S¸ng ki
ế
n kinh nghi
ệ
m N¨m
häc: 2010 - 2011
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
Trong thời kỳ đất nước đang phát triển về kinh tế, đem lại sự sung túc về vật
chất. Thì Tiếng việt luôn tồn tại với sứ mệnh dìu dắt, nâng cao tâm hồn của mỗi con
người. Tiếng việt còn là chìa khoá mở cửa cho tất cả các môn học khác. Ở lớp 3,
việc dạy Tiếng việt cho các em là vấn đề cần thiết và quan trọng. Ngay từ buổi đầu
tiên cắp sách tới trường các em đã được học môn Tiếng việt, nhưng ở lứa tuổi này
các em thường ghi nhớ theo su hướng máy móchường là đọc thuộc hơn đọc hiểu.
Xuất phát từ mục tiêu của môn học là: (Rèn các kỹ năng Nghe – Nói - Đọc - Viết)
đã trở thành trọng tâm, xuyên suốt bậc học, trong đó phải kể đến rèn kỹ năng nói
cho các em. Muốn học tốt môn học khác, trước tiên các em phải nắm chắc môn học
này.
Một người muốn nói hoặc viết được trước tiên phải xây dựng nội dung thông
báo (lập mã). Sau đó truyền thông báo đề (bằng âm thanh hoặc chữ viết). Một người
muốn nghe hoặc đọc được trước tiên phải tiếp nhận được các nội dung chứa thông
báo đó. Việc rèn các kỹ năng (Nghe – Nói - Đọc - Viết) trong đó có kỹ năng nói hay
còn gọi là kỹ năng kể chuyện cho học sinh lớp 3 không chỉ dừng lại ở mặt kỹ thuật.
Phải tiến tới sự thông hiểu nội dung hoặc diễn đạt nội dung thông báo. Qua Tiếng
việt trong đó có phân môn kể chuyện, còn hình thành nhân cách, tâm hồn, tình cảm
và năng lực tư duy, đó mới là cái đích cuối cùng. Trong quá trình dạy học, việc vận
dụng phương pháp của giáo viên vào dạy phân môn kể chuyện còn nhiều hạn chế
như:
Việc vận dụng các phương pháp còn đơn điệu, giáo viên ít chú ý đến sự pháp
triển của học sinh, về mặt nhu cầu, hứng thú. Chưa tận dụng được vốn hiểu biết và
điều kiện học tập cụ thể của học sinh. Vai trò của người giáo
N«ng V¨n Phîng T rêng TiÓu häc
Nghinh Têng
1
S¸ng ki
ế
n kinh nghi
ệ
m N¨m
häc: 2010 - 2011
viên nhiều khi chỉ mang tính thông báo kiến thức là chủ yếu, mà chưa có sự chủ
động hướng dẫn học sinh tự tìm ra tri thức mới. Trong quá trình thực hiện giáo viên
còn ngại bỏ công sức, thời gian để tìm hiểu và sử dụng đồ dùng trực quan một cách
có hiệu quả. Bên cạnh đó đồ dùng trực quan trong nhà trường còn thiếu và không
đồng bộ.
Ngoài những lý do trên, còn có một lý do nữa đó là : Hiện nay học sinh Tiểu học
nói chung và học sinh lớp 3 nói riêng, kỹ năng kể chuyện của học sinh chưa tốt. Đặc
biệt là những học sinh ở vùng sâu, vùng xa nơi tôi đang công tác.
Xuất phát từ những điều vừa trình bày ở trên nên chúng tôi đã hướng tới
chọn một số biện pháp rèn kỹ năng kể chuyện cho học sinh lớp 3 theo hướng dạy
học tích cực qua câu chuyện Cậu bé thông minh để làm đề tài nghiên cứu khoa học
của mình. Qua đó giúp các em học sinh lớp 3 rèn cho mình kỹ năng kể chuyện
mạch lạc, hấp dẫn. Thông qua giảng dạy để giúp các em học tốt phân môn học này,
từ đó sẽ là đòn bẩy tạo đà cho các em học tốt các môn học khác.
II. ĐỐI TƯỢNG - PHẠM VI - THỜI GIAN - ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU:
1. Đối tượng nghiên cứu:
Trường Tiểu học Nghinh Tường có tất cả tổng số học sinh là : 241 em, do
vậy đối tượng nghiên cứu của tôi là học sinh lớp 3A.
2. Phạm vi nghiên cứu:
“Một số phương pháp rèn kỹ năng kể chuyện cho học sinh lớp 3 theo hướng
dạy học tích cực” trong trường Tiểu học Nghinh Tường, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái
Nguyên.
3. Thời gian nghiên cứu:
Bắt đầu nghiên cứu từ ngày 10 tháng 9 năm 2010 và kết thúc vào 25 tháng 5
năm 2011.
