Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế trang trại ở Hà Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.46 KB, 38 trang )

Lời nói đầu
Trong điều kiện của nớc ta hiện nay, đờng lối phát triển kinh tế của Đảng
là: Phát triển một nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trờng có sự
quản lý của Nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa.... cùng với xu hớng
phát triển của nền sản xuất hàng hoá trong các ngành của nền kinh tế quốc
dân, Kinh tế trang trại đã góp phần tạo một bớc tiến quan trọng trong sự phát
triển của sản xuất nông nghiệp và kinh tế xã hội ở nông thôn. Phát triển kinh
tế trang trại đã góp phần tích cực trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp, nông thôn, góp phần tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo cho rất
nhiều hộ nông dân, nó đã lam thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội ở nhiều địa ph-
ơng.
Thành công của kinh tế trang trại không chỉ về mặt kinh tế , xã hội , môi
trờng. Điều quan trọng là nó khẳng định một hớng đi đúng đắn, một triển vọng
sáng sủa cho sự phát triển của sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn và làm
thay đổi, chuyển biến nhận thức, quan điểm của nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều
ngời trong việc hoạch định chủ trơng chính sách theo chiều hớng tiến bộ, tích
cực, phù hợp với xu thế phát triển tất yếu khách quan của đời sống kinh tế- xã
hội , của thời đại và của lịch sử. Ngày 02/02/2000, Chính phủ có nghị quyết số
03 về phát triển Kinh tế trang trại (NQ 03/NQ- CP), tiếp tục khẳng định quan
điểm của Đảng và Chính phủ về tính tất yếu khách quan của phát triển kinh tế
trang trại của nớc ta trong thời kỳ công nghiệp và hiện đại hoá đất nớc.
Hà Giang một tỉnh miềm núi nơi biên giới phía Bắc, có tiềm năng để phát
triển nông- lâm nghiệp. Trong những năm gần đây, Hà Giang đợc sự quan tâm
của Trung ơng, các Bộ ngành tạo điều kiện đầu t cùng với sự nỗ lực phấn đấu
của đồng bào các dân tộc, Hà Giang đã phát triển khá nhanh về kinh tế- xã
hội, đời sống nhân dân đợc cải thiện. Song Hà Giang vẫn là một tỉnh nghèo,
1
sản xuất hàng hoá chậm phát triển, cơ sở hạ tầng còn yếu, trình độ dân trí nói
chung còn thấp. Cùng với các mô hình kinh tế khác, mô hình kinh tế trang trại
ở tỉnh Hà Giang đã đang đợc phát triển và có hiệu quả cao. Tuy nhiên, Kinh tế
trang trại ở Hà Giang vẫn còn một số vấn đề cần làm rõ nh: thế nào là một


trang trại ? vai trò của Kinh tế trang trại ? Phơng hớng và những biện pháp chủ
yếu để phát triển Kinh tế trang trại trong thời gian tới?...với điều kiện về tự
nhiên, kinh tế, xã hội nh ở Hà Giang thì việc phát triển mô hình kinh tế trang
trại ở đây là một định hớng đúng đắn hợp với quy luật phát triển của nền sản
xuất hàng hoá trong cơ chế thị trờng,theo định hớng XHCN. Chính vì thế mà
em chọn đề tài: Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế trang trại ở Hà
Giang
Nội dung chính của đề tài gồm 3 phần:
1. Những vấn đề lý luận cơ bản và cơ sở thực tiễn về phát triển kinh tế
trang trại
2. Những thực trạng về kinh tế trang trại ở Hà Giang
3. Phơng hớng và một số giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới và phát triển
kinh tế trang trại ở Hà Giang
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Phạm Văn Khôi, ngời thầy đã tận tình
hớng dẫn và giúp đỡ em trong quá trình viết đề tài này.
Trong quá trình viết, mặc dù em đã cố gắng nhng không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Em rất mong có đợc những góp ý của các thầy cô.
2
Nội dung chính
1.Những vấn đề lý luận cơ bản và cơ sở thực tiễn để phát triển
Kinh tế trang trại.
1.1. Khái niệm, vai trò và những đặc trng của Kinh tế trang trại.
1.1.1Khái niệm Kinh tế trang trại.
Ngày nay, trong điều kiện kinh tế thị trờng, quy mô gia đình ngày càng
trở thành phổ biến và chiếm tuyệt đại bộ phận số lợng các đơn vị sản xuất
nông nghiệp mang tính tập trung. Ngôn ngữ các nớc đều có những thuật ngữ
để chỉ hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp tập trung đó, đó là nông trại
hay trang trại. Có thể hiểu đó là những khu đất tập trung tơng đối lớn, ở đó
sản xuất nông nghiệp đợc tiến hành có tổ chức dới sự chỉ huy của ngời chủ
mà phần lớn là chủ gia đình. Lao động bao gồm: lao động gia đình và lao

