nội, các bạn đồng nghiệp
Mầm non Sơn Ca, Huyện Đức Trọng, Tỉnh Lâm Đồng.
Trong thời gian qua đó tạo điều kiện thuận lợi để
chúng em thực hiện và hoàn thành bài tập tốt nghiệp
này.
Đặc biệt hơn chúng em hết lòng biết ơn cô Lã
Thị Bắc Lý, giảng viên ngữ văn, khoa Mầm non
trường Đại học sư phạm Hà Nội đã tận tình hướng dẫn
chúng em thực hiện đề tài này.
Đề tài được hoàn thành là niềm vui lớn nhất đối
với chúng em. Hy vọng rằng, nó sẽ giúp ích cho những
ai cần tài liệu để tham khảo thêm trong việc hướng dẫn
trẻ đọc thơ.
Một lần nữa, chúng em xin chân thành cảm ơn!
Nhóm thực hiện
PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài:
“Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai” đã cho chúng ta thấy được sự cần thiết
của việc chăm sóc giáo dục trẻ. Chúng ta càng chăm sóc giáo dục trẻ chu đáo và
đầy đủ bao nhiêu thì càng có ý nghĩa chuẩn bị cho thế giới ngày mai bấy nhiêu.
Trong đó vai trò quan trọng nhất trong việc chăm sóc giáo dục trẻ theo đúng
phương pháp khoa học đó là trường mầm non. Do tình hình thực tế một số nơi dân
cư trên địa bàn huyện Đức Trọng nói chung, trường mầm non Sơn Ca nói riêng, trẻ
phát âm còn sai hay lẫn lộn phụ âm (n - l, ch - tr, r - gi - d). Khi trẻ bước vào học
trong trường phổ thông các cháu vẫn phát âm sai những lỗi sai đó mà bản thân trẻ
cũng không hề hay biết. Vì vậy, khi đi học trẻ đọc những bài tập đọc hoặc viết
chính tả gặp nhiều khó khăn, thường hay mắc lỗi dẫn đến những ảnh hưởng lớn
trong học tập.
Chúng tôi là giáo viên mầm non trực tiếp chăm sóc giáo dục trẻ, tôi luôn gần
gũi các cháu trong các hoạt động trên lớp, giờ ăn, giờ chơi… và các hoạt động của
trẻ trong nhà trường. Chúng tôi luôn trăn trở để làm sao có biện pháp rèn phát âm
cho trẻ để giúp trẻ phát âm đúng. Để sau này bước vào trường phổ thông cháu có
nhiều thuận lợi trong học tập cũng như trong giao tiếp, cho nên chúng tôi chọn đề
tài này để nghiên cứu để tìm hiểu khả năng phát âm đúng của trẻ. Từ đó có hướng
uốn nắn và rèn cho trẻ phát âm đúng, không để trẻ phát âm sai hoặc nói ngọng,
giúp trẻ biết điều chỉnh âm lượng, thể hiện đúng ngữ điệu trong lời nói.
II. Mục đích yêu cầu:
Tìm hiểu khả năng phát âm của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi. Từ đó nêu ra các biện
pháp sửa lỗi phát âm cho trẻ.
III. Nhiệm vụ nghiên cứu:
1. Nghiên cứu cơ sở lý luận.
2. Khảo sát khả năng phát âm của trẻ.
3. Một số biện pháp tác động.
4. Kết luận sư phạm.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
1. Đọc tài liệu.
2. Quan sát ghi chép.
3. Thực nghiệm sư phạm.
4. Xử lý số liệu.
V. Đối tượng và khách thể nghiên cứu:
1. Đối tượng nghiên cứu: Khả năng phát âm của trẻ mẫu giáo lớn.
2. Khách thể: 30 cháu trẻ mẫu giáo lớn ở trường Mầm Non Sơn Ca -
Huyện Đức Trọng - Tỉnh Lâm Đồng.
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương I
I. Cơ sở lý luận ngữ âm.
1. Đặc điểm của âm tiết tiếng Việt:
Có tính phân tiết cao, các âm tiết đứng cách nhau, mỗi âm tiết bao giờ cũng
gắn liền với thanh điệu và làm thay đổi ý nghĩa của âm tiết.
Vì vậy: Lời nói của con người bao giờ cũng là lời nói thành tiếng. Khi nói
chúng ta phải phát âm ra thành từ, thành câu, thành văn bản để truyền đạt nội dung
thông báo. Khi nghe chúng ta tiếp nhận các âm thanh người nói phát ra, từ đó hiểu
được nội dung của lời nói. Trong âm thanh của lời nói do một cá nhân phát ra,
ngoài những đặc điểm cụ thể còn có một cái chung nhất mang chức năng xã hôị.