4. Địa điểm nghiên cứu:
N«ng V¨n Phîng T rêng TiÓu häc
Nghinh Têng
2
S¸ng ki
ế
n kinh nghi
ệ
m N¨m
häc: 2010 - 2011
Tôi tiến hành nghiên cứu tại trường Tiểu học Nghinh Tường.
III. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
“Một số phương pháp rèn kỹ năng kể chuyện cho học sinh lớp 3 theo hướng
dạy học tích cực” qua câu chuyện “Cậu bé thông minh”.
Thực tế cho thấy: Cùng một nội dung và phương tiện điều kiện dạy học như nhau,
nhưng hiệu quả giờ dạy của các giáo viên rất khác nhau. Có những tiết dạy học sinh
hào hứng, tích cực, chủ động trong học tập, nhưng có những tiết dạy hiệu quả đạt
rất thấp, học sinh không mấy hào hứng trong hoạt động học tập và học không tập
chung. Tất cả cho thấy điều đó phụ thuộc rất nhiều đến phương pháp giảng dạy của
giáo viên. Vì vậy, đổi mới phương pháp dạy học hay nói cách khác là dạy học theo
hướng tích cực. Đây là chìa khoá cho sự thành công của giờ dạy học. Qua phân môn
kể chuyện chúng ta bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, phát triển trí tưởng tượng của học
sinh. Ngoài ra khi dạy phân môn này là chúng ta đã rèn cho học sinh hai kỹ năng đó
là: Kỹ năng nghe và nói. Giờ kể chuyện còn có hiệu quả đến nhu cầu nghe kể
chuyện của trẻ em, góp phần hình thành nhân cách, đem lại những cảm xúc thẩm mĩ
lành mạnh cho tâm hồn học sinh. Phân môn kể chuyện góp phần tích luỹ vốn văn
học, mở rộng vốn sống cho trẻ em. Bên cạnh đó phân môn kể chuyện góp phần rèn
luyện và phát triển kỹ năng nói và kể trước đám đông một cách có nghệ thuật, góp
phần khêu gợi tư duy hình tượng của trẻ. Như vậy, sáng kiến kinh nghiệm này là
vận dụng những phương pháp dạy học phân môn kể chuyện. Để rèn kỹ năng nghe,
nói cho học sinh lớp 3 theo hướng dạy học tích cực qua câu chuyện “Cậu bé thông
minh”. Từ đó thấy
được kết quả học tập của các em học sinh năm bài ở mức độ nào. Khả năng nghe,
nói của các em đến đâu ở cuối năm học và những năm học tiếp theo. Để từ đó đề
xuất những biện pháp, điều chỉnh tiết dạy của mình phù hợp với mục tiêu, yêu cầu
đề ra của phân môn kể chuyện đối với học sinh lớp 3.
N«ng V¨n Phîng T rêng TiÓu häc
Nghinh Têng
3
S¸ng ki
ế
n kinh nghi
ệ
m N¨m
häc: 2010 - 2011
B. NỘI DUNG:
I. Đặc điểm tình hình của lớp 3A :
* Thuận lợi:
Lớp 3A do tôi chủ nhiệm có tổng số 27 em, trong đó: Nam: 12 em, Nữ: 15
em. Đa số các em ngoan, chăm chỉ học tập, tiếp thu bài tương đối nhanh. Các bậc
phụ huynh phần đa là đã quan tâm tới việc học tập của các em. Các em đều sinh
sống ở các xóm gần trung tâm của xã, chủ yếu là dân tộc Tày, Dao.
* Khó khăn:
Các em học sinh lớp 3 trong khi tham gia giờ kể chuyện còn nhút nhát, vốn
từ của các em không phong phú như các bạn cùng trang lứa ở thành phố. khả năng
tư duy, xắp xếp câu chuyện của các em chưa có hệ thống và lô rích. Vốn từ của các
em còn nghèo nàn, khả năng nhớ cau chuyện còn thấp. Chính vì vậy mà khi áp dụng
dạy học lấy học sinh làm trung tâm, thì việc dạy học phân môn kể chuyện không
đạt hiệu quả cao.
II. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn:
1. Cơ sở lý luận:
Việc dạy học lấy học sinh làm trung tâm trong dạy học Tiếng Việt là: Dạy
học theo hướng tích cực. Dạy học theo kiểu này đã áp dụng ở nhiều nơi với tất cả
các môn học trong cả nước trong đó có môn Tiếng việt nói chung và phân môn kể
chuyện lớp 3 nói riêng. Một thế kỷ qua, đặc biệt là sau cách mạng tháng Tám việc
sử dụng phương pháp Tiếng Việt có những bước tiến quan trọng, đạt được những
thành tựu to lớn. Chữ quốc ngữ đã trở thành phương tiện chính để ghi Tiếng Việt,
xoá nạn mù chữ (đến nay gần như 100% dân cư biết đọc, biết viết). Tiếng Việt được
dùng chính thức trong nhà trường từ (Tiểu học đến Đại học và sau đại học), trong
các văn bản Hành
N«ng V¨n Phîng T rêng TiÓu häc
Nghinh Têng
4
S¸ng ki
ế
n kinh nghi
ệ
m N¨m
häc: 2010 - 2011
chính công cụ, trong khoá học nghệ thuật. Các bộ sách Tiếng Việt được biên soạn
và đưa vào sử dụng phương pháp dạy học Tiếng Việt nói chung và phương pháp
dạy phân môn kể chuyện lớp 3 nói riêng. Những ưu điểm và nhược điểm của các
chương trình Sách giáo khoa cũng như kinh nghiệm thực tiễn dạy và học Tiếng Việt
thông qua phân môn kể chuyện theo hướng dạy học tích cực lấy học sinh làm trung
tâm. Dù dạy học theo hướng nào đi nữa thì vẫn phải kế thừa tinh hoa của những
phương pháp dạy học Tiếng Việt đã có từ ngàn xưa. Ngày nay, trong sự đổi mới của
đất nước thì dạy học lấy học sinh làm trung tâm đã được áp dụng thành công. Dạy
học theo hướng tích cực nó giúp cho chúng ta đào tạo ra những thế hệ trẻ đủ đức, đủ
tài đáp ứng được yêu cầu chung của xã hội trong thời kỳ Công nghiệp hoá- Hiện đại
hoá đất nước.
Việc dạy học lấy học sinh làm trung tâm qua phân môn kể chuyện lớp 3, đây
là một kiểu dạy học tích cực nó làm thay đổi văn bản quan hệ giữa thầy và trò trước
kia, khi chưa áp dụng việc dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Thì việc dạy học của
người thầy chiếm vai trò chủ đạo, dạy học theo hướng thầy nói sao trò nghe vậy.
Thầy kể trò nghe, thầy đọc trò ghi chép và tiếp thu bài một cách thụ động như một
cái máy, nhất nhất trò phải làm theo thầy. Vì ông thầy lúc này là một ông thầy tổng
thể, bất di bất dịch. Nhưng dạy học theo hướng ấy chỉ phù hợp ở giai đoạn dạy học
trước đây, khi mà công nghệ thông tin chưa bùng nổ, yêu cầu của xã hội lúc bấy giờ
chưa đòi hỏi cao. Còn ngày nay với thời đại của nền công nghệ thông tin hiện đại và
sự đòi hỏi cao của xã hội, thì việc dạy học theo kiểu thầy bảo sao trò nghe vậy nó
không còn phù hợp với sự phát triển của xã hội hiện nay. Người thầy không phải cái
gì cũng hiểu hết, chinh vì vậy mà việc áp dụng dạy học theo hướng lấy học sinh làm
trung tâm đây là quan điểm dạy học đúng đắn. Với
cách dạy học theo hướng này là: Người thầy chủ động dạy cho học sinh con đường
tiếp cận với những tri thức mới. Người trò phải tự mình đi tìm những tri thức
N«ng V¨n Phîng T rêng TiÓu häc
Nghinh Têng
5
S¸ng ki
ế
n kinh nghi
ệ
m N¨m
häc: 2010 - 2011
dưới sự hướng dẫn của người thầy và tiếp nhận nó một cách sáng tạo. Dạy học theo
hướng này đã làm thay đổi căn bản quan hệ giữa thầy và trò. Nó đã đáp ứng được
ynêu cầu dạy học hiện nay, là hướng vào quan niệm dạy học mới. Tuy nhiên việc
dạy học theo hướng lấy học sinh làm trung tâm trong dạy học Tiếng Việt và các
môn học khác nói chung, phân môn kể chuyện lớp 3 nói riêng, không phải là bác bỏ
hoàn toàn cách dạy học cổ truyền trước đây. Mà phải biết kế thừa những thành tựu
của cách dạy học truyền thống , trên cơ sở kế thừa đó ta xây dựng và vận dụng cách
dạy học theo quan điểm hiện đại. Cách dạy học theo kiểu lấy học sinh làm trung
tâm được vận dụng thành công ở nhiều môn học khác nhau trong đó có phân môn
dạy kể chuyện lớp 3.
Với các kỹ năng nghe, nói, hoạt động tạo lập lời nói, đây là nội dung làm
nên đặc thù phân môn kể chuyện. Cách dạy học lấy học sinh làm trung tâm trong
phân môn kể chuyện không chỉ dạy tri thức mà phải dạy cho học sinh biết sử dụng
Tiếng Việt như một công cụ để giao tiếp và tư duy. Vai trò của người thầy giáo là
chủ thể trong hoạt động giảng dạy, dạy học là sự tổ chức điều kiện cho học sinh
chiếm lĩnh nội dung dạy học qua đó giúp học sinh phát triển và hình thành nhân
cách. Thầy giáo phải là người hướng dẫn, người thiết kế chứ không phải là người áp
đặt tri thức cho học sinh. Ngoài ra hoạt động học của học sinh đóng một vai trò hết
sức quan trọng, việc quyết định thành công trong dạy học lấy học sinh làm trung
tâm. Nghiên cứu quan điểm dạy học trước tiên phải nghiên cứu đối tượng học sinh
như là chủ thể của quá trình dạy học. Để tích cực hoá hoạt động dạy học của học
sinh cần phải quan tâm đến đặc thù về tâm lí cũng như trình độ nhận thức của học
sinh. Trong việc tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh thì cần lưu ý đến hoạt
động cụ thể của một giờ dạy nào đó.
