Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

SKKN day Tu lay cho HS lớp 4&5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.55 KB, 12 trang )

I.Tên đề tài
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP
DẠY TỐT TỪ LÁY CHO HỌC SINH LỚP 4, 5
II. ĐẶT VẤN ĐỀ :
Trong chương trình phân môn Luyện từ và câu lớp 4 có bài : Từ ghép
và từ láy, Luyện tập về từ ghép và từ láy.
Mục tiêu của bài học là học sinh nhận biết từ ghép : ghép những tiếng
có nghĩa lại với nhau. Từ láy : Phối hợp những tiếng có âm đầu hay vần (hoặc
cả âm đầu và vần) giống nhau. Đó là các từ láy.
Xuất phát từ mục đích yêu cầu bài học là giáo viên cung cấp cho học
sinh một số khái niệm ban đầu về nghĩa từ láy Tiếng Việt qua các bước :
+ Từ Tiếng Việt do tiếng cấu tạo nên. Từ có thể do một tiếng hay nhiều
tiếng kết hợp lại mà thành. Từ láy là một loại từ phức được tạo ra từ phương
thức láy. Tác động của phương thức láy tạo ra ở từ láy sự hòa phối ngữ âm có
tác dụng tạo nghĩa.
+ Hướng dẫn học sinh so sánh nghĩa của các từ láy so với nghĩa của từ
gốc đã cấu tạo ra chúng để nhận biết sự biến đổi về nghĩa của các từ láy so với
nghĩa gốc.
Thực tế qua nhiều năm dạy lớp bốn và hai năm dạy lớp năm, chúng tôi
thấy đa số học sinh nhầm lẫn rất nhiều giữa từ láy và từ ghép mà phổ biến là
những từ ghép có âm hoặc vần giống nhau. Học sinh nhầm lẫn từ láy, thậm
chí bản thân cũng gặp nhiều khó khăn trong tình huống này. Chính vì vậy
chúng tôi quyết định tiến hành nghiên cứu và thực nghiệm đề tài : “Một số
phương pháp dạy tốt từ láy cho học sinh khối 4&5”.
1. Phạm vi nghiên cứu :
Thực hiện một số dạng bài tập và quá trình làm sáng tỏ các khái niệm
về từ láy.
2. Đối tượng nhiên cứu :
Học sinh lớp 5C, 4A và đội tuyển học sinh giỏi của hai lớp.

III.CƠ SỞ LÍ LUẬN :


Theo giáo trình ngữ pháp của soạn giả Nguyễn Quốc Dũng, do nhà xuất
bản Giáo dục và đại học Huế ấn hành đã viết :
a) Về ngữ âm :
- Từ láy trong Tiếng Việt có từ hai đến bốn âm tiết có quan hệ ngữ âm với
nhau.
- Mối liên hệ ngữ âm diễn ra có thể hoặc ở phần phụ âm đầu (láy âm), hoặc ở
phần vần (láy vần), hoặc ở cả hai bộ phận (láy toàn bộ).
1
- Quan hệ ngữ âm trong từ láy là sự hòa phối ngữ âm có quy luật. Quy luật
ngữ âm trong từ láy chi phối không những phần ngữ âm đoạn tính (âm, vần)
mà cả phần ngữ âm siêu đoạn tính (trọng âm, thanh điệu). Sự hòa phối ngữ âm
có quy luật tạo nên cái thế vừa điệp vừa phối, nghĩa là ở từ láy vừa có cái lặp
lại, vừa có cái biến dị để tạo nên sự cân đối. Sự biến đổi ít nhất là sự nhấn
mạnh trọng âm ở một âm tiết nào đó của từ láy. Ở từ láy toàn bộ “chuồn
chuồn” chẳng hạn hai âm tiết chỉ khác nhau ở chỗ âm tiết thứ hai mang trọng
âm, còn âm tiết thứ nhất không.
- Trong từ láy, tác động của phương thức láy vào tiếng gốc theo hai hướng
ngược chiều nhau : Hướng xuôi, tiếng gốc đứng trước (đẹp đẽ, khó khăn, khóc
lóc, tham lam) ; hướng ngược, tiếng gốc đứng sau (lom khom, nhấp nhô).
b)Về ngữ nghĩa :
- Các tiếng trong từ láy có thể đều là tiếng có giá trị về ngữ nghĩa (bời bời,
man mát, na ná, hây hây) có thể gồm cả hai loại tiếng có nghĩa (xanh xanh, vui
vui, hay hay)
- Để xác định tiếng gốc, người ta thường dựa vào nghĩa và kiểu láy, ở từ láy
(vui vui) ý nghĩa khái quát của từ láy này là sự giảm nhẹ về mức độ. Tương tự
trong các từ láy đèm đẹp, đo đỏ… ở từ này, tiếng gốc đứng ở sau (đẹp, đỏ) do
đó ở (vui vui) tiếng gốc là tiếng vui thứ hai (tiếng mang trọng âm). Ở từ láy
gồm toàn tiếng có giá trị về nghĩa, hiện nay việc xác định tiếng gốc cũng theo
cách đó, nhưng kết quả chưa được xác định, kiểm nghiệm một cách khoa học.
- Chỉ có từ láy hoàn toàn mới gồm toàn tiếng có nghĩa. Do đó, những từ