động thuê ngoài(lao động thuê thờng xuyên và lao động thuê thời vụ). Sản
xuất nông nghiệp đi vào sản xuất hàng hoá và từng bớc gắn liền với kinh tế thị
trờng.
Trong những năm gần đây, ở nớc ta, các cơ quan, các nhà khoa học và
các nhà quản lý khi nghiên cứu kinh tế trang trại hầu nh đều đa ra khái niệm
về kinh tế trang trại và coi đó là điểm xuất phát để nghiên cứu.
Về thực chất trang trại và kinh tế trang trại là hai khái niệm không
đồng nhất. Kinh tế trang trại là tổng thể các yếu tố vật chất của sản xuất và
các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình tồn tại và hoạt động của trang
trại. Còn trang trại là nơi kết hợp nhữnag yếu tố sản xuất và chủ thể các
quan hệ kinh tế đó.
Nh vậy, có thể thấy khái niệm trang trại rộng hơn khái niệm kinh tế
trang trại. Tuy nhiên, trong các mặt kinh tế,xã hội, môi trờngthì mặt kinh tế
là cơ bản chứa đựng những nội dung cốt lõi của trang trại, nên trong nhiều tr-
3
ờng hợp ngời ta thờng gọi tắt kinh tế trang trại là trang trại. Chúng ta có thể
hiểu khái niệm kinh tế trang trại nh sau: trang trại là hình thức cơ sở trong
nông- lâm- ng nghiệp có mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hoá. T liệu
sản xuất thuộc quyền sản xuất và sử dụng của ngời chủ độc lập, sản xuất
đợc tiến hành trên quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất đợc tập trung t-
ơng đối lớn với cách thức tổ chức và quản lý tiến bộ, trình độ kỹ thuật cao,
hoạt động tự chủ và gắn với thị trờng.
Có thể nói trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông -
lâm - ng nghiệp. Nó là đơn vị trực tiếp sản xuất ra những sản phẩm vật chất
cần thiết cho xã hội gồm: nông, lâm, thuỷ sản đồng thời quá trình sản xuất
của trang trại là khép kín với các khâu của qquá trình tái sản xuất luôn kế tiếp
nhau bao gồm: sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng. Mục đích của trang
trại là sản xuất hàng hoá. Trong điều kiện kinh tế thị trờng, các yếu tố sản
xuất nh vốn, đất đai, lao động...đợc tập trung với quy mô nhất định theo yêu
cầu của sản xuất hàng hoá. T liệu sản xuất của trang trại thuộc quyền sở hữu

hoặc quyền sử dụng của ngời chủ độc lập. Chính vì thế trang trại tự chủ hoàn
toàn trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, từ lựa chọn phơng hớng sản
xuất, quyết định kỹ thuật và công nghệ sản xuất, tổ chức sản xuất đến tiếp cận
thị trờng, tiêu thụ sản phẩm.
1.1.2 Vai trò của kinh tế trang trại.
Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá chủ yếu trong nông
nghiệp. Chính vì thế trang trại có vị trí hết sức to lớn trong việc sản xuất lơng
thực, thực phẩm cung cấp cho xã hội, trong việc phát triển nông nghiệp, nông
thôn mới, thực hiện sự phân công lao động xã hội ở nông thôn.
Điều đó thể hiện ở những mặt sau:
+ Trang trại lấy việc khai thác tiềm năng và lợi thế so sánh, lấy phục vụ nhu
cầu xã hội làm phơng thức vì vậy nó cho phép huy động sử dụng đất đai, sức
4
lao động và các nguồn lực khác một cách hợp lý, có hiệu quả, nó góp phần
làm cho nông nghiệp không ngừng tăng trởng.
+ Trang trại góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các loại cây
trồng, vật nuôi có giá trị hàng hoá cao, khắc phục tình trạng manh mún, tạo
điều kiện để tập trung hoá và hình thành vùng chuyên môn hoá vì vậy nó đẩy
nhanh nông nghiệp sang sản xuất hàng hoá. Trang trại còn thúc đẩy phát triển
công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến và dịch vụ sản xuất ở nông thôn.
+ Thông qua hoạt động của trang trại với cách thức tổ chức sản xuất và quản
lý kinh doanh tiên tiến trang trại là nơi tiếp nhận và truyền tải các tiến bộ khoa
học công nghệ đến hộ nông dân.
+ Về mặt xã hội, phát triển kinh tế trang trại làm tăng hộ giầu cho nông
thôn, tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho nông thôn, góp phần thúc đẩy
phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn, làm cho nông dân hiểu biết thêm về các
hình thức tổ chức sản xuất và có hiệu quả vì thế nó có vai trò làm thay đổi bộ
mặt của nông thôn theo hớng tích cực.
1.1.3 Những đặc trng cơ bản của kinh tế trang trại.
Từ khái niệm ở trên có thể thấy kinh tế trang trại có những đặc điểm sau