Ví dụ: Hoạt động cụ thể chuẩn bị những tình huống sư phạm có thể xảy ra
trong giờ học, để trong khi dạy nếu học sinh có hỏi thì người giáo viên phải
N«ng V¨n Phîng T rêng TiÓu häc
Nghinh Têng
6
S¸ng ki
ế
n kinh nghi
ệ
m N¨m
häc: 2010 - 2011
giải quyết tình huống sư phạm đó một cách khoa học, hợp lý. Mà những tình huống
sư phạm đó trong khi dạy học không có trong sách vở, nó đòi hỏi người thầy phải
có sự chuẩn bị, dự đoán trướcc tình huống có thể xảy ra. Tất cả các hoạt động ấy
đều được tiến hành dưới sự chỉ đạo sâu sát của người thầy. Hiệu quả của hoạt động
đó chính là hệ thống tri thức kỹ năng, kỹ xảo mà học sinh đã nắm được. Nói tóm lại,
việc vận dụng quan điểm dạy học lấy học sinh làm trung tâm đã được ứng dụng,
vận dụng rộng rãi trong tất cả các môn học nói chung và phân môn dạy kể chuyện
lớp 3 nói riêng đã đạt hiệu quả tốt. Vậy không thể không phát huy vai trò dạy học
theo quan điểm lấy học sinh làm trung tâm trong dạy học phân môn kể chuyện ở lớp
3 nói riêng và ở tất cả các lớp nói chung.
2. Cơ sở thực tiễn:
Học sinh Tiểu học nói chung, học sinh lớp 3 nói riêng, các em đều rất thích
nghe kể chuyện. Từ thủa hai, ba tuổi trẻ em đã say mê nghe kể chuyện. Nhiều người
đến khi già rồi mà vẫn không quên được những kỷ niệm về các buổi tối còn nhỏ của
mình được người lớn kể cho nghe những câu chuyện cổ tích thần kỳ trước khi đi
ngủ. Lớn lên các em đi học, biết chữ có thể tự mình đọc được truyện nhưng vẫn
không giảm hứng thú được nghe kể chuyện. Phân môn kể chuyện lớp 3 cũng như
bậc Tiểu học trước tiên phải đáp ứng được yêu cầu này của trẻ. Kể chuyện có sức
mạnh riêng trong giáo dục trẻ, sức mạnh này bắt nguồn từ sức mạnh của công cụ mà
phân môn kể chuyện sử dụng đó là tác phẩm văn học nghệ thuật giáo viên dùng để
kể
trong lớp. Các tác phẩm văn học có tác dụng lớn đến tâm hồn và cảm xúc của các
em, đem lại những cảm xúc cho trí tưởng tượng của học sinh bay bổng. Cùng với lý
tưởng và óc tưởng tượng phong phú là bệ phóng cho những hoài bão, ước mơ cao
đẹp khi các em bước vào cuộc sống. Với các nhân vật trong truyện, tư duy hình
tượng của trẻ được khiêu gợi và có điều kiện phát triển cùng với cảm xúc thẩm mĩ.
N«ng V¨n Phîng T rêng TiÓu häc
Nghinh Têng
7
S¸ng ki
ế
n kinh nghi
ệ
m N¨m
häc: 2010 - 2011
Qua từng câu chuyện, các em biết giá trị của từng chi tiết, thấm thía với hình
ảnh nghệ thuật, từng nhân vật Do đó kể chuyện là miếng đất màu mỡ để trên đó tư
duy hình tượng của học sinh sẽ phát triển. Mặt khác phân môn kể chuyện còn phát
triển ngôn ngữ nói của học sinh. Đây là ách rèn luyện cho các em cách rèn kỹ năng
nói trước đông người một cách nghệ thuật, hấp dẫn người nghe để có thể điều khiển
được giọng kết hợp với diễn biến từng loại truyện khác nhau. Có thể nói, ngôn ngữ
nghe nói được rèn luyện trong giờ kể chuyện hướng tới phong cách nghệ thuật.
Nhưng để rèn được kỹ năng kể chuyện cho các em học sinh lớp 3 trở thành kỹ xảo
thì không phải dễ ràng một sớm một chiều nhất là đối với các em học sinh của
trường vùng sâu vùng xa như trường chúng ta. Do các em 100% đều là con em dân
tộc tiểu số nên các em phát âm còn chưa chuẩn còn ngọng giữa dấu thanh hỏi với
thanh huyền, thanh ngã với hanh sắc.