Những âm thanh cụ thể của lời nói, của mỗi cá nhân là những thực thể mang chức
năng xã hội.
2. Hệ thống ngữ âm của âm tiết tiếng Việt:
Có 5 thành phần Sắp xếp theo sơ đồ sau:
Âm đầu
1
Thanh điệu
5
Vần
Âm điệu
2
Âm chính
3
Âm cuối
4
* Thành phần vị trí 5 là thanh điệu bao trùm lên toàn bộ âm tiết. Có 6 thanh
điệu:
- Thanh ngang: Trên chữ không ghi dấu khi viết
- Thanh huyền.
- Thanh sắc.
- Thanh nặng.
- Thanh hỏi.
- Thanh ngã.
* Thành phần ở vị trí 1 là âm đầu do các phụ âm đảm nhiệm
* Thành phần ở vị trí 2 là do âm đệm, đó là nguyên âm trong chữ viết, được
thể hiện bằng chữ O chẳng hạn (Hoan, Thông); bằng chữ U (Xuân, Dung)…
* Thành phần ở vị trí 3 là âm chính do các nguyên âm đảm nhiệm. Âm chính
là hạt nhân của âm tiết.
* Thành phần ở vị trí 4 là âm cuối, do các phụ âm bán nguyên âm (i, y, u, o)
đảm nhiệm.
* Các thành phần ở vị trí 2, 3, 4 ghép lại với nhau thành một bộ phận gọi là
phần vần. Âm bao giờ cũng phải có âm chính và thanh điệu, vị trí còn lại có thể có
hoặc không.
- Âm tiết tiếng việt có cấu trúc hai bậc: Bậc thứ nhất bao gồm những thành tố
của thành phần vần.
Âm tiết
Bậc 1: Thanh điệu Âm đầu phần vần
Bậc 2: Âm đệm Âm chính Âm cuối
* Thanh điệu là sự thay đổi độ cao những âm tiết: ma, mã, má đối lập với mà,
mả, mạ về độ cao. Các âm tiết trước đều được phát âm với cao độ cao, các âm tiết
sau phát âm với cao độ thấp.
* Thanh điệu là sự thay đổi về âm điệu, trong những âm tiết trên thì những âm
tiết cùng thuộc độ cao lại đối lập nhau về sự biến thiên của độ cao, trong thời gian
âm tiết “ma” được phát âm với cao độ hoàn toàn bằng phẳng; còn “mã” với đường
nét biến thiên, cao độ không bằng phẳng. Âm điệu là những đường nét biến thiên
về cao độ.
* Nguyên âm trong Tiếng Việt được coi là âm chính, nguyên âm là khi nói âm
vị phát ra luồng hơi đi tự do không có gì cản trở.
VD: Khi phát âm “t” hơi bị cản trở ở đầu lưỡi chạm vào lợi; còn với âm “a”
hơi thoát ra tự do không bị cản ở chỗ nào cho nên “ă” cũng là nguyên âm. Xét về
mặt cấu tạo người ta phân chia phân biệt nguyên âm đơn và nguyên âm đôi.
- Nguyên âm đôi là gồm 2 nguyên âm ghép lại liền nhau. Khi phát âm thì đọc
nhanh, đọc lướt từ âm này sang âm kia, đầu mạnh sau yếu hơn, do đó âm sắc chủ
yếu của các nguyên âm đôi là do âm đầu quyết định. Có 3 nguyên âm đôi đó là:
uô, ươ, ie. Xét về độ dài, cần phân biệt nguyên âm ngắn và nguyên âm dài, nguyên
âm ngắn khi phát ra không thể kéo dài, nếu kéo dài có thể ảnh hưởng đến nghĩa.
* Phụ âm: Các âm vị đảm nhiệm thành phần âm đầu của âm tiết Tiếng Việt
bao giờ cũng là các phụ âm. Phụ âm là âm vị khi phát âm luồng hơi đi ra bị cản ở
chỗ nào đó trong bộ máy phát âm, phụ âm có loại bị cản ở môi; có loại bị cản ở
răng, có loại bị cản ở lưỡi; có loại bị cản ở thanh hầu. Về phương thức phát âm
người ta chia phụ âm thành:
- Phụ âm tắc: Hơi bị cản lại sau thoát ra đường miệng vào mũi: b, d, t, s c, k,
m,r, p, ng.
- Phụ âm sát: Hơi đi qua kẽ hở miệng: p, v, s, z, l, x, y, h.
- Phụ âm vang: Hơi thoát ra đầu lưỡi và bên lưỡi: m, n, nh.