đây:
Trang trại là đơn vị sản xuất hoat động trong lĩnh vực nông- lâm- ng nghiệp
là chủ yếu.
Kinh doanh sản xuất nông sản hàng hoá cho thị trờng, tỷ suất hàng hoá th-
ờng đạt 70- 80% trở lên. Tỷ suất hàng hoá càng cao càng thể hiện bản chất và
trình độ phát triển của kinh tế trang trại.
Chủ trang trại là chủ kinh tế cá thể(bao gồm kinh tế hộ gia đình và kinh tế
tiểu chủ) nắm một phần quyền sở hữu và toàn bộ quyền sử dụng đối với ruộng
đất, vốn, t liệu sản xuất...vì thế trang trại hoàn toàn tự chủ trong sản xuất kinh
doanh. Chủ trang trại là ngời có ý chí, có năng lực tổ chức quản lý, có kinh
5
nghiệm và kiến thức nhất định về sản xuất kinh koanh nông nghiệp đồng thời
có kiến thức nhất định về thị trờng.
Tổ chức quản lý sản xuất của trang trại tiến bộ hơn hộ nông dân và nhu cầu
về ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và tiếp cận thị trờng cao hơn.
Lao động trong trang trại chủ yếu là ngời trong gia đình ngoài ra có lao
động thuê ngoài(gồm: lao động thuê thờng xuyên và lao động thuê thời vụ).
Về đất đai của trang trại ngoài đất đợc Nhà nớc giao quyền sử dụng theo
luật đất đai còn có thể khai hoang hoặc thuê của Nhà nớc hoặc sang nhợng để
đất đai có quy mô lớn hơn, liền vùng, liền khoảnh hơn so với sản xuất của kinh
tế hộ.
1.2Những tiêu chí để nhận dạng trang trại và xu hớng vận động của kinh
tế trang trại.
1.2.1Những tiêu chí để xác định trang trại.
Có nhiều tiêu chí để xác định trang trại, theo thông t số 69 (tháng 6/2000)
của liên bộ Bộ NN&PTNT và Tổng cục thống kê đa ra các chỉ tiêu sau:
- Một là,giá trị sản lợng hàng hoá và dịch vụ bình quân một năm của trang
trại( đối với niềm Bắc có quy mô 40 triệu đồng và miền Nam 50 triệu đồng
trở lên).
- Hai là, quy mô sản xuất phải tơng đối vợt trội so với kinh tế hộ tại địa ph-

ơng, tơng ứng với từng ngành sản xuất cụ thể:
Đối với các trang trại trồng các loại cây hàng năm là chủ yếu thì ở miền
Bắc và miền Trung phải có diện tích canh tác từ 1 ha trở lên, còn ở các tỉnh
Nam bộ thì 3 ha trở lên.
Đối với các trang trại trồng các loại cây công nghiệp lâu năm và cây ăn quả,
ở miền Bắc và miền Trung diện tích đất canh tác là 3 ha trở lên, ở Nam bộ là
5 ha trở lên.
6
Đối với các trang trại chăn nuôi nh trâu bò phải có từ 50 con trở lên, lợn
100 con trở lên(không kể lợn sữa 2 tháng tuổi), gai cầm từ 2000 con trở
lên(không tính số con dới 7 ngày tuổi).
Đối với trang trại lâm nghiệp phải có từ 10 ha đất rừng trở lên.
Đối với trang trại nuôi trồng thuỷ sản phải có từ 2 ha diện tích mặt nớc trở
lên.
- Ba là, có sử dụng lao động thuê thờng xuyên từ 2lao động/năm, nếu lao động
thời vụ thì quy đổi thành lao động thờng xuyên.
- Bốn là, chủ trang trại phải là những ngời có kiến thức, kinh nghiệm về nông-
lâm- ng nghiệp và trực tiếp điều hành sản xuất tại trang trại.
- Năm là, lấy sản xuất hàng hoá làm hớng chính và có thu nhập vợt trội hơn so
với mức trung bình của kinh tế hộ địa phơng.
Tóm lại, trong điều kiện của nớc ta hiện nay, trang trại đợc xác định là
những hộ nông dân có mục đích hoạt động chủ yếu là sản xuất kinh doanh
nông nghiệp hàng hoá, quy mô diện tích canh tác từ 1ha trở lên và đạt giá trị
sản phẩm hàng hoá hàng năm 20 triệu đồng trở lên.
1.2.2 Sự phát triển tất yếu của kinh tế trang trại trong thời kỳ Công
nghiệp hoá
Quá trình công nghiệp hoá đã tác động mạnh mẽ vào nông nghiệp, phá vỡ
từng mảng kết cấu nông nghiệp truyền thống, bắt nông nghiệp phải từng bớc
chuyển dần sang sản xuất kinh doanh hàng hoá cho phù hợp với nhịp độ phát
triển của công nghiệp. Kinh tế trang trại là một trong những hình thức tổ chức