phức như : tóc tai, mặt mũi, tướng tá, tươi tốt, điện đài, đền đài,… không phải
là từ láy. Đây là những từ ghép thực (từ ghép đẳng lập). Sự lặp lại ngữ âm
(phụ âm đầu) ở đây mang tính chất ngẫu nhiên, chứ không do phương thức láy
(xem lại từ ghép đẳng lập).
- Sự hòa phối ngữ âm trong từ láy tạo ra ý nghĩa biểu trưng cho từ láy. Sự
hòa phối ngữ âm do tác động láy đưa lại đã tạo nên một ấn tượng nào đó về
nghĩa (giá trị gợi cảm, gợi tả) khá tinh tế và khá xác định nhất là đối với người
nước ngoài học tiếng Việt.
Ý nghĩa biểu trưng biểu hiện cao nhất ở từ láy không phân biệt được tiếng
gốc (gồm toàn tiếng có giá trị về nghĩa : tức là các tiếng trong từ không có
nghĩa rõ ràng). Ở loại từ láy phân biệt được tiếng gốc (vui vẻ, vui vui) thì ý
nghĩa này biểu hiện thấp hơn, nhưng ở hai mức độ khác nhau. Từ láy gồm
tiếng gốc có nghĩa và tiếng láy có giá trị về nghĩa (vui vui). Như vậy, ý nghĩa
biểu trưng loại cuối cùng này là thấp nhất (sách Ngữ pháp Tiếng Việt phần từ
láy trang 36-37).
Căn cứ vào cơ sở của vấn đề “nghĩa của từ láy” được tác giả Nguyễn
Quốc Dũng đã nêu thì chúng tôi nhận thấy bên cạnh việc nhận xét về nghĩa
của từ láy do cảm nhận bằng các giác quan để thấy nghĩa của từ láy so với từ
2
gốc là giảm nhẹ hay tăng mạnh hơn so với từ gốc thì việc dựa vào vị trí cuả
tiếng gốc trong từ láy cũng giúp ta có thể nhận ra nét nghĩa mà từ láy đó biểu
hiện. Cũng dựa vào cơ sở lí luận của ông Nguyễn Quốc Dũng thì từ láy không
phân biệt tiếng gốc, tức là từ láy cả hai tiếng đều không có nghĩa rõ ràng là
loại từ có ý nghĩa biểu trưng biểu hiện cao nhất. Để giáo viên có thể giúp học
sinh xác định nghĩa của từ láy một cách chính xác, khoa học, nhanh chóng.
Quá trình dẫn dắt giúp học sinh xác định được nghĩa của từ láy giảm nhẹ hay
tăng mạnh hơn so với từ gốc chúng tôi tiến hành nghiên cứu và thực nghiệm
trong đề tài này.
IV.CƠ SỞ THỰC TIỄN :
Qua bài tập kiểm tra khảo sát học sinh giỏi từng giai đoạn do trường tổ

