Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Giá trị pháp lý về quyết định phê duyệt của UBND tỉnh Q đối với dự án đầu tư cho công ty cổ phần đầu tư Tây Bắc.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.3 KB, 13 trang )

BÀI LÀM
1.Giá trị pháp lý về quyết định phê duyệt của UBND tỉnh Q đối với
dự án đầu tư cho công ty cổ phần đầu tư Tây Bắc.
Căn cứ theo dữ kiện mà đề bài đưa ra thì không có nói rõ thời
gian cụ thể mà UBND tỉnh Q phê duyệt phương án đầu tư xây dựng
khu trung tâm thương mại chợ X va khu nhà ở tại xã Y huyện P do đó
việc áp dụng quy định của pháp luật làm căn cứ pháp lí để giải quyết
vụ việc sẽ phải dựa trên thời gian gần nhất liên quan. Năm 2005
UBND huyện P đã ra quyết định thu hồi đất và đưa đến các hộ gia
đình có đất nằm trong khu vực đã được phê duyệt. Trong trường hợp
căn cứ vào nghị định 90/2006/NĐ-CP về hướng dẫn thi hành Luật
Nhà ở 2005 để xác định giá trị pháp lí về quyết định phê duyệt của
UBND tỉnh Q đối với dự án đầu tư công ty cổ phần đầu tư Tây Bắc.
Ngoài ra còn phải dựa trên căn cứ tại nghị định 71/2010/NĐ-CP để
xác định rõ giá trị pháp lí quyết định phê duyệt phương án đầu tư xây
dựng của UBND tỉnh Q. Trên cơ sở của 2 văn bản này mà đưa ra
nhưng nhận xét và đánh giá chính xác.
*Căn cứ vào nghị định 90/2006/NĐ-CP:
Theo điều 5 của nghị định 90/2006/NĐ-CP thì:
1
Khi đầu tư phát triển nhà ở theo dự án, chủ đầu tư phải tổ chức lập
dự án phát triển nhà ở theo nội dung quy định tại Điều 6 và Điều 7 Nghị
định này và các yêu cầu quy định tại các Điều 24, 25, 26 và Điều 30 của
Luật Nhà ở.
Chủ đầu tư tổ chức lập và trình duyệt quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ
lệ 1/500 đồng thời với hồ sơ dự án phát triển nhà ở.
Trong tình huống nêu ra công ty Tây Bắc thực hiện dự án đầu tư
xây dựng khu trung tâm dịch vụ thương mại chợ X và khu nhà ở tại
xã Y huyện P. Do dây là đầu tư phát triển nhà theo dự án nên công ty
Tây Bắc phải tổ chức lập dự án và trình lên cấp có thẩm quyền thẩm
định, phê duyệt trước khi tiến hành các bước tiếp theo.


Điều 8 nghị định 90//2006/NĐ-CP cũng quy định về thẩm quyền Phê
duyệt dự án phát triển nhà ở đó là:
- Các dự án phát triển nhà ở trên phạm vi địa bàn tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương do Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh) phê duyệt, trừ các dự án phát triển nhà ở công vụ theo yêu
cầu đặc biệt.
2
- Điều 11 nghị định 90/2006/NĐ-CP quy định :Các chủ đầu tư dự
án phát triển nhà ở thương mại có trách nhiệm lập quy hoạch chi
tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 và lập dự án trình cơ quan có thẩm
quyền phê duyệt. Nội dung quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ
1/500 của dự án phải tuân thủ quy hoạch xây dựng đô thị, điểm
dân cư nông thôn, thiết kế đô thị và đáp ứng yêu cầu nhà ở phù
hợp với từng khu vực đô thị, nông thôn và miền núi quy định tại
Điều 24, 25 và Điều 26 của Luật Nhà ở.
Căn cứ theo quy đinh của điều 8 và điều 11 của nghị định 90 thì thẩm
quyền phê duyệt dự án đầu tư của công ty Tây bắc phải là do Chủ tịch
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) phê duyệt. Trong trường hợp này UBND
tỉnh Q không có thẩm quyền phê duyệt dự án mà phải là cá nhân chủ
tịch tỉnh phê duyệt. Vì vậy quyết định phê duyệt của UBND tỉnh Q là
không có giá trị pháp lý vì không có căn cứ.
*Căn cứ vào nghị định 71/2010/NĐ-CP
Theo điều 5 của nghị định 71/2010/NĐ-CP thì:
3
Trước khi lập dự án phát triển nhà ở, chủ đầu tư phải tổ chức lập
và trình Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền nơi có dự án phát triển
nhà ở phê duyệt quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 theo quy định
của pháp luật về quy hoạch xây dựng, trừ trường hợp nơi có dự án đã

có quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 được duyệt và chủ đầu tư
không có đề xuất điều chỉnh hoặc trường hợp không phải lập quy
hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 theo quy định của pháp luật về quy
hoạch xây dựng.
Nghị định 71 đã phân ra hai loại dự án đầu tư về nhà ở dựa trên
nguồn gốc vốn đầu tư để xác định thẩm quyền thẩm định, phê duyệt
dự án, chấp thuận đầu tư đối với dự án phát triển nhà ở, theo đó :
- Trường hợp xây dựng nhà ở bằng nguồn vốn ngân sách địa
phương thì chủ đầu tư phải tổ chức lập dự án để trình Chủ tịch Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) thẩm định và phê duyệt. Căn cứ vào điều
kiện cụ thể của địa phương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thể
uỷ quyền cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp huyện)
thẩm định và phê duyệt dự án phát triển nhà ở có mức vốn đầu tư
4
dưới 30 tỷ đồng. Nếu căn cứ theo điều khoản này thì việc UBND tỉnh
Q phê duyệt phương án đầu tư xây dựng của công ty Tây Bắc là
không có giá trị pháp lý vì không thuộc thẩm quyền
- Trường hợp xây dựng nhà ở bằng nguồn vốn ngân sách trung
ương thì đơn vị được giao làm chủ đầu tư dự án có văn bản đề nghị
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có dự án chấp thuận đầu tư dự án phát
triển nhà ở với các nội dung quy định tại điểm b khoản 2 Điều 7 của
nghi định 71 trước khi lập dự án, trừ trường hợp dự án do Thủ tướng
Chính phủ quyết định đầu tư. Dựa trên căn cứ này thì quyết định chấp
thuận đầu tư của UBND tình Q là hợp pháp đúng với quy định của
pháp luật.
- Đối với dự án phát triển nhà ở (trừ dự án phát triển nhà ở của
chủ đầu tư cấp II) được đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn không phải
từ ngân sách nhà nước (không phân biệt quy mô sử dụng đất) thì thực

hiện theo quy định sau đây: Chủ đầu tư phải có tờ trình gửi Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh để có văn bản chấp thuận đầu tư dự án phát triển
nhà ở; trong trường hợp dự án phát triển nhà ở có quy mô dưới 500
căn nhà (bao gồm nhà biệt thự, nhà ở riêng lẻ, căn hộ chung cư) thì
chủ đầu tư trình Ủy ban nhân dân cấp huyện để có văn bản chấp
5
thuận đầu tư, trừ trường hợp thuộc diện đấu thầu lựa chọn chủ đầu tư
quy định tại Điều 14 của Nghị định 71. Nếu căn cứ theo khoản 2 điều
7 của nghi định 71 thì thẩm quyền phê duyệt(chấp thuận dự án đầu tư)
của dự án không thuộc vốn ngân sách nhà nước thuộc thẩm quyền của
UBND tỉnh Q vì vậy quyết định phê duyệt dự án của UBND tỉnh là
hoàn toàn đúng vì có cơ sở pháp lý.
=> Như vây dựa trên cơ sở pháp lý trong những giai đoạn khác nhau
thì việc xác định giá trị pháp lý về quyết định phê duyệt của UBND
tỉnh Q sẽ khác nhau. Nếu căn cứ theo nghị định 90/2006 thì quyết
định đó sẽ không có giá trị pháp lý nhưng nếu căn cứ theo nghị định
71/2010 thì quyết định đó sẽ có giá trị pháp lý trong 2 trường hợp như
đã nêu trên.
2. Tính hợp pháp của yêu cầu khiếu nại của các hộ gia đình
Để xác định tính hợp pháp về yêu cầu khiếu nại của các hộ gia
đinh thì phải căn cứ theo các quy định của Luật dất đai và Luật đầu tư
để xác định trong trường hợp này thì dự án có thuộc trường hợp nhà
nước tiến hành thu hồi đất hay không.
6
Căn cứ theo khoản2 điều 36 nghị định 181/2004/NĐ-CP hướng
dẫn thi hành Luật đất đai 2003 thì: Nhà nước thu hồi đất để sử dụng
vào mục đích phát triển kinh tế trong các trường hợp sau:
- Sử dụng đất để đầu tư xây dựng khu công nghiệp quy định tại Điều
90 của Luật Đất đai, khu công nghệ cao quy định tại Điều 91 của Luật
Đất đai, khu kinh tế quy định tại Điều 92 của Luật Đất đai;