sản xuất tỏ ra phù hợp với điều kiện và đặc điểm của sản xuất nông nghiệp,
đáp ứng đợc yêu cầu của công nghiệp hóa, có nhiều lợi thế trong sản xuất và
kinh doanh trên thơng trờng đã nhanh chóng phát triển trên khắp các lục địa:
Châu âu, Châu á, Châu mỹ...ở các nớc công nghiệp phát triển, kinh tế trang
trại đã trở thành lực lợng chủ đạo trong sản xuất nông nghiệp, hàng năm sản
xuất từ 60- 90% khối lợng nông sản của cả nớc. Việt Nam đang trong qua
7
trình thực hiện công nghiệp hoá, tính quy luật về sự phát triển tất yếu của kinh
tế trang trại, con đờng hình thành và từng bớc phát triển của kinh tế trang trại
về bản chất cũng không nằm ngoài quỹ đạo mà các nớc trên thế giới đã trải
qua hàng thế kỷ nay. Thậm chí sự phát triển của kinh tế trang trại ở nớc ta
hiện nay còn bức xúc hơn do những đòi hỏi khách quan, chủ quan của thời đại
công nghiệp hoá, thời đại mở cửa và hội nhập toàn cầu, thời đại kinh tế thị tr-
ờng.
Không thể phát triển công nghiệp, thực hiện thành công sự nghiệp công
nghiệp hoá nếu không có nền nông nghiệp hàng hoá phát triển; đảm bảo
nguồn cung ứng nguyên liệu dồi dào, đồng thời là thị trờng mở rộng cho công
nghiệp. Không có nền công nghiệp và nông nghiệp hàng hoá phát triển thì
không thể đẩy mạnh hoạt động ngoại thơng, trao đổi buôn bán với các nớc
trong khu vực và trên thế giới. Đặt nền móng cho sản xuất nông nghiệp hàng
hoá phát triển lực lợng chủ yếu là kinh tế trang trại. Mặt khác, con đờng phát
triển tất yếu của kinh tế trang trại nớc ta còn là nhu cầu nội tại của chính các
hộ nông dân, của bản thân nền nông nghiệp trớc bớc ngoặt lịch sử, chuyển
sang cơ chế thị trờng.
1.2.3 Xu hớng vận động của kinh tế trang trại
Kinh tế trang trại đợc hình thành từ ba nguồn gốc:
Từ khi kinh tế hộ sản xuất tự cấp, tự túc đi dần vào kinh doanh sản xuất
hàng hoá rồi trở thành hộ sản xuất giỏi rồi chuuyển lên kinh tế trang trại gia
đình. Loại hình trang trại này chiếm số đông, thông thờng khoảng 60- 80%
tổng số trang trại tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng vùng, từng địa ph-