Phương tiện phục vụ cho phân môn này còn chưa được thực sự quan tâm và
chú trọng.
Một yếu tố cơ sở thực tiễn nữa đó là hoạt động dạy học của giáo viên cũng
góp phần không nhỏ vào việc học của người học. Có đạt được theo mục tiêu của
môn học đã đề ra hay không đó chính là đội ngũ giáo viên. Nhiều giáo viên vẫn còn
chưa làm quen được với việc dạy học theo hướng tích cực “Lấy học sinh làm trung
tâm” và việc đổi mới phương pháp dạy học
hiện nay. Vì: Dạy học theo kiểu lấy giáo viên làm trung tâm, thầy kể, trò nghe thì
giáo viên dễ chủ động về thời gian. Chủ động về kiến thức mà không phải suy nghĩ
để đặt ra các tình huống sư phạm có thể xảy ra với giờ dạy hôm sau, cách giải quyết
các tình huống đó. Còn dạy học theo kiểu “Lấy học sinh làm trung tâm” đòi hỏi
trong khi soạn bài giáo viên phải suy nghĩ và đưa ra những tình huống có thể xảy ra
cho nội dung bài dạy hôm sau và cách sử lý những tình huống đó như thế nào. Mà
điều đó không phải giáo viên nào cũng làm được. Chưa nói đến một số
N«ng V¨n Phîng T rêng TiÓu häc
Nghinh Têng
8
S¸ng ki
ế
n kinh nghi
ệ
m N¨m
häc: 2010 - 2011
giáo viên còn hiểu sai ý đồ của sách giáo viên và kênh hình trong sách giáo khoa.
Những giáp viên như thế phần nào cũng làm ảnh hưởng và hạn chế sự phát triển tư
duy của học sinh. Dạy học kiểu như vậy các em sẽ tiếp thu bài một cách thụ động.
Để đạt được kết quả cao trong dạy học, bắt buộc người giáo viên phải đổi mới
phương pháp dạy học và dạy học theo hướng dạy học tích cực.
Dạy học theo hướng này sẽ giúp chúng ta đào tạo ra những thế hệ trẻ năng
động, sáng tạo, đủ đức, đủ tài và phần nào đáp ứng, được yêu cầu của xã hội trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Qua khảo sát, thống kê cho thấy thực trạng khả năng nghe, nói của học sinh lớp 3A
và 3B không đồng đều. Có em chưa biết nghe tiếng phổ thông. Có em nói ngọng
các dấu thanh và nói ê-a, ngắc ngứ. Chính vì vậy cho nên chúng tôi đã vận dụng
một số biện pháp để rèn kỹ năng nghe, nói cho học sinh lớp 3 thông qua môn kể
chuyện.
CHƯƠNG II: MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP VÀ BIỆN PHÁP ĐỂ RÈN KỸ
NĂNG NGHE, NÓI CHO HỌC SINH LỚP 3 QUA BÀI “CẬU BÉ THÔNG
MINH” TRUYỆN KỂ LỚP 3.
Từ những phương pháp lý luận đã học. Qua các năm thực tế giảng dạy lớp 3.
Tôi thấy việc rèn bốn kỹ năng nghe - nói - đọc - viết cho học Sinh
lớp 3 qua môn tiếng việt là cực kỳ quan trọng. Đặc biệt là kỹ năng nghe nói của đặc
trưng phân môn kể chuyện. Với yêu cầu của đề tài mà chúng tôi đưa ra ở trên. Tôi
đã vận dụng một số phương pháp, biện pháp sau vào giảng dạy phân môn kể chuyện
lớp 3 theo hướng dạy học tích cực.
1. Những phương pháp đã sử dụng khi dạy phân môn kể chuyện lớp 3.
a. Phương pháp trình bày trực quan:
Phương pháp này đòi hỏi học sinh phải quan sát vật chất, hay tranh ảnh
minh hoạ, cho các em nghe giọng kể, quan sát điệu bộ, cử chỉ của giáo viên khi kể.
N«ng V¨n Phîng T rêng TiÓu häc
Nghinh Têng
9
S¸ng ki
ế
n kinh nghi
ệ
m N¨m
häc: 2010 - 2011
* Tác dụng của phương pháp này: Phương pháp này được sử dụng nhiều trong
bước giới thiệu bài mới, luyện tập. Để giúp các em nhớ cốt chuyện nhanh hơn củng
cố bài sâu sắc hơn. Qua đó giáo viên tiết kiệm được lời giảng, tránh được nói nhiều
mà giờ dạy vẫn sinh động.
b. Phương pháp hỏi đáp:
Phương pháp này được tiến hành trên cơ sở các hệ thống câu hỏi của thầy
thông qua từng đoạn của câu chuyện và sự trả lời của học sinh. Để qua đó giúp các
em tự tìm ra tri thức mới dưới sự hướng dẫn của thầy giáo.