- Sử dụng đất để thực hiện các dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ, du lịch thuộc nhóm A theo quy định của pháp luật về đầu tư
đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt hoặc cho phép
đầu tư mà dự án đó không thể đầu tư trong khu công nghiệp, khu công
nghệ cao, khu kinh tế;
- Sử dụng đất để thực hiện các dự án đầu tư có nguồn vốn hỗ trợ phát
triển chính thức (ODA);
- Sử dụng đất để thực hiện dự án có một trăm phần trăm (100%) vốn
đầu tư nước ngoài đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt
hoặc cho phép đầu tư mà dự án đó không thể đầu tư trong khu công
nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế.
7
Căn cứ theo phụ lục số 1 về Phân loại dự án đầu tư xây dựng công
trình ban hành kèm theo nghị định số 12/2009/NĐ-CP về quản lý dự
án đầu tư xây dựng công trình thì dự án thuộc nhóm A là những dự án
có một trong những điều kiện sau:
- Các dự án thuộc phạm vi bảo vệ an ninh, quốc phòng có tính chất
bảo mật quốc gia, có ý nghĩa chính trị - xã hội quan trọng, thành lập
và xây dựng hạ tầng khu công nghiệp mới - không kể mức vốn.
- Các dự án sản xuất chất độc hại, chất nổ không phụ thuộc quy mô
đầu tư - không kể mức vốn.
- Các dự án: công nghiệp điện, khai thác dầu khí, chế biến dầu khí,
hóa chất, phân bón, chế tạo máy (bao gồm cả mua và đóng tàu, lắp
ráp ôtô), xi măng, luyện kim, khai thác, chế biến khoáng sản; các dự
án giao thông: cầu, cảng biển, cảng sông, sân bay, đường sắt, đường
quốc lộ - có mức vốn trên 600 tỷ đồng.
- Các dự án: Thủy lợi, giao thông ( ngoài điểm A-c), cấp thoát nước
và công trình kỹ thuật hạ tầng; kỹ thuật điện; sản xuất thiết bị thông
tin, điện tử, tin học, hóa dược, thiết bị y tế, công trình cơ khí khác, sản
xuất vật liệu, bưu chính viễn thông; BOT trong nước; xây dưng khu