ơng.
Một số ngời trong các bộ phận dân c khác có khả năng kinh tế bỏ vốn ra để
thuê đất hoặc mua đất lập trang trại. Loại này gọi là trang trại tiểu chủ, ngày
càng tăng thêm nhng cũng vào khoảng 10%.
8
Loại thứ 3 là những hộ nhận khoán, trở thành các đơn vị kinh tế tự chủ
trong các nông-lâm trờng quốc doanh. Loại trang trại này chủ yếu kinh
doanh sản xuất những loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao.
Ba loại hình trang trại nói trên tuy khác nhau về trình độ kinh doanh hàng
hoá, về hình thức sở hữu nhng đều có một bản chất chung là kinh tế trang trại
và trong quá trìng vận động đi lên phải qua 3 quá trình:
+ Về nội dung và trình độ kinh doanh, quá trình vận động đợc khái quát
trong công thức ba giai đoạn phát triển;
Trang trại Trang trại sản xuất Trang trại nông-
đa dạng chuyên canh công- thơng nghiệp
Từ giai đoạn thấp lên giai đoạn cao là một quá trình biến đổi về chất rất
sâu sắc. Khi đạt trình độ trang trại nông- công- thơng nghiệp có nghĩa là trang
trại đợc Công nghiệp hoá và thơng nghiệp hoá. Sản xuất nông nghiệp đã đạt
trình độ và tính chất Công nghiệp- thơng nghiệp.
+ Quy mô trang trại ở đây là quy mô đất đai lớn nhỏ phụ thuộc vào nhiều
nhân tố: mức ruộng đất bình quân đầu ngời, cây trồng vật nuôi đợc kinh doanh
và chuyên canh,độ thâm canh, trình độ cơ giới hoá và tự động hoá nông
nghiệp mức thu hút lao động nông nghiệp từ các ngành kinh tế khác...nên quy
mô rất khác nhau giữa các nớc, các vùng. Nhng xu thế chung là quy mô trang
trại đợc mở rộng dần gắn với quá trình cơ giới hoá và tự động hoá trong nông
nghiệp và qua trình Công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nớc.
+ Về hình thức tổ chức trang trại nó cũng chuyể từ trang trại độc lập, riêng
lẻ đi dần vào liên kết với nhau, liên kết giữa các hình thức kinh tế qua các hình
thức từ thấp đến cao từ đơn giản đến phức tạp.
2. Những thực trạng về kinh tế trang trại ở tỉnh Hà Giang

2.1 Đặc điểm tự nhiên, kinh tế- xã hội của Hà Giang
2.1.1 Đặc điểm tự nhiên
9
a, Vị trí địa lý
Hà Giang là tỉnh vùng cao phía bắc của tổ quốc, phía Bắc giáp Trung
Quốc, phía Nam giáp Tuyên Quang, phía Đông giáp Cao Bằng, phía Tây giáp
Yên Bái và Lào Cai. Do sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, địa lý và kinh tế-
xã hội mà Hà Giang đợc chia thành 3 vùng phát triển kinh tế: (vùng cao núi đá
ở phía bắc; vùng cao núi đất ở phía Tây, vùng trung tâm ở phía Đông Nam).
b, Đất đai và khoáng sản
Diện tích đá đai của Hà Giang là 788437ha , trong đó đất nông nghiệp là
10572ha, đất lâm nghiệp 279451ha, đất chuyên dùng 4183ha, đất ở là 5973ha,
đất cha sử dụng là 392405ha và diện tích mặt nớc nuôi trồng thuỷ sản là
934ha.
Tài nguyên thiên nhiên(khoáng sản): là tỉnh miền núi địa hình chia cắt
mạnh, tạo nhiều sông, suối nhỏ và dốc có điều kiện để phát triển thuỷ lợi nhỏ,
tạo ra các hang động, địa danh phong cảnh sinh thái đẹp. Tài nguyên khoáng
sản phong phú và đa dạng...
c, Khí hậu, thời tiết và thuỷ văn
Hà Giang nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình
hàng năm dao động từ 21
o
C- 23
o
C, độ ẩm trung bình từ 80- 86%, lợng ma
trung bình: thấp nhất là ở Bắc Mê 143,4mm nơi cao nhất là Bắc Quang
5833,3mm, số giờ nắng trong năm là 1182,4 giờ đến 1732,9 giờ. Nhìn chung
thời tiết khí hậu ở Hà Giang thuận lợi cho phát triển nông nghiệp.
2.1.2 Đặc điểm kinh tế- xã hội
Theo số liệu thống kê năm 2000 thì dân số của Hà Giang là 602926 ngời,