chức hoặc đề kiểm tra định kì có phần bài tập về tìm từ láy, phân biệt từ láy,
từ ghép học sinh chỉ đạt tỉ lệ từ 35 - 40% làm đúng yêu cầu đề ra. Đi tìm hiểu
vấn đề này, chúng tôi đã mượn các bài tập kiểm tra định kì của học sinh nhiều
năm qua và trên thực tế học sinh của hai lớp cũng như đội tuyển HSG của
trường thì tỉ lệ đạt yêu cầu của dạng kiến thức này cũng chiếm tỉ lệ 30%.
V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU :
1/Biện pháp 1 : Khảo sát và phân tích thực trạng
Ngay vào đầu năm học, chúng tôi nghiên cứu các bài làm của học sinh
những năm trước (dựa trên bài kiểm tra) và qua thực tế giảng dạy nhiều năm
chúng tôi rút ra những nguyên nhân dẫn đến thực trạng học sinh xác định chưa
đúng từ láy với nội dung sau :
Về cơ bản qua tiết học, học sinh nắm được khái niệm về nghĩa của từ
láy, nhận biết được nghĩa của một số từ láy tiêu biểu ở sách giáo khoa và vở
bài tập do giáo viên hướng dẫn theo chương trình giảng dạy trên lớp. Mức độ
hiểu bài của học sinh đạt tỉ lệ 75%. Những đề bài cụ thể :
a) Khối 4 : Hãy xếp các từ sau thành hai loại từ láy và từ ghép : ghi nhớ,
đền thờ, bờ bãi, nô nức, tưởng nhớ, dẻo dai, cứng cáp, vững chắc. (Do học
sinh mới được học khái niệm từ láy ở Tuần 4 có 2 tiết)
- Lỗi mà học sinh mắc phải là những từ bờ bãi, dẻo dai, học sinh xếp vào
nhóm từ láy. Vì các từ này có âm đầu giống nhau, học sinh thiếu sự vận dụng
các khái niệm đã học vào từng từ cụ thể nên không đạt yêu cầu đề ra.
b) Khối 5 : Các từ sau, từ nào là từ ghép, từ nào là từ láy : nhỏ nhẹ, trắng
trợn, tươi cười, tươi tắn, lảo đảo, lành mạnh, ngang ngược, trống trải, chao
đảo, lành lặn.
- Lỗi học sinh mắc phải : tươi cười, chao đảo, lành mạnh, ngang ngược học
sinh xếp vào nhóm từ láy.
*Nguyên nhân : Học sinh chưa nắm nghĩa của từ láy một cách chính xác
là do :
3
+ Nhận biết từ láy bằng cảm tính

+ Trong các từ ghép mà có âm hoặc vần giống nhau mà cả hai tiếng
đều có nghĩa rõ ràng nhưng học sinh không đọc kĩ, vội vàng kết luận ngay.
Với yêu cầu cần đạt về nội dung kiến thức bài học “từ láy, từ ghép” chỉ có hai
âm tiết học trong chương trình quy định, với thực trạng của học sinh đã phân
tích ở trên chúng tôi phải làm thế nào, làm gì ? để giúp học sinh xác định,
phân biệt chính xác đâu là từ láy, đâu là từ ghép. Chúng tôi quyết định nghiên
cứu và thực nghiệm nội dung đề tài này.
2/Biện pháp 2 : Các bước thực hiện để rút ra mô hình chung
Bước 1 : Dựa vào cảm nhận bằng giác quan để nhận biết nghĩa của từ láy
có nghĩa giảm nhẹ hay tăng mạnh.
Theo phần tìm hiểu bài ở sách giáo khoa, chúng tôi tiến hành cho học
sinh tìm hiểu nghĩa của các từ bằng hệ thống minh họa sau :
Từ gốc Từ láy tạo thành Nghĩa so với từ gốc
Xanh Xanh xanh Giảm nhẹ
Xa Xa xa Giảm nhẹ
Nhẹ Nhè nhẹ Giảm nhẹ
Đỏ Đo đỏ Giảm nhẹ
Nóng Nóng nực Tăng mạnh
Bực Bực bội Tăng mạnh
Sạch Sạch sành sanh Tăng mạnh
Lung túng Lung ta lung túng Tăng mạnh
Bước 2 : Dựa vào từ gốc và từ láy tạo thành có tiếng là từ gốc vừa cho,
chúng tôi giúp học sinh nhận biết nghĩa của từ láy (có một tiếng là từ gốc như
ở bảng trên), chúng tôi kết hợp vận dụng những câu hỏi gợi mở để học sinh trả
lời.
Ví dụ : “Cỏ mọc xanh. - Cỏ mọc xanh xanh.” mức độ xanh ở câu nào
mạnh hơn ? Ở câu nào nhẹ hơn ? (học sinh đã trả lời : xanh xanh là nhẹ hơn)
hay ở câu : Trời nóng quá ! và câu : Trời nóng nực quá ! Mức độ nóng ở câu
nào mạnh hơn ? (học sinh trả lời : Trời nóng nực quá ! có ý nghĩa mạnh hơn).
Bước 3 : Dựa vào vị trí của từ gốc đề xác định nghĩa của từ láy