8
nhà ở; đường giao thông nội thị thuộc các khu đô thị đã có quy hoạch
chi tiết được duyệt - có mức vốn trên 400 tỷ đồng.
- Các dự án: hạ tầng kỹ thuật của khu đô thị mới; các dự án: Công
nghiệp nhẹ, sành sứ, thủy tinh,, in; vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên
nhiên, mua sắm thiết bị xây dựng; sản xuất nông. lâm, ngư nghiệp,
nuôi trồng thủy sản; chế biến nông, lâm sản - có mức vốn 300 tỷ
đồng.
- Các dự án: Y tế, văn hóa, giáo dục, phát thanh, truyền hình, xây
dựng dân dụng, kho tàng, du lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa
học và các dự án khác - có mức vốn trên 200 tỷ đồng.
Từ các căn cứ nêu trên theo phương pháp loại trừ, có thể khẳng định
trong vụ việc này thì các hộ gia đình khiếu nại là hoàn toàn đúng, dự
án mà công ty cổ phần đầu tư Tây Bắc thực hiện là dự án kinh doanh
dịch vụ không thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất. Do đó chủ đầu
tư phải thỏa thuận với người sử dụng đất.
3.Tư vấn cho các hộ gia đình để thực hiện bảo vệ quyền lợi.
9
Căn cứ theo khoản 2 điều 264 Luật tố tụng Hành chính Khiếu
nại, sửa đổi về quy định khởi kiện đối với quyết định hành chính,
hành vi hành chính về quản lý đất đai
Người sử dụng đất có quyền khiếu nại quyết định hành chính
hoặc hành vi hành chính về quản lý đất đai.
Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại quyết định hành chính,
hành vi hành chính về đất đai thực hiện theo quy định của pháp luật
về khiếu nại. Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu kiện quyết định hành
chính, hành vi hành chính về đất đai thực hiện theo quy định của Luật
tố tụng hành chính.”
Theo khoản 1 Điều 162 Nghị định 181/2004/NĐ-CP:
- Quyết định hành chính trong quản lý đất đai bị khiếu nại bao

gồm các loại quyết định sau: Quyết định giao đất, cho thuê đất, thu
hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất;
Quyết định bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư ;
Quyết định cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ;
Quyết định gia hạn thời hạn sử dụng đất.
10
Như vậy, quyết định của cơ quan có thẩm quyền về thu hồi đất,
bồi thường, hỗ trợ tái định cư là quyết định hành chính trong quản lý
đất đai. Do đó, người sử dụng đất có quyền khiếu kiện đối với các
quyết định của cơ quan có thẩm quyền về thu hồi đất, bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật,
xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Theo Điều 138 của Luật Đất đai, điều 9 của Luật Khiếu nại năm
2011 và Điều 103 Luật Tố tụng Hành chính năm 2010 thì trong quá
trình thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất; người bị thu hồi có căn cứ cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của
mình bị xâm phạm thì họ có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa
án trong những trường hợp sau đây
- Kể từ ngày hết thời hạn giải quyết quy định tại Điều 32 Luật
Khiếu nại 2011 mà khiếu nại không được giải quyết
- Kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu
mà người khiếu nại không đồng ý thì có quyền khiếu nại đến người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần 2 hoặc khởi kiện vụ án hành
chính tại Tòa án
11
- Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải
quyết khiếu nại lần đầu của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thì có quyền khởi kiện vụ án hành
chính tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Như vậy căn cứ vào quy định của pháp luật thì có một số hướng

để các hộ gia đình khởi kiện bảo vệ quyền lợi của mình tại tòa án như
sau:
Trong trường hợp khởi kiện quyết định thu hồi đất của UBND
huyện P thì các hộ gia đình cần gửi đơn khỏi điện đến Tòa án nhân
dân huyện B( căn cứ theo điều 29 của Luật tố tụng hành chính 2010)
Sau khi nhận được quyết định giải quyết khiếu nại của chủ tịch
UBND tỉnh Q mà không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại
này các hộ gia đình có quyền khởi kiện chủ tịch UBND tỉnh Q ra tòa
án hành chính vì quyết định đó.
12
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Luật đất đai 2003
2. Luật Tố tụng hành chính 2010
3. Phụ lục số 1 về Phân loại dự án đầu tư xây dựng công trình ban
hành kèm theo nghị định số 12/2009/NĐ-CP về quản lý dự án
đầu tư xây dựng công trình
4. Nghị định 181/2004/NĐ-CP
5. Luật Khiếu nại 2011.

13

×