* Cách dạy : Khi soạn bài, người giáo viên cần phải chuẩn bị trước một hệ thống
câu hỏi (yêu cầu các câu hỏi trong giáo án của người giáo viên phải có những câu
hỏi dành cho tất cả các đối tượng học sinh Giỏi, Khá, Trung bình, Yếu, Kém trong
lớp, để tránh giờ học nhàm chán, mà tất cả mọi đối tượng học sinh đều được tham
gia hoạt động).
* Tác dụng : Giúp học sinh tham gia vào việc học một cách tích cực, chủ động.
Nhờ đó mà các em chóng thuộc bài, hào hứng học tập, lớp học sinh động. Giáo viên
cũng qua đó mà nắm đươập của học sinh. Từ đó phân loại học sinh và có phương
pháp phù hợp với từng đối tượng để pháp huy óc
sáng tạo và tính độc lập của suy nghĩ của học sinh. Sử dụng phương pháp dạy học
này người ta còn gọi là dạy học nêu vấn đề do một hay một số tình huống đặt ra.
Nhờ đó mà học sinh vừa nắm được tri thức, vừa phát huy óc tư duy, sáng tạo. Dạy
học hướng này còn có khả năng lớn trong việc giúp học sinh chủ động chiếm lĩnh tri
thức mới.
c. Phương pháp vui - Học tập qua trò chơi kể chuyện phân vai .
d. Phương pháp nêu gương :
Thông qua phân môn kể chuyện người giáo viên chủ yếu rèn cho học sinh
lớp 3 hai kỹ năng chính đó là : Một là : Rèn kỹ năng nghe kể chuyện cho học
N«ng V¨n Phîng T rêng TiÓu häc
Nghinh Têng
10
S¸ng ki
ế
n kinh nghi
ệ
m N¨m
häc: 2010 - 2011
sinh không phải trên miếng đất hoang. Kỹ năng nghe Tiếng việt của học sinh
đã được nhiều phân môn khác rèn luyện. Chính trên nền tảng ấy, phân môn kể
chuyện lớp 3 hướng vào rèn luyện thao tác đặc thù của kỹ năng nghe kể huyện. Các
bước rèn luyện cụ thể :
+ Rèn kỹ năng nghe và nắm mạch chuyện (cốt chuyện các tuyến tình tiết
chính của câu chuyện). Trong bước này, lúc đầu giáo viên nên lựa chọn các câu
chuyện có cốt chuyện đơn giảnn, có một tình tiết, số lượng nhân vật không không
nhiều. Sau khi kể chuyện cho học sinh nghe một lần, giáo viên yêu cầu các em kể
tóm tắt lại câu chuyện học nhắc lại tên nhân vật chính và tình tiết cơ bản liên quan
đến nhân vật. Ví dụ câu chuyện “Cậu bé thông minh” khi học sinh đã làm quen
nghe và nhớ được mạch truyện của các truyện đơn giản giáo viên chọn những câu
chuyện có cốt chuyện phức tạp hơn (hai hay ba tình tiết, số nhân vật nhiều hơn ) để
các em tập nghe và nhớ cốt chuyên.
+ Rèn kỹ năng nghe và nhớ các chi tiết của truyện: Ở bước này học sinh
phải tập trung chú ý để ghi nhớ không chỉ cốt chuyện mà cả chi tiết. Ví dụ : Khi
nghe câu chuyện “Cậu bé thông minh” học sinh phải nhớ được
từng câu đối đáp giữa cậu béừâ nhà vua. Để rèn luyện cho học sinh, đối với những
câu chuyện phức tạp thì ở giai đoạn đầu giáo viên có thể cho kể hai lần (có thể một,
hai học sinh khá giỏi kể lại) rồi yêu cầu học sinh nhắc lại các chi tiết của chuyện. Ai
nhắc được nhiều chi tiết chứng tỏ nghe chăm chú và có trí nhớ tốt.
+ Rèn kỹ năng nghe hiểu thấm được tình cảm, cảm xúc của người kể, qua
nội dung câu chuyện, qua giọng điệu, ngôn ngữ của người kể. Ngoài ra giáo viên
có thể hướng dẫn học sinh sử dụng các phương tiện bổ trợ cho việc ghi nhớ câu
chuyện vừa nghe đẻ hỗ trợ trí nhớ khi nghe kể chuyện như : Tập sử dụng giấy nháp
để ghi chép: Tên nhân vật, chi tiết quan trọng, cảm xúc của học sinh lúc lắng
N«ng V¨n Phîng T rêng TiÓu häc
Nghinh Têng
11
S¸ng ki
ế
n kinh nghi
ệ
m N¨m
häc: 2010 - 2011
nghe kể chuyện. Dựa vào tranh minh hoạ để giúp cho việc ghi nhớ các sự
việc quan trọng trong chuyện.
