Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

thảo luận Phạm vi trách nhiệm bồi thường của nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự Cho ví dụ minh họa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.41 KB, 12 trang )

A. Đặt vấn đề
Quyền được bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền cúa cơ quan tiến hành tố
tụng hình sự gây ra là một trong những quyền cơ bản về dân sự, chính trị của con
người. Ở nước ta, quyền được bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ
quan tiến hành tố tụng hình sự gây ra cũng được ghi nhận tại Điều 72 Hiến pháp
năm 1992. Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về bồi thường thiệt hại trong hoạt
động tố tụng hình sự BLTTHS năm 2003 quy định tại Đ29 và 30 cũng như Đ26
Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước. Trong phạm vi bài viết này em xin
được trình bày vấn đề : “Phạm vi trách nhiệm bồi thường của nhà nước trong
hoạt động tố tụng hình sự? Cho ví dụ minh họa?”
B. Nội dung
1. Đặc điểm trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố
tụng hình sự
Để đảm bảo tính khả thi và tạo cơ chế hữu hiệu cho người bị thiệt hại có thể
thực hiện được quyền bồi thường của mình đối với những thiệt hại do người
tiến hành tố tụng hình sự gây ra, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã
quy định cụ thể trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng
hình sự. Trách nhiện của Nhà nước trong hoạt động này có các đặc trưng cơ bản
sau:
- Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự được
đặt ra mà không cần xét đến hành vi trái pháp luật và có lỗi của người tiến
hành tố tụng hình sự.
Đây là điểm khác biệt của trách nhiệm bồi thường nhà nước trong hoạt động
tố tụng hình sự so với trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động
quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính và thi hành án. Trong
hoạt động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án,
Nhà nước chỉ có trách nhiềm bồi thường nếu thiệt hại do hành vi trái pháp luật
của người thì hành công vụ gây ra. Còn trong hoạt động tố tụng hình sự, mặc dù
1
nguời tiến hành tố tụng thực hiện đúng thẩm quyền trong việc bắt, giam giữ,
khởi tố, truy tố và xét xử mà sau đó có bản án, quyết định của tòa án tuyên vô


tội thì người bị bắt oan, giam oan, tù oan được bồi thường mà không cần xét
đến hành vi trái pháp luật và có lỗi của người tiến hành tố tụng hình sự. Sở dĩ có
sự khác nhau như vậy là bởi trong hoạt động tố tụng hình sự, để ngăn chặn các
hành vi phạm tội, phát hiện nhanh chóng, chính xác và xử lý nghiêm minh, kịp
thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội
thì các cơ quan, người tiến hành tố tụng hình sự có quyền áp dụng các biện
pháp của tố tụng hình sự để giải quyết vụ án. Tuy nhiên, việc áp dụng các biện
pháp này rất dễ xâm phạm đến quyền con người, nó hạn chế một cách trực tiếp
các quyền cơ bản của công dân và hậu quả để lại vô cùng nghiêm trọng khi nó
động chạm đến quyền được sống, quyền tự do và sinh mệnh chính trị của một
cá nhân. Do đó, Nhà nước sẽ bồi thường đối với những thiệt hại do người tiến
hành tố tụng hình sự gây ra nếu những thiệt hại đó thuộc phạm vi trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước mà không cần biết thiệt hại đó có phải do hành vi trái
pháp luật và có lỗi của người tiến hành tố tụng hình sự gây ra hay không. Đây là
một quy định đặc thù về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong tố tụng
hình sự thể hiện sự quan tâm cao độ của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền con
người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong tố tụng hình sự.
- Nhà nước chỉ chịu trách nhiệm bồi thường đối với các quyết định, hành vi
của những người tiến hành tố tụng hình sự thuộc phạm vi trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước quy định tại Điều 26 Luật trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước.
- Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự chỉ
phát sinh khi các quyết định, hành vi của những người tiến hành tố tụng hình
sự đã gây ra thiệt hại cho người bị thiệt hại.
- Các quyết định, hành vi của những người tiến hành tố tụng hình sự chỉ làm
phát sinh trách nhiệm bồi thường Nhà nước khi được xác định trong bản án,
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng
hình sự. Điều này có nghĩa là cá nhân, tổ chức muốn Nhà nước bồi thường
cho mình những thiệt hại do người tiến hành tố tụng hình sự gây ra thì phải
có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng

hình sự xác định người bị thiệt hại thuộc trường hợp được Nhà nước bồi
thường.
2
2. Phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng
hình sự
Theo quy định tại Điều 26 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước,
phạm vi các trường hợp mà Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
hoạt động tố tụng hình sự bao gồm:
2.1. Người bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong
hoạt động tố tụng hình sự hủy bỏ quyết định tạm giữ vì người đó
không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
Tạm giữ là một trong các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ
quan, người có thẩm quyền trong tố tụng hình sự tiến hành nhằm ngăn chặn
hành vi phạm tội, hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở hoạt động điều tra, tạo
điều kiện cho người điều tra thu thập tài liệu, chứng cứ bước đầu, xác định tính
chất hành vi của người bị tình nghi thực hiện tội phạm đối với vụ án hình sự
hoặc để đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử. Tạm giữ được áp dụng đối
với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người
phạm tội tự thú, đầu thú đối với người bị bắt hoặc theo quyết định truy nã
(Điều 86 BLTTHS năm 2003). Khi cơ quan, người có thẩm quyền trong tố
tụng hình sự áp dụng biện pháp này có thể xâm phạm đến quyền tự do thân thể
của công dân. Do đó, để bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tố tụng
hình sự thì khi người bị tạm giữ không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật và
việc tạm giữ của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình
sự gây ra thiệt hại cho người bị tạm giữ thì Nhà nước có trách nhiệm bồi
thường. Hay nói cách khác, điều kiện để Nhà nước bồi thường đối với những
thiệt hại do người có thẩm quyền trong tố tụng hình sự gây ra khi áp dụng biện
pháp tạm giữ là:
- Người bị tạm giữ không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật;
- Có quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ của cơ quan có thẩm quyền trong

hoạt động tố tụng hình sự;
- Việc tạm giữ gây ra thiệt hại cho người bị tạm giữ.
Ví dụ: Công an huyện X tạm giữ anh Nguyễn Văn A cùng 10 người khác vì
hành vi gây rối trật tự công cộng tại chợ Diên Hồng. Qua điều tra đã xác định
tại thời điểm đó A là người đi đường, thấy có sự việc nên đứng xem và bị tạm
3
giữ do nhầm lẫn nên cơ quan điều tra đã quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ
đối với A. Trong trường hợp này Nguyễn Văn A được bồi thường thiệt hại.
2.2. Người bị tạm giam, người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành
hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, người đã bị kết án tử hình,
người đã thi hành án tử hình mà có bản án, quyết định của cơ quan có
thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không
thực hiện hành vi phạm tội
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự do các cơ quan điều tra,
viện kiểm sát, tòa án áp dụng nhằm ngăn chặn bị can, bị cáo trốn tránh pháp
luật. Biện pháp tạm giam được áp dụng đối với những người đã bị khởi tố về
hình sự hoặc người đã bị tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử để đảm bảo
thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Hay nói cách
khác, đối tượng áp dụng biện pháp tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo. Những
người chưa bị khởi tố về hình sự hoặc người không bị tòa án quyết định đưa vụ
án ra xét xử thì không thể bị tạm giam. Tuy vậy, biện pháp tạm giam không phải
áp dụng cho tất cả bị can, bị cáo mà nó chỉ áp dụng trong một số trường hợp: bị
can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS
quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn
hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Bị can,
bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là
người già yếu, hoặc bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng chỉ bị tạm giam khi: (i)
bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã; (ii) bị can, bị cáo được áp
dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở
nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử; (iii) bị can, bị cáo phạm tội xâm

phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cử cho rằng nếu không tạm giam đối với họ
thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Như vậy, biện pháp tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất trong
các biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự, nó ảnh hưởng trực tiếp quyền lợi
chính trị, quyền tự do của con người. Người bị tạm giam bị cách li với xã hội, bị
hạn chế một số quyền công dân. Do đó, để đảm bảo quyền của người bị tạm
giam, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã quy định khi người bị tạm
giam có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng
hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội thì người bị tạm
giam được Nhà nước bồi thường do họ đã bị tạm giam oan.
4
Ngoài ra, người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời
hạn, tù chung thân, người đã bụ kết án tử hình, người đã thi hành án tử hình mà
có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình
sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội thì Nhà nước cũng có
trchá nhiệm bồi thường. Điều này có nghĩa là theo bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của tòa án bị cáo phải chịu hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân
hoặc hình phạt tử hình. Tuy nhiên, sau khi người bị kết án đã chấp hành xong
hình phạt tù có thời hạn, đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù chung
thân, người đã bị kết án tử hình, người đã thi hành án tử hình mà bản án, quyết
định của tòa án tuyên bố bị cáo không có tội thì Nhà nước có trách nhiệm bồi
thường cho người bị kết án do họ đã bị tù oan.
Tuy nhiên, như thế nào là “không thực hiện hành vi phạm tội”. Hiện nay, trên
thực tế đang có cách hiểu khác nhau về quy định này. Có quan điểm cho rằng
người được bồi thường phải là người hoàn toàn không thực hiện bất cứ hành vi
vi phạm pháp luật nào. Quan điểm khác lại cho rằng người được bồi thường là
người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật nhưng hành vi đó không cấu thành
tội phạm.
Việc hiểu “không thực hiện hành vi phạm tội” như các quan điểm trên là chưa
đầy đủ bởi một người chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi người đó thực

hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và hành vi đó có đủ các dấu hiệu của một
cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS. Do đó, một người không
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội hoặc có thực hiện hành vi vi phạm pháp
luật nhưng không đầy đủ dấu hiệu của một cấu thành tội phạm thì hành vi đó
không phải là tội phạm; người đã thực hiện hành vi đó không bị truy cứu trách
nhiệm hình sự; đông thời thiệt hại của họ phải được Nhà nước bồi thường. Như
vậy, các trường hợp mà Nhà nước phải bồi thường thiệt hại khi có quyết định
của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người bị
thiệt hại không thực hiện hành vi phạm tội bao gồm:
Thứ nhất, không có sự việc phạm tội. Đây là trường hợp người bị thiệt hại
không thực hiện bất cứ hành vi vi phạm pháp luật nào hay nói cách khác họ đã
bị các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự áp dụng các biện pháp ngăn chặn hoặc
đã bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án oan.
5
Ví dụ: Nguyễn Văn B bị cơ quan điều tra khởi tố, truy tố và bắt giam vì tội bắt
cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Đ134 BLHS). Tuy nhiên TAND khi xét xử sơ
thẩm đã tuyên ông B không phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Trong
trường hợp này B được bồi thường thiệt hại do bị giam oan
Thứ hai,hành vi không cấu thành tội phạm. Cơ sở của việc quy định trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước trong trường hợp này là do người bị thiệt hại
có thực hiện hành vi vi phạm pháp luật nhưng hành vi của họ chỉ đến mức xử lý
về hành chính, dân sự hoặc bị xử lý kỉ luật chứ chưa đến mức phải bị truy cứu
trách nhiệm hình sự. Hay nói cách khác, hành vi của họ chưa đến mức phải áp
dụng các biện pháp của tố tụng hình sự để giải quyết. việc áp dụng các biện
pháp của tố tụng hình sự để xử lí các hành vi vi phạm pháp luật trong trường
hợp này là không tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm của hành vi, đồng
thời dẫn đến hậu quả là người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật có thể bị hạn
chế một số quyền công dân, bị cách ly với xã hội hoặc bị tước đoạt sinh mệnh
mà đáng lẽ ra họ không phải gánh chịu các hậu quả này. Do đó, khi có quyết
định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định hành