với mật độ là 0,076 ngời/km
2
đây là con số rất thấp với diện tích là 788437km
2
thì diện tích đất bình quân đầu ngời ở đây là cao. Tuy Hà Giang có diện tích
đất tự nhiên lớn, dân số ít mật độ tha nhng do địa hình bị chia cắt mạnh bởi
núi cao và sông suối nhỏ nên diện tích đất nông nghiệp ở Hà Giang rất hạn chế
và hàng năm lại ít đợc mở rộng, bình quân khoảng 2,25 lđ/ha khoảng 0,4ha/lđ
10
nông nghiệp, vậy là quá thấp so với cả nớc. Bù lại tỉnh lại có diện tích trồng
rừng rất lớn, rất thuận lợi cho việc tập trung đất đai để lập trang trại.
Về hạ tầng cơ sở(điện, đờng, trờng, trạm ): nhìn chung cũng đã đ ợc
quan tâm đầu t xây dựng, nhng do là tỉnh miền núi địa hình hiểm trở nên còn
gặp nhiều khó khăn:
Mạng lới điện quốc gia cũng đợc đầu t và phát triển khá. Đến nay 10 trung
tâm huyện, thị xã đều có điện lới quốc gia, 25% số hộ dân đã đợc sử dụng
điện, đã xây dựng đợc hàng chục km đờng điện chiếu sáng ở các thị xã, thị
trấn, huyện lỵ.
Mạng lới giao thông phát triển rộng khắp. Đã xây dựng đợc hàng nghìn km
đờng giao thông: quốc lộ, tỉnh lộ, đờng liên xã, liên thôn, bản. hoàn thành mới
đờng đến 55 xã, đa 100% số xã có đờng đến trung tâm, nhiều tuyến đờng ô tô
cũng đã đợc nâng cấp.
Tỉnh đã đầu t làm mới và nâng cấp gần 1000 công trình thỷ lợi nhỏ, kiên cố
hoá kênh mơng, nâng cấp năng lực tới tiêu và khai thác có hiệu quả các công
trình. Đến nay toàn tỉnh đã có 220 công trình thuỷ nông và trên 5300 công
trình thuỷ lợi nhỏ, đa 70% diện tích gieo trồng lúa đợc tới tiêu.
Tình hình văn hoá, y tế, giáo dục ở đây còn gặp nhiều khó khăn. Do cơ sở
vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, đội ngũ cán bộ y tế, giáo dục còn rất yếu nên
dẫn đến trình độ dân trí thấp, đời sống của ngời dân còn gặp nhiều khó khăn,
vấn đề chăm sóc sức khoẻ còn cha đợc đảm bảo đúng mức.

Nhìn chung tình hình phát triển nông nghiệp của Hà Giang tăng trởng
với tốc độ ổn định, tốc độ tăng trởng của nông nghiệp bình quân năm khoảng
4%, giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp năm 2000 là 535810 triệu đồng
tăng13,25% so với năm trớc. Do xuất phát điểm của tỉnh thấp mà trong những
năm qua nền kinh tế còn tăng trởng chậm, nhng nó tăng trởng dần và vững
chắc; nhịp độ tăng trởng GDP năm 1992 ; là 5% dến năm 1999 đạt 10,38%;
cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch đúng hớng theo hớng giảm tỷ trọng lao động
11
nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động trong công nghiệp- xây dựng và dịch vụ.
Có thể khẳng định rằng Hà Giang có tiềm năng đa dạng và điều kiện thuận lợi
để xây dựng và phát triển kinh tế nông nghiệp nói chung và kinh tế trang trại
nói riêng, tiềm năng của tỉnh còn rất lớn nhng dân cha giàu, tỉnh cha mạnh.
Để khai thác tiềm năng, phát huy nội lực, xây dựng nông thôn mới, tỉnh cần
lãnh đạo, chỉ đạo nhân dân các dân tộc phát triển kinh tế theo mô hình kinh tế
trang trại.
2.2 Thực trạng về kinh tế trang trại ở Hà Giang.
2.2.1 Quá trình hình thành và phát triển kinh tế trang trại ở Hà Giang
Trong thời kỳ bao cấp, mầm mống trang trại ở Hà Giang mới xuất hiện.
Toàn tỉnh có 2 nông trờng và 7 lâm trờng quốc doanh đó là những đơn vị sản
xuất hàng hoá. Bớc vào thời kỳ thực hiện đờng lối đổi mới của Đảng, mô hình
kinh tế trang trại đợc khởi nguồn, hình thành và phát triển ở Hà Giang từ
những năm 80, khi có chỉ thị 29- CT/TW về giao đất rừng đến hộ, chỉ thị 35-
CT/TW về phát triển kinh tế gia đình của Ban bí th TW Đảng, NQ 11 của Bộ
chính trị(khoá VI 4/1988), NQ TW 5 khoá VII, Luật đất đai 1993... đờng lối
đổi mới của Đảng cùng với hệ thống chính sách và pháp luật của Nhà nớc là
tiền đề và là điều kiện thuận lợi cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nông thôn trên phạm vi quy hoạch tổng thể từ tỉnh đến các vùng,
huyện để phát triển kinh tế. Ngành ngân hàng ngoài việc cho các doanh
nghiệp quốc doanh và hợp tác xã vay đã cho vay trực tiếp đến hộ sản xuất, các
ngành kinh tế kỹ thuật và dịch vụ cũng chuyển hớng, chuyển giao trực tiếp kỹ