Đối với từ láy đôi có một tiếng có giá trị về nghĩa, một tiếng có nghĩa (tức
là một tiếng có nghĩa rõ ràng, một tiếng không có nghĩa rõ ràng) và từ láy đôi
là kiểu láy tiếng mà cả hai cùng có nghĩa, chúng tôi tiếp tục đưa ra ví dụ trong
bảng hệ thống sau :
Từ gốc
Từ láy tạo
thành
Vị trí của tiếng gốc
Nghĩa của từ
láy
Nâu Nâu nâu Đứng sau (có nghĩa và mang Nhẹ hơn
4
trọng âm)
Buồn Buồn buồn
Đứng sau (có nghĩa và mang
trọng âm)
Nhẹ hơn
Tím Tim tím Đứng sau (tiếng có nghĩa) Nhẹ hơn
Trắng Trăng trắng Đứng sau (tiếng có nghĩa) Nhẹ hơn
Buồn Buồn bã Đứng trước (tiếng có nghĩa) Mạnh hơn
Xám Xám xịt Đứng trước (tiếng có nghĩa) Mạnh hơn
Rầu Rầu rĩ Đứng trước (tiếng có nghĩa) Mạnh hơn
Bước 4 : Chúng tôi rút ra mô hình chung như sau :
a) Tiếng gốc + tiếng láy : nghĩa mạnh hơn
1 2
b) Tiếng láy + tiếng gốc : nghĩa nhẹ hơn
1 2
Bước 5 : Đối với từ láy mà cả hai tiếng đều không có nghĩa rõ ràng (cả hai
tiếng đều có giá trị về nghĩa).
Như sách đã chỉ dẫn : Ý nghĩa biểu trưng biểu hiện cao nhất ở loại từ láy

không phân biệt được tiếng gốc nên việc giúp cho học sinh nhận biết nghĩa
của từ láy này thường là mạnh hơn so với ý nó biểu hiện.
Ví dụ : Bồn chồn, tỉ tê, hổn hển, bời bời, hây hây, man mác, …
Đây là một kinh nghiệm mà chúng tôi rút ra từ thực tiễn bài dạy, không
phải là một công trình nghiên cứu khoa học nên có thể vẫn còn nhiều thiếu sót
về mặt nội dung. Tuy nhiên với khả năng nhận thức của học sinh tiểu học, bài
tập kiểm tra vận dụng phải tương đối phù hợp với nhận thức của học sinh nên
vấn đề mà tôi đưa ra có thể phần nào giúp học sinh học tốt phần nghĩa của từ
láy.
Cần lưu ý rằng đối với những từ láy là danh từ như : chuồn chuồn, ba
ba, tê tê, đất đai, mùa màng, thì nghĩa của nó vốn là nghĩa gốc không thể nhẹ
hơn cũng chẳng mạnh hơn. Giúp học sinh nắm được điều này là tạo điều kiện
cho các em xử lý đúng các dạng bài tập mà bất kì giáo viên nào đưa ra trong
mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh.
Một lưu ý khác, là trong vấn đề về vốn từ của Tiếng Việt, vẫn có những
từ có tiếng gốc đứng trước nhưng nghĩa vẫn giảm nhẹ như “bồng bềnh” hoặc
ngược lại ; từ gốc đứng sau nhưng nghĩa vẫn nhấn mạnh như “thoăn thoắt”.
Lúc này học sinh phải dựa vào việc cảm nhận bằng giác quan (như bước 1).
Từ “bừng bừng” cả hai tiếng đều giống nhau thuộc từ láy tiếng nhưng vẫn là
từ láy có nghĩa mạnh hơn.
Đây là biện pháp thực hiện cho khối 5, còn khối 4 chúng tôi vận dụng
biện pháp lồng ghép, tích hợp để phát hiện và nhận diện từ láy thông qua các
ví dụ minh họa sau đây :
5
+ Bài “Trung thu độc lập”- Sách Tiếng Việt 4, tập 1, trang 66&67 : Học sinh
đọc lướt và phát hiện từ láy có trong bài là : man mác, vằng vặc, thân thiết,
phấp phới, chi chít, bát ngát.
+ Bài “Đôi giày ba ta màu xanh” ”- Sách Tiếng Việt 4, tập 1, trang 81 : thon
thả, lang thang, run run, mấp máy, ngọ nguậy, tưng tưng.
+ Tiết 6- Tuần 10- ”- Sách Tiếng Việt 4, tập 1, trang 99 : chuồn chuồn, rì rào,