vi không cấu thành tội phạm thì Nhà nước có trách nhiệm bồi thường cho người
bị oan.
Ví dụ : Nguyễn Văn A trộm cắp tài sản của chị Trần Thị B số tiền là 1,9 triệu
đồng. A chưa từng bị xử lý hành chính về hành vi này cũng như hành vi này
không gây nên hậu quả nghiêm trọng gì nên lẽ ra A chỉ bị xử lý hành chính,
nhưng do sai sót nên A đã bị tòa án tuyên phạt 6 tháng tù treo. Trong trường hợp
này A sẽ được nhà nước bồi thường do hành vi không cấu thành tội phạm.
2.3. Người bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án
Với đối tượng này, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước chia thành các
trường hợp sau:
- Người bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án không bị tạm giữ, tạm giam,
thi hành hình phạt tù có thời hạn mà có bản án, quyết định của cơ quan có
thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực
hiện hành vi phạm tội.
6
Đây là trường hợp một người tuy không bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn
như tạm giữ, tạm giam hoặc không bị kết án phạt tù có thời hạn nhưng họ đã bị
khởi tố, truy tố, xét xử và thi hành án, hay nói cách khác họ cũng đã bị các cơ
quan tiến hành tố tụng bằng các quyết định tố tụng đặc trưng của mình khẳng
định họ là người có tội và có thể đã buộc họ phải chịu hình phạt (cảnh cáo, hình
phạt tù cho hưởng án treo, hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt trục
xuất, hình phạt quản chế hoặc cấm cư trú, hình phạt tiền hoặc tịch thu tài sản).
Do đó, khi có bản án,quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố
tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội thì Nhà nước
có trách nhiệm bồi thường.
Ví dụ : Anh A bị TAND huyện T kết án vì tội tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có và tuyên phạt 8 tháng tù. Sau đó Ủy ban Thẩm phán TAND tối
cao xử hủy bản án này và tuyên bố anh A không phạm tội tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có. Trong trường họp này anh A được nhà nước bồi
thường do không thực hiện hành vi phạm tội.

- Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án, đã chấp
hành hình phạt tù mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một
hoặc một số tội và hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm
giam, chấp hành hình phạt tù thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với
thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình
phạt của những tội mà người đó phải chấp hành.
Đây là trường hợp một người theo bản sán, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
bị tuyên là phạm nhiều tội trong cùng một vụ án và đã chấp hành hình phatj tù
nhưng sau đó bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền rong hoạt động tố
tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội. Do đó, khi
hình phạt mà người đó phải chấp hành ít hơn thời gian mà họ đã bị tạm giam,
chấp hành hình phạt tù thì Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại tương
ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức
hình phạt của những tội mà người đó phải chấp hành.
- Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án và bị kết
án tử hình nhưng chưa thi hành mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan
7
có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không
phạm tội bị kết án tử hình và tổng hợp hình phạt của những tội còn lại ít hơn
thời gian đã bị tạm giam thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời
gian đã bị tạm giam vượt quá so với mức hình phạt chung của những tội mà
người đó phải chấp hành.
Ví dụ: Trần Văn B bị TAND tỉnh C tuyên phạm 2 tội: “tội giết người” và “tội
cưỡng đoạt tài sản” và tổng hợp hình phạt B bị tuyên án tử hình. B kháng cáo, Tòa
phúc thẩm TAND tối cao xét xử phúc thẩm xác định B không phạm tội giết người
mà chỉ phạm tội cưỡng đoạt tài sản. Tòa phúc thẩm tuyên B phải chấp hành hình
phạt 1 năm tù giam với tội cưỡng đoạt tài sản. B đã bị tạm giam 18 tháng. Như vậy
B được Nhà nước bồi thường thiệt hại tương ứng với 6 tháng tạm giam vượt quá so
với mức hình phạt mà anh B phải chịu

- Người bị xét xử bằng nhiều bản án, toàn án đã tổng hợp hình phạt của nhiều
bản án đó, mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong
hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số
tội và hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp
hành hình phạt tù thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị
tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt của những
tội mà người đo phải chấp hành;
Ví dụ: TAND TP Hà Nội tuyên phạt Nguyễn Văn C 8 năm tù giam về tội giết
người, cộng với 4 năm tù giam về tội cướp tài sản do TAND tỉnh Vĩnh Phúc
tuyên phạt. Tổng hợp hình phạt cho A là 12 năm tù giam. C đã chấp hành hình
phạt tù được 6 năm thì Chánh án TAND tối cao kháng nghị giám đốc thẩm bản
án của TAND TP Hà Nội. Tòa án nhân dân xét xử giám đốc thẩm đã hủy bản án
có hiệu lực pháp luật của TAND TP Hà Nội và đình chỉ vụ án do C không thực
hiện hành vi phạm tội “ Giết người”. Như vậy C chỉ phải chịu hình phạt tù giam
là 4 năm về tội “ Cướp tài sản”. C đã chấp hành hình phạt được 6 năm. Trong
trường hợp này, anh C sẽ được Nhà nước bồi thường thiệt hại tương ứng với 2
năm vượt quá so với mức hình phạt mà anh C phải chịu
8
2.4. Tổ chức, cá nhân có tài sản bị thiệt hại do việc thu giữ, tạm giữ, kê
biên, tịch thu, xử lí có liên quan đến các trường hợp quy định tại
khoản 1,2 và 3 Điều 26 Luật trách nhiện bồi thường của Nhà nước thì
được bồi thường
Trong tố tụng hình sự một người không thực hiện hành vi phạm tội nhưng các
cơ quan tiến hành tố tụng bằng các quyết định tố tụng đặc trưng của mình
khẳng định họ là người có tội, đã áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng hoặc
hình phạt đối với họ nên làm cho họ bị thiệt hại về tài sản, thể chất hoặc tinh
thần. Đối với các thiệt hại này Nhà nước có trách nhiệm bồi thường. Như vậy,
trong quá trình tiến hành các hoạt động tố tụng hình sự, các cơ quan, người có
thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự có thể thu giữ thư tín, điện tín, bưu
kiện, bưu phẩm (Điều 144 BLTTHS), tạm giữ đồ vật, tài liệu khi khám xét