thuật canh tác đến các hộ...đó là những điều kiện để chuyển nền kinh tế tự
cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá, nhiều nông dân từ sản xuất kinh tế hộ
lên sản xuất kinh tế trang trại với mục đích sản xuất hàng hoá và thu lợi
nhuận nhiều hơn. Có thể nói kinh tế trang trại ở Hà Giang đợc hình thành
chính thức từ năm 1991sau khi chia tách tỉnh Hà Tuyên. Đặc biệt cũng từ năm
1991 Hà Giang đợc chính phủ Thuỵ Điển đầu t cho phát triển kinh tế trang
12
trại Việt Nam Thụy Điển (làm điểm ở Vị Xuyên).Từ đó đến nay ,kinh tế
trang trại tiếp tục đợc phát triển mạnh ở các vùng , các huyện , thị xã , trong
các đồng bào dân tộc ít ngời ...
2.2.2 Thực trạng về kinh tế trang trại mấy năm gần đây
2.2.2.1.Hiện trạng về số lợng và các loại hình sản xuất trang trại của
tỉnh
Hà Giang có 2149 hộ gia đình sản xuất theo mô hình kinh tế trang trại
(theo số liệu của UBND tỉnh đến 4/2000).Trong đó có huyện Bắc Giang có
hơn 1526 hộ , huyện Vị Xuyên có 219 hộ ,thị xã Hà Giang có 39 hộ ,huyện
Yên Minh có 22 hộ ,còn lại các huyện Quản Ba , Đồng Văn , Mèo Vạc ,Pắc
Mê ,Xí Mần ,Hoàn Xa Fì có từ 5 đến 10 hộ đợc xác định là đơn vị kinh tế tự
chủ trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ,kinh tế trang trại đạt tới trình độ
cao hơn kinh tế hộ ở chỗ chuyên môn hoá sâu ,tập trung hoá cao ,do vậy mô
hình kinh tế trang trại gia đình rất phù hợp với điều kiện kinh tế ở miền núi .
Thực tế điều tra cho thấy , các trang trại trồng cây ăn quả chủ yếu tập
trung ở các huyện vùng thấp nh: Bắc Giang,Vị Xuyên , Thị xã Hà Giang . Gần
đây các trang trại cây ăn quả ở Bắc Giang ,Vị Xuyên, các trang trại chè ở
Hoàng Su Fì ngày càng xuất hiện nhiều ,trang trại lâm nghiệp , trang trại
chăn nuôi với quy mô sản xuất hàng hoá vừa và nhỏ cũng đợc phát triển ở các
huyện vùng cao biên giới .
Với đặc điểm địa hình, điều kiện tự nhiên thời tiết khí hậu ở Hà Giang đã
tạo nên những đặc thù của các trang trại ở Hà Giang thành: trang trại trồng
rừng , trang trại trồng cây ăn quả , trang trại chăn nuôi , trang trại nuôi trồng

thuỷ sản , trang trại trồng cây công nghiệp và trang trại sản xuất tổng hợp . Sự
phát triển của các loại hình trang trại qua các năm thể hiện :
Số lợng và loại hình sản xuất của trang trại của tỉnh qua các năm
13
Loại hình trang trại
1998 1999 2000
Số l-
ợng(c
ái)
Tỷ
lệ(%)
Số l-
ợng
(cái)
Tỷ
lệ(%)
Số l-
ợng
(cái)
Tỷ
lệ(%)
Trang trại trồng rừng
19 4,6 24 5,4 28 5,9
Trang trại trồng cây ăn quả
257 62,8 279 62,7 300 62,8
Trang trại chăn nuôi
3 0,7 4 0,9 5 1,0
Trang trại nuôi trồng thuỷ sản
9 2,2 10 2,0 10 2,0
Trang trại trồng cây công nghiệp