- Phụ âm ồn: Hơi thoát ra đằng miệng có tiếng ồn: b, d, t, c, k, p, f, v, x, z, y,
h.
- Phụ âm hữu thanh, vô danh trong các âm ồn: Căn cứ vào chỗ dây thanh có
rung hay không rung người ta chia ra:
+ Phụ âm hữu thanh: Dây thanh rung.
+ Phụ âm vô thanh: không.
Phụ âm hữu thanh là: d, v, z, y
Phụ âm vô thanh là: t, c, k, b, f, x, s, h.
- Về vị trí cấu âm ta phân phụ âm thành:
+ Phụ âm môi: p, b, m, f, v.
+ Phụ âm lưỡi: d, t, s, z, l, n.
+ Phụ âm hầu: h.
Trong các âm lưỡi sự đối lập nhau giữa đầu lưỡi hẹp: r, t, s, z, l, n; đầu lưỡi
quật: đ, a.
Phần vần là do thành phần của âm đệm, âm chính, âm cuối ghép với nhau
thành một bộ phận gọi là phần vần.
Ví dụ: Âm tiết Quyên:
U là âm đệm
Yê là âm chính
N là âm cuối
Uyên là phần vần.
II. Những đặc điểm phát âm của trẻ mẫu giáo.
Âm tiết của ngôn ngữ là đơn vị âm thanh nhỏ nhất trong lời nói không thể
phân chia được nữa, lúc đầu trẻ hình thành thính giác. Âm thanh tức là sự phân biệt
các âm của ngôn ngữ, còn phát âm chúng sẽ học sau. Sự phát âm đúng có liên quan
chặt chẽ với sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan phát âm của trẻ.
Phát âm của trẻ phụ thuộc vào sự hoàn thiện của bộ máy phát âm, ở tuổi mẫu
giáo lớn những điều kiện này đã đạt được mức tương đối ổn định cho nên trẻ đã có
thể phát âm được hầu hết các âm vị. Tuy nhiên một số trẻ vẫn còn mắc một số lỗi
về phát âm.
1. Lỗi về thanh điệu:
Trong số các thanh điệu tiếng Việt, thanh hỏi và thanh ngã là hai thanh có cấu
tạo phức tạp. Việc thể hiện thanh ngã với âm điệu gãy ở giữa là cách phát âm khó
đối với trẻ. Trẻ thay thế bằng cách phát âm đơn giản hơn tức là với âm điệu không
gãy ở giữa. Vì vậy dễ đồng nhất với âm điệu của thanh sắc (Phát âm “mỡ” thành
“mớ”).
- Sự chuyển đổi hướng đi của đường nét âm điệu thanh hỏi không diễn ra đột
ngột như thanh ngã, quá trình phát âm kéo dài trở thành khó đối với trẻ nhỏ có hơi
thở ngắn.
- Khi phát âm, trẻ thay thế âm điệu gãy bằng âm điệu không gãy, điều này
làm cho thanh hỏi ở trẻ gần như đồng nhất với thanh nặng.
- Phát âm hỏi thành họi hoặc phát âm hổ thành hộ. Đến hết tuổi mẫu giáo lớn
lỗi sai về hai thanh này sẽ được khắc phục hầu như hoàn toàn.
2. Lỗi về âm chính:
Lỗi về âm chính tập trung vào các nguyên âm đôi này thành nguyên âm đơn
khi phát âm.
Ví dụ: Trẻ phát âm “Con hươu” thành “Con hiêu”, “Thịt” thành “xịt”.
Trẻ phát âm sai là do tập quán của địa phương hoặc do nghe chưa chính xác,
các âm tiết có âm chính là nguyên âm đôi làm cho cấu tạo của âm tiết phức tạp
hơn, phát âm khó khăn hơn.
3. Lỗi phát âm đầu:
Trẻ thường hay nói lẫn lộn: l, n
Ví dụ: “Lá lúa” trẻ phát âm thành “lá núa” và có thể phát âm “cái nồi” thành
“cái lồi”.
- Lỗi lẫn “tr” thành “t” : “Gà trống” phát âm thành “gà tống”; “trăng sáng”
phát âm thành “tăng sáng”.
- Lỗi lẫn r thành d; gi thành d: “Cái rổ” thành “Cái dổ”; “Cô giáo” thành “Cô
dáo”.
Một số trẻ 5 tuổi khi phát âm phụ âm P trẻ lẫn sang phụ âm “b”
VD: “Đèn pin” thành “Đèn bin”.
4. Lỗi về âm đệm:
Âm đệm chỉ được đọc lướt qua nên trẻ khó ghi nhận những âm chính vì thế
âm đệm thường bị bỏ qua.