(Điều 145 BLTTHS), kê biên tài sản (Điều 146 BLTTHS), tịch thu tài sản (Điều
267 BLTTHS) nếu có căn cứ cho rằng đây là các chứng cứ liên quan trực tiếp
đến vụ án để đảm bảo thi hành án hình sự hoặc để thi hành các bản án, quyết
định hình sự. Tuy nhiên, khi có bản án, quyết định của các cơ quan có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành
vi phạm tội thì việc thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu, xử lý tài sản của ác cơ
quan tiến hành tố tụng hình sự đã gây thiệt hại đối với các tài sản của cá nhân,
tổ chức. Trong trường hợp này các thiệt hại về tài sản do việc thu giữ, tạm giữ,
kê biên, tịch thu, xử lý được Nhà nước bồi thường.
Ví dụ : Nguyễn Văn T bị khởi tố về 2 tội: gây rối trật tự công cộng và hủy hoại
tài sản và bị kê biên tài sản về tội này. Sau đó T chỉ bị xử lý về tội gây rối trật tự
công cộng và được xác định là khởi tố oan về tội hủy hoại tài sản, đồng thời do
việc kê biên tài sản mà T bị thiệt hại thì những thiệt hại đó T phải được Nhà
nước bồi thường
3. Các trường hợp không được Nhà nước bồi thường thiệt hại trong hoạt
động tố tụng hình sự
Theo quy định tại Điều 27 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước thì các
trường hợp không được Nhà nước bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng
hình sự bao gồm:
• Người được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật
9
• Cố ý khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu, vật chứng khác sai sụ thật
để nhận tội thay cho người khác hoặc để che giấu tội phạm
• Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án hoặc
tòa án quyết định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án, đã bị tạm giữ, bị
tạm giam, đã chấp hành hình phạt tù hoặc đã bị kết án tử hình nhưng
chưa thi hành án mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không pạm một
hoặc một số tội nhưng không thuộc các trường hợp quy định tại các
khoản 4,5 và 6 Điều 26 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước

• Người bị khởi tố, truy tố trong vụ án hình sự được khởi tố theo yêu cầu
của người bị hại nhưng vụ án đã được đình chỉ do người bị hại đã rút yêu
cầu khởi tố, trừ trường hợp hành vi vi phạm pháp luật của ho chưa cấu
thành tội phạm
• Người bị khởi tố, truy tố, xét xử là đúng với các văn bản quy phạm pháp
luật tại thời diểm khởi tố, truy tố, xét xử nhưng tại thời điểm ra bản án,
quyết định có hiệu lực pháp luật mà theo các văn bản quy phạm pháp luật
mới được ban hành và có hiệu lực sau ngày khởi tố, truy tố, xét xử đó họ
không phải chịu trách nhiệm hình sự
C. Kết luận
Như vậy, qua bài viết trên, chúng ta có thể hiểu rõ phần nào về phạm vi trách
nhiệm bồi thường của nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự. Quy định của
pháp luật Việt Nam cũng đã phù hợp với Công ước quốc tế về các quyền dân sự
và chính trị ngày 16/12/1996: “ Bất kỳ người nào trở thành nạn nhân của việc
bị bắt hoặc bị giam cầm bất hợp pháp đều có quyền yêu cầu được bồi thường”
10
Danh mục tài liệu tham khảo
• Trường Đại học Luật Hà Nội, Tập bài giảng luật trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2011.
• Bộ luật hình sự năm 1999.
• Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
• Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009
Mục Lục
11
12

×