rung rinh, thung thăng.
3/Biện pháp 3 : Một số bài tập vận dụng
Để học sinh nắm chắc hơn về kiến thức bài học, chúng tôi đã đưa ra một
số dạng bài tập vận dụng cho học sinh làm ở phần củng cố, ở phiếu học tập,
bài tập ra thêm về nhà, bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học sinh yếu, như sau
:
+ Dạng 1 :
Tìm một số từ láy có nghĩa giảm nhẹ và các từ láy có nghĩa tăng mạnh so với
từ gốc sau đây : đen, trắng, xám, vàng, hồng, đỏ, …

Từ có nghĩa giảm nhẹ Từ gốc
Từ láy có nghĩa mạnh
hơn
đen đen đen đen đủi
xam xám xám xám xịt
trăng trắng trắng trắng trẻo
hồng hồng hồng hồng hào
đo đỏ đỏ đỏ đắn
vàng vàng vàng vàng vọt
+ Dạng 2 : Gạch một gạch dưới các từ gốc và cho biết từ láy đó có nghĩa
mạnh hơn hay giảm nhẹ ?
- Lo lắng, nao nao, bồng bềnh, chầm chậm, rộn rã, nhanh nhẹn, xám xịt, lo lo,
mềm mại, khô khan, tan tành, sin sít.
+ Dạng 3 : Phân thành hai cột A và B, cột A là nhóm từ láy có nghĩa giảm nhẹ
và cột B là nhóm từ láy có nghĩa tăng mạnh với các từ cho dưới đây :
- Sạch sẽ, nong nóng, lành lạnh, rờn rợn, tẻo tèo teo, buồn bã, nhớp nhúa, rề
rề, rà rà, bồn chồn, lon ton, khỏe khòe khoe, sát sàn sạt, tất tần tật.
+ Dạng 4 : Gạch một gạch dưới các từ láy có nghĩa giảm nhẹ và gạch hai gạch
dưới từ láy có nghĩa tăng mạnh trong đoạn thơ sau :
Chú bé loắt choắt

Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh.
6
- Tiếng trống giục thùng thùng. Những bàn chân hăm hở chạy.
- Tiếng loa lanh lảnh rộn lên cả xóm. Mọi người đổ xô về phía bờ đê…
+ Dạng 5 : Đánh đấu (X) vào ô đứng trước từ láy có nghĩa giảm nhẹ hoặc tăng
mạnh.
hồng hào ríu ra ríu rít bồng bềnh
lơ tơ mơ trăng trắng xám xịt
êm ả cồn cào xôm xốp
bừng bừng tim tím khin khít
+ Dạng 6 : Xếp các từ phức sau đây vào cột thích hợp
a) ngay thẳng, thẳng thắn, ngay ngắn, đầu đuôi, đủng đỉnh, thật thà, vạm
vỡ, đánh đập.
b) châm chọc, chậm chạp, mê mẩn, mong ngóng, nhỏ nhẹ, mong mỏi,
tươi tốt, phương hướng, vương vấn, tươi tắn.
c) xa xôi, mải miết, xa lạ, phẳng lặng, phẳng phiu, mong ngóng, momg
mỏi, mơ màng, mơ mông.
VI) KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU :
Qua phân tích 5 bước ở trên, tôi nhận thấy học sinh ở lớp 4A, 5C và đội
tuyển học sinh giỏi đã nắm được từ láy có nghĩa giảm nhẹ và từ láy có nghĩa
tăng mạnh so với từ gốc. Theo các bước trình bày ở trên, học sinh dễ nhận
dạng và xác định đúng, chính xác về “Nghĩa của từ láy giảm nhẹ hoặc tăng
mạnh”.
- Dựa vào vị trí của tiếng gốc để xác định nghĩa của từ láy.
- Dựa vào mô hình :
Từ láy : - Có một tiếng gốc có nghĩa rõ ràng + một tiếng không có nghĩa.
Ví dụ : buồn bã, xám xịt, rầu rĩ,…
- Cả hai tiếng đều không có nghĩa rõ ràng.