VD: Trẻ phát âm “Khuất phục” thành “Quất phục”; “Loắt choắt” thành “Lắt
chắt”
5. Lỗi về âm cuối:
Trong phụ âm đứng làm âm cuối thì những cặp ch và nh trẻ phát âm thành t,
n.
VD: “Cô Oanh” thành “Cô Oăn”, “Cây xanh” thành “cây xăn, “Cái phích”
thành “Cái phít”…
Như trên đã nói thời thơ ấu dễ hình thành sự phát âm đúng hơn khi đã trưởng
thành. Điều quan trọng là cô giáo mầm non đều cần phải nói đúng để làm mẫu cho
trẻ.
III. Nội dung và phương pháp phát âm.
Sự phát âm của trẻ phụ thuộc vào bộ máy phát âm, muốn dạy trẻ phát âm
đúng ta cần thường xuyên hướng dẫn trẻ luyện tập một số cơ quan phát âm như:
môi, lưỡi, răng, sự phát triển linh hoạt của hàm. Cần giúp trẻ biết điều khiển nhịp
nhàng các cử động của bộ máy phát âm. Sự phát âm rõ ràng các âm, các từ phụ
thuộc vào sự chính xác và lực của các cử động.
Rất nhiều trẻ nói không rõ, từ này trộn lẫn với từ kia thành một tập hợp âm
khó hiểu. Nguyên nhân là cử động chậm chạp của môi và lưỡi, tính linh hoạt của
hàm còn yếu do đó miệng của trẻ há không to và các nguyên âm phát ra không
đúng, sự phát âm không rõ ràng, các từ phụ thuộc vào sự phát âm của các nguyên
âm có đúng không và sau đó phụ thuộc vào sự điều hoà các hoạt động của bộ máy
phát âm khi xác lập các phụ âm. Tập luyện cơ của bộ máy phát âm là trọng tâm và
cần thiết như tập thể dục để phát triển cơ thể. ở mầm non, không nên xem việc dạy
phát âm chỉ dành cho các cháu có tật mà làm cho tất cả các cháu.
Giờ dạy phát âm phải được tiến hành thường xuyên, có hệ thống. Những bài
học luyện bộ máy phát âm ở trường mầm non thường mang tính chất trò chơi như
bắt chước tiếng kêu của các loài vật như: “cạc cạc” (vịt); “gâu gâu” (Chó); “chiếp
chiếp” (Gà con); “ộp ộp” (Ếch). Như trò chơi:
Trò chơi: Cái túi kỳ diệu.
Ở lớp mẫu giáo lớn, cô giáo bỏ vào túi 10 đồ chơi là các con vật sau khi giới
thiệu với các cháu từng con vật. Khi chơi cô cho từng cháu lên thò tay vào túi chọn
đồ vật nhưng không được nhìn vào vật mà thử đoán: Nếu đúng thì cô bảo cháu bắt
chước tiếng kêu của con vật đó, nếu cháu gọi tên chưa đúng hoặc phát âm sai tên
gọi thì cô giáo phải phát âm mẫu rõ ràng, chuẩn xác cho các cháu nói lại và tập nói
theo.
Ví dụ: Cháu lấy được con ếch cháu phải nói đúng “con ếch”. Nếu cháu nói
“con ắt” cô giáo phải tập cho cháu nói lại. Sau đó cho các cháu bắt chước tiếng kêu
“ộp, ộp”.
Trò chơi: “Con gì kêu đấy”
Cô giáo treo trên bảng tranh vẽ những con vật, đồ vật và cho cháu đoán hoặc
bày lên bàn những đồ chơi là con vật hay đồ vật có tiếng kêu mà các cháu sẽ đố
nhau, cô bảo các cháu nhìn lên tranh và lên đồ chơi rồi gọi tên chúng. Sau đó cô
bắt chước tiếng kêu của từng con vật hoặc đồ chơi và yêu cầu trẻ nói đúng tên con
vật và đồ vật đó.
VD: Cô nói “tu tu, xình xịch” các cháu phải nói tàu hoả; Cô nói “Vít vít” thì
trẻ nói vịt con; “chiếp chiếp” thì nói gà con, cô nói “ò ó o” thì nói gà trống gáy…
Hoặc cô có thể cho một cháu ra ngoài lớp, sau đó cô và cháu ở trong lớp chọn một
con vật cất đi, cho cháu đó vào thì cô và cháu ở trong lớp bắt chước tiếng kêu của
con vật đó hoặc tiếng động cơ của đồ chơi, sau đó cô bảo cháu đó nói tên con vật
tên đồ chơi.
VD: Cả lớp đồng thanh “ò ó o…” các cháu phải nói gà trống hoặc “bim bim”
cháu phải nói ô tô.