57 13,9 60 13,5 61 12,8
Trang trại sản xuất tổng hợp
64 15,8 68 15,5 74 15,5
Tổng số
409 100 445 100 478 100
Nguồn: Số liệu điều tra của Ban kinh tế tỉnh uỷ
Qua bảng số liệu trên ta thấy rằng ngoài một số cây ăn quả có giá trị đợc
các trang trại đa vào làm cây trồng chính thì việc sản xuất tổng hợp cũng đem
lại kết quả kinh tế vì với cơ cấu sản xuất tổng hợp. Nh vậy thì các trang trại sẽ
tập trung đợc nhiều điều kiện thuận lợi của tự nhiên ,cho phép lấy ngắn nuôi
dài trong giai đoạn đầu ,đi từ ít vốn đến nhiều vốn ,từ sản xuất tổng hợp đến
chuyên cnh cây trồng vật nuôi có giá trị mà thị trờng đang có nhu cầu .Việc
phát triển mạnh các trang trại cây ăn quả với môt tỷ trọng lớn trong các loại
hình trang trại sẽ làm bỏ ngỏ các loại hình sản xuất khác cũng rất phù hợp với
điều kiện ở Hà Giang ,đó là các :trang trại chăn nuôi ,trang trại nuôi trồng
thuỷ sản ,trang trại trồng rừng , những trang trại loại này còn ít và cha đợc các
chủ trang trại quan tâm phát triển . Nhng nên xét theo xu hớng chung của cả
nớc và của thị trờng thì trong những năm tới các trang trại loại này sẽ đợc
khuyến khích và u tiên phát triển .
2.2.2.2.Thực trạng về chủ trang trại
a, Đặc điểm xuất thân của chủ trang trại
Nếu theo nghề nghiệp cũ thì chủ trang trại ở Hà Giang chủ yếu xuất thân
từ nông dân , có tới 268 chủ trang trại là nông dân, chiếm tới 56% tổng số chủ
trang trại. Chứng tỏ kinh nghiệm sản xuất đã giúp cho các lao động trong
nông nghiệp thực hiện sản xuất một cách dễ dàng, lựa chọn cây trồng, con
14
giống phù hợp vớiđiều kiện tự nhiên , thị trờng và dễ dàng trong viêc chăm
sóc ... Trong 268 trang trại của nông dân thì có tới 173 trang trại đi vào
chuyên canh trồng cây ăn quả , chiếm 64,5% ,ngoài kinh nghiệm và kỹthuật
sản xuất trồng trọt ngời nông dân còn rất hạn chế việc nắm bắt kinh nghiệm

kỹ thuật tiến bộ .
Tiếp đến là các thành phần chủ trang trại có xuất thân từ các nguồn khác ,
có 110 ngời ,chiếm 23%,họ chủ yếu đi vào phát triển cây công nghiệp và sản
xuất tổng hợp . Có một số cán bộ công nhân viên chức sau khi đã nghỉ chế độ
về nông thôn và phát triển kinh tế theo mô hình kinh tế trang trại, có 42 ngời
chiếm tới 8,7%, ngoài ra ở Hà Giang hiện nay có tới 58 chủ trang trại là Đảng
viên, chiếm tới 12,13% tuy thấp so vơi các thành phần kinh tế khác nhng nó
cũng là nhiều. Trong những năm tới cần phải có hớng giải quyết sao cho đảng
viên vẫn đợc làm chủ trang trại theo đúng nghĩa của nó mà vẫn không đi ngợc
các quy định và điều lệ của Đảng.
Với dân số nhiều thành phần dân tộc nh ở Hà Giang thì trong phát triển
kinh tế trang trại cũng phải: nhiều nhất là ngời Tày có 220 trang trại chiếm
43,7%; ngời Kinh có 167 trang trại chiếm 34,9%; một số dân tộc ít ngời khác
nh: Giao,Mông,Nùng,Hoa có từ 12-33 trang trại chiếm2,5-6,9%, còn các dân
tộc khác có không đáng kể.
Vào độ tuổi từ 30-50 là độ tuổi đã chín muồi của các chủ trang trại họ đã
tích luỹ đợc một số kinh nghiệm về sản xuất và thị trờng, phần lớn các chủ
trang trại trong độ tuổi này; từ 40-50 tuổi có 280 ngời chiếm 58,6%, từ 30-40
tuổi có 103 ngời chiếm 21,5%, ở dới độ tuổi 30 và trên độ tuổi 50 có từ 33-62
% chiếm 6,97%-13%.
b, Trình độ văn hoá và chuyên môn của chủ trang trại
Trình độ văn hoá và trình độ chuyên môn của chủ trang trại ở Hà Giang
vẫn còn rất thấp :trình độ văn hoá cấp 1 và hết cấp 1 của chủ trang trại chiếm
rất đông với 215 ngời chiếm 45%: trình độ cấp 2 và hết cấp 2 là 131 ngời
15

×