Ví dụ : bồn chồn, tỉ tê, hổn hển,
- Cả hai tiếng đều có nghĩa (trường hợp láy hoàn toàn).
Đối với các từ láy mà cả hai tiếng đều không có nghĩa rõ ràng (cả hai
tiếng đều có giá trị về nghĩa) không phân biệt được tiếng gốc thì nghĩa của
từ láy này thường là mạnh hơn so với ý mà nó biểu hiện.
- 100 % nhận biết được nghĩa của từ láy chính xác (nhất là những từ các
em hay gặp nhờ trực giác văn bản thường xuyên mà có).
- Ở đội học sinh giỏi, dung lượng bảng từ láy lớn hơn, học sinh thường
xuyên thực hành nên các em thành thạo hơn trong việc thực hành cũng như
dùng từ chính xác để đặt câu gợi tả, gợi cảm.
- Dù bài học chỉ có một tiết như đã nói ở trên, thời gian giúp học sinh
không nhiều nhưng tác dụng của nó rất lớn. Học sinh có hiểu nghĩa của từ
thì mới vận dụng đúng, nhằm tăng giá trị biểu cảm cho đoạn văn. Có hiểu
7
đúng giá trị biểu cảm và nghĩa của từ, học sinh mới thấy được cái hay, cái
đẹp của ngôn ngữ Tiếng Việt, góp phần giúp học sinh có ý thức giữ gìn và
bảo vệ phong phú, sự trong sáng của tiếng mẹ đẻ. Theo như quan điểm của
người nước ngoài, khi tiếp xúc với ngôn ngữ Việt Nam thì chính vẻ đẹp về
ngôn ngữ Tiếng Việt đã làm nên bản sắc riêng của dân tộc Việt Nam mà
biểu hiện tập trung là ở vốn từ láy phong phú đa dạng của Tiếng Việt.
- Chúng tôi tin rằng, quá trình thực nghiệm của mình, những điều rút ra
được trong nội dung đề tài này sẽ giúp ích rất nhiều cho học sinh tiểu học
khi học tiếng mẹ đẻ của mình đồng thời còn nâng cao chất lượng học phân
môn Luyện từ và Câu nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung.
VII.KẾT LUẬN :
Quá trình thực hiện của chúng tôi đã giúp cho học sinh nắm chắc nghĩa
của từ láy một cách bền vững, chúng tôi rút ra bài học kinh nghiệm sau :
- Từ láy bao giờ cũng có một tiếng có nghĩa rõ ràng (gốc) + một tiếng có
nghĩa không rõ ràng.
- Từ láy có cả hai tiếng đều không có nghĩa rõ ràng thì từ láy đó mang

nghĩa mạnh.
- Từ láy hoàn toàn cả hai tiếng đều có nghĩa thì từ láy đó mang nghĩa nhẹ.
Với bảng tóm tắt trên, học sinh dễ dàng nhận biết nghĩa của từ láy. Những
điều đã được tóm tắt lại dễ hiểu, dễ nhớ, giúp học sinh xác định được nghĩa
của từ láy trên cơ sở cảm nhận bằng giác quan cả ở vị trí cấu tạo của từ láy.
Học sinh vận dụng để xử lí các bài tập một cách nhanh nhẹn và cũng có thể
là cẩm nang nho nhỏ cho học sinh giỏi.
VIII.ĐỀ NGHỊ :
Chúng tôi mong rằng đề tài này được áp dụng rộng rãi trong khối 4&5
những năm tiếp theo.
IX. PHỤ LỤC
- Bài tập khảo sát của học sinh.
X.TÀI LIỆU THAM KHẢO :
1/Giáo trình ngữ pháp của soạn giả Nguyễn Quốc Dũng, do nhà xuất bản
Giáo dục và đại học Huế.
2/Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 4&5 Nhà xuất bản Giáo dục
3/Vở Bài tập Tiếng Việt lớp 4&5 Nhà xuất bản Giáo dục
XI. MỤC LỤC
STT
TIÊU ĐỀ CHÍNH
TRANG
8
I Tên đề tài 1
II Đặt vấn đề
1
III Cơ sở lí luận
1-2
IV Cơ sở thực tiễn
3
V Nội dung nghiên cứu

4-7
VI Kết quả nghiên cứu
7
VII Kết luận
8
VIII Đề nghị
8
IX Phụ lục
8
X Tài liệu tham khảo
8
XI Mục lục
9
Trên đây là một số kinh nghiệm mà chúng tôi đã tích lũy từ việc áp dụng
ở lớp của mình cũng như đội học sinh giỏi của hai lớp.
Duy Hòa, ngày 10 tháng 4 năm 2011
Đồng tác giả

Lưu Thị Kim Liên – Nguyễn Thị Dy


9
10
11
12

×