Hai là : Rèn kỹ năng kể chuyện cho học sinh lớp 3
- Tập cho học sinh kể một sốt chi tiết hoặc từng đoạn của chuyện.
Chuẩn bị : + Tạo cho học sinh tâm thế muốn được kể chuyện cho cô, cho bạn nghe,
không ngượng ngùng, rụt rè. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng đối với học sinh
lớp 3 vì các em còn mặc cảm, tự ti. Lời động viên của thầy cô giáo tạo sự thi đua
giữa các tổ, nhóm. Trang trí hoặc bố trí lại lớp học gợi không khí câu chuyện Là
những biện pháp có hiệu quả tạo tâm thế mong muốn được tham gia kể chuyện
trong tiết học. Giúp học sinh nắm vững, hiểu và có cảm xúc đối với câu chuyện sắp
kể.
Bước tập kể từng phần câu chuyện: Học sinh lớp 3 các em còn nhỏ, khả năng ghi
nhớ, khả năng chú ý còn hạn chế. Vì thế lúc đầu nên để các em tập kể từng phần của
câu chuyện. Tập kể một số chi tiết, tình tiết quan trọng, tập kể từng đoạn trong câu
chuyện. Khi tập kể từng đoạn do nội dung ngắn, học sinh có điều kiện vận dụng khả
năng thích hợp với nội dung đoạn truyện,
giáo viên dành thời gian giúp học sinh luyện tập kỹ năng này. Đối với học sinh
Tiểu học nói chung, học sinh lớp 3 nói riêng, giáo viên nên hướng dẫn các em sử
dụng một vài động tác hoặc điệu bộ minh hoạ cho diễn biến của đoạn truyện.
Lưu ý : Khi dạy học sinh kể từng đoạn giáo viên không gò ép các em rập khuôn
theo cách kể của thầy. Nên để các em tự kể theo giọng điệu riêng, theo cách thể hiện
riêng của mình. Chỉ khi nào các em quên hoặc không kể được thì lúc đó giáo viên
mới gợi ý và hướng dẫn thêm.
Bước tập kể từng câu chuyện: Đây là bước luyện tập ở mức độ cao so với cách kể
từng đoạn. Bước kể này đòi hỏi người kể phải có trí nhớ tốt, chủ động trong
N«ng V¨n Phîng T rêng TiÓu häc
Nghinh Têng
12
S¸ng ki
ế
n kinh nghi
ệ
m N¨m
häc: 2010 - 2011
cách kể. Song nó cũng cho phép người kể có điều kiện sáng tạo và thể hiện khả
năng của mình.
2. Đề xuất một số biện pháp rèn kỹ năng nghe - kể chuyện cho học sinh lớp 3
qua phân môn kể chuyện:
a. Sửa phát âm cho học sinh: Đây là một biện pháp quan trọng đầu tiên để giúp
các em luyện nói chính xác. Muốn đạt được kết quả cao, học sinh phát âm chuẩn thì
giáo viên phải là người pháp âm chuẩn xác, không nói ngọng, giáo viên phải kiên trì
sửa cho các em trong từng tiết dạy.
b. Yêu cầu đối với giáo viên khi dạy học sinh: Cần rèn giọng kể linh hoạt phù hợp
với nội dung lời nói của từng nhân vật, làm cho lời kể thật sự hấp dẫn học sinh.
Muốn vậy, cần đọc kỹ văn bản cho thật hiểu và nhớ trước khi kể để xác lập được kỹ
thuật kể văn bản đó. Kỹ thuật kể (hay đọc) diễn cảm một văn bản được xác lập dựa
trên 3 phương diện cơ bản sau:
+ Giọng kể (đọc): Vui hay buồn, hào hùng hay êm ả
+ Nhịp điệu: Nhanh hay chậm, dồn dập, gấp gáp hay hiền hoà, khoan thai
+ Ngắt giọng tâm lý: Ngắt giọng (dù không có dấu câu, chú ý gây ấn tượng)
coi trọng các thủ pháp mở đầu câu chuyện, thêm tình tiết cho văn bản truyện.
- Biết mở đầu truyện là một thủ thuật giúp tạo hứng thú, tạo sự chờ mong,
kích thích trí tò mò của trẻ em. Biết thêm một vài từ ngữ vào văn bản truyện. Vốn
cổ động, hàm xúc sẽ làm cho lời kể thêm sinh động, hấp dẫn.
- Trực quan: Giáo viên khai thác tranh minh hoạ làm cho học sinh nhớ câu
chuyện, khơi gợi trí tưởng tượng, sự sáng tạo của các em, giáo viên gợi mở, dẫn dắt
để học sinh kể chuyện.
- Thực hành giao tiếp: Giáo viên tạo điều kiện cho mọi học sinh ở các trình
độ khác nhau ít nhiều đều được thực hành kể chuyện, nói về nội dung câu chuyện.
N«ng V¨n Phîng T rêng TiÓu häc
Nghinh Têng
13
S¸ng ki
ế
n kinh nghi
ệ
m N¨m
häc: 2010 - 2011
- Cùng tham gia: Giáo viên tổ chức cho các em tham gia các trò chơi (kể
chuyện tiếp sức theo đoạn, kể chuyện phân vai, đóng vai, dựng hoạt cảnh)thay đổi
các hình thức hợp tác thực hiện một nhiệm vụ học tập ở mỗi tiết học để tạo sự hấp
dẫn.
c. Hướng dẫn học sinh tập kể chuyện: Học sinh tập kể từng đoạn, tạo điều kiện
cho các em tiến tới kể được toàn bộ câu chuyện (yêu cầu với học sinh khá, giỏi) còn
học sinh yếu cho kể theo từng đoạn.
- Khi học sinh kể chuyện, giáo viên dạy các em nhớ cốt truyện, không bỏ
qua các tình tiết cơ bản bằng cách bám sát tranh minh hoạ, những câu hỏi gợi ý, có
thể viết vắn tắt cốt truyện với các tình tiết chính trên bảng lớp. Khuyến khích để học
sinh thích kể chuyện, kể một cách tự nhiên, hồn nhiên. Việc phân tích ý nghĩa của
truyện cần thể hiện khéo léo ở phần tổng kết tiết học.
N«ng V¨n Phîng T rêng TiÓu häc
Nghinh Têng
14
S¸ng ki
ế
n kinh nghi
ệ
m N¨m
häc: 2010 - 2011
C.KẾT LUẬN
Trên đây, trong sáng kiến kinh nghiệm này, khi đã phân tích cơ sở lý luận và
cơ sở thực tiễn của sáng kiến kinh nghiệm này. Tôi đã mạnh dạn đề xuất một số
biện pháp để rèn các kỹ năng nghe - kể cho học sinh lớp 3 thông qua phân môn kể
chuyện theo hướng dạy học tích cực ở trường tiểu học Nghinh Tường. Với cách vận
dụng một số kinh nghiệm, cũng như phương pháp đã nêu trên vào giảng dạy phân
môn kể chuyện ở lớp tôi, tôi thấy có tính khả thi cao. Nếu được đem vào dạy thực
nghiệm một cách quy mô hơn sẽ mang lại hiệu quả rất cao trong dạy học và nâng
cao được chất lượng dạy và học phân môn này cũng như các môn học khác.
Để vận dụng thành công dạy học lấy học sinh làm trung tâm ở phân môn kể
chuyện cũng như các môn học khác thì giáo viên nên tận dụng những kênh hình rất
rõ trong đồ dùng dạy học của lớp 3 ở phân môn này và kết hợp với tranh động trong
mỗi bài kể .Thời gian trên lớp có hạn, chỉ có 35 phút / một tiết dạy. Vì vậy mỗi nhà
giáo dục chúng ta phải nhận thấy đây là phân môn quan trọng trong khi học
môn Tiếng việt. Vì nó hình thành và giáo dục những tình cảm, nhân cách cho các
em.
Sau một năm tìm hiểu và thực hiện sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện
pháp rèn kỹ năng kể chuyện cho học sinh lớp 3 theo hướng dạy học tích cực qua
câu chuyện “Cậu bé thông minh”. Đến nay sáng kiến kinh nghiệm của tôi đã hoàn
thành. Mặc dù rất cố gắng, nhưng do lần đầu tiên tôi tham gia vào viết sáng kiến
kinh nghiệm với quỹ thời gian và phạm vi nghiên cứu còn hạn hẹp, bản thân người
làm nghiên cứu lại chưa có kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Nên sáng kiến kinh
nghiệm của tôi không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Những biện pháp mà tôi
đưa ra chưa phải là tối ưu nhất, tuy chưa hoàn thiện nhưng tôi cũng mạnh dạn đưa
ra để góp phần rất nhỏ
N«ng V¨n Phîng T rêng TiÓu häc
Nghinh Têng
15
S¸ng ki
ế
n kinh nghi
ệ
m N¨m
häc: 2010 - 2011
của mình vào dạy tốt phân môn này và các môn học khác. Tôi tha thiết kính mong
nhận được những ý kiến đóng góp của Ban giám hiệu, các đồng nghiệm để sáng
kiến kinh nghiệm của tôi hoàn thiện hơn và đưa vào áp dụng trong giảng dạy một
cách rộng dãi hơn, nâng cao chất lượng dạy học của trường nơi tôi đang công tác.
Xin trân trọng cảm ơn !
Nghinh Tường, ngày 28 tháng 5 năm 2011
XÁC NHẬN CỦA BGH Người viết
Nông Văn Phượng
N«ng V¨n Phîng T rêng TiÓu häc
Nghinh Têng
16