Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Một só biện pháp rèn luyện kỹ năng nói trong phân môn tập làm văn cho học sinh lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.45 KB, 25 trang )

Lời cảm ơn
Trong mấy năm học vừa qua, nhờ có các thầy giáo, cô giáo của Trờng
CĐSP Hà Nội và ĐHSP Hà Nội em đã có thêm rất nhiều những kiến thức quý
giá. Những kiến thức đó đã giúp em rất nhiều để em vững bớc tự tin hơn trên con
đờng sự nghiệp giáo dục trong giai đoạn cách mạng hiện nay, giúp em thêm yêu
nghề và sống hết mình với nghề trồng ngời, mà mình đã lựa chọn.
Nhân dịp thể hiện luận văn này, em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô
giáo của trờng CĐSP Hà Nội và ĐHSP Hà Nội. Chính sự tận tụy của các thầy,
các cô đã thắp sáng trong em niềm tin. Cảm ơn các bạn đồng nghiệp ở trờng Tiểu
học Nghĩa Đô đã giúp tôi hoàn thành đề tài này:
Đặc biệt là Tiến sĩ Đặng Kim Nga- ngời đã tận tình hớng dẫn và giúp đỡ
em tự tin hơn khi lựa chọn và hoàn thành đề tài này.
Trong luận văn này bản thân em với kiên thúc và kinh nghiệm cha đủ cộng
với thời gian không nhiều nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất
mong nhận đợc sự góp ý của các thầy, các cô cùng các bạn để đề tài này đợc
hoàn chỉnh hơn.
Hà Nội ngày 26 tháng 5 năm 2007
Ngời viết
Hoàng Thị Tuyết Mai
1
PHầN Mở Đầu
Lý do chọn đề tài
1. Xuất phát từ nhiệm vụ của môn tiếng Việt trong trờng học.
Từ khi xuất hiện trên trái đất, để có thể tồn tại và phát triển, loài ngời đã
không ngừng nhận thức thể giới xung quanh . Nhờ đó loài ngời dần phát triển và
nắm vững nhiều quy luật của các sự vật, hiện tợng khách quan, tích luỹ đợc tri
thức, kinh nghiệm, thành tựu văn hoá. Sự tích lũy đó từ xa đến nay đều đợc ghi
lại bằng chữ viết. Ngôn ngữ là phơng tiện giao tiếp quan trọng nhất của loài ng-
ời (Lê Nin), "Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của t tởng (Mác) thiếu ngôn ngữ
con ngời không thể tham gia vào cuộc sống xã hội hiện đại, vào sản xuất, vào sự
phát triển của văn hóa nghệ thuật Chức năng quan trọng của ngôn ngữ đã quy


định sự cần thiết của việc nghiên cứu sâu sắc tiếng mẹ đẻ trong nhà trờng.
"Trẻ em đi vào trong đời sống tinh thần của mọi ngời xung quanh và duy
nhất thông qua phơng tiện tiếng mẹ đẻ và ngợc lại, thế giới bao quanh đứa trẻ đ-
ợc phản ánh trong nó chỉ thông qua chính công cụ này (K.A. Usinxki). Tiếng
mẹ đẻ đóng vai trò to lớn trong việc hình thành những phẩm chất quan trọng nhất
của con ngời và trong việc thực hiện những nhiệm vụ trong hệ thống giáo dục
quốc dân. Nắm ngôn ngữ và lời nói là điều kiện thiết yếu của việc hình thành
tính tích cực xã hội của nhân cách. Không có một khoa học nào mà con ngời
nghiên cứu trong tơng lai, không một phạm vi hoạt động xã hội nào lại không
đòi hỏi một sự hiểu biết sâu sắc về tiếng mẹ đẻ. Trình độ trau dồi ngôn ngữ của
một ngời nào đó là tấm gơng phản chiếu trình độ nuôi dỡng tâm hồn anh ta.
Chính vì vậy, trong hệ thống giáo dục Việt Nam, bậc tiểu học - một bậc học cơ
bản, nền tảng- tiếng mẹ đẻ là môn học trung tâm.
Đặc trng cơ bản của tiếng mẹ đẻ với t cách là một môn học ở trờng tiểu
học là ở chỗ nó vừa là đối tợng nghiên cứu vừa là công cụ để học tập tất cả các
môn học khác.
Nh vậy, tiếng Việt thể hiện rõ là một môn học chính của trờng tiểu học n-
ớc ta. .
Mục đích của dạy học môn tiếng Việt ở trờng tiểu học là:- Hình thành và
phát triển cho học sinh các kỹ năng sử dụng tiếng Việt: nghe, nói, đọc, viết để
học tập và giao tiếp trong các môi trờng hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc
dạy và học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác t duy cho học sinh.Cung
cấp cho học sinh những kiến thức sơ giảng về xã hội, tự nhiên và con ngời, về
văn hoá, văn học Việt Nam và nớc ngoài.
- Bồi dỡng tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong
sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con ngời Việt Nam
XHCN.
2
Môn tiếng Việt rèn luyện cho học sinh tiếu học những kĩ năng cần thiết là
điều kiện và là phơng tiện học tập của học sinh. Nói một cách khác, trẻ em muốn

nắm kĩ năng học tập trớc hết cần nghiên cứu tiếng mẹ đẻ- chìa khoá của nhận
thức, của học vấn của sự phát triển trí tuệ đúng đắn.
Nh vậy, sở dĩ tiếng mẹ đẻ giữ vai trò đặc biệt giữa các môn học khác trong
nhà trờng tiểu học là vì một mặt do ý nghĩa của những kiến thức phổ thông mà
môn học này đa lại cho học sinh: mặt khác những kĩ năng, kĩ xảo mà nó hình
thành trong giờ học tiếng mẹ đẻ là những kỹ năng cằn thiết trong cuộc sống của
học sinh, không phụ thuộc vào nghe nghiệp tơng lai của các em. Với vai trò và
chức năng nh vậy, môn tiếng Việt trong trờng tiểu học đợc coi trọng và giành đ-
ợc vị trí u tiên xứng đáng.
2. Xuất phát từ vai trò, nhiệm vụ của phân môn tập làm văn trong
dạy học tiếng Việt
Trong môn tiếng Việt có rất nhiều phân môn nh: luyện từ và câu, tập đọc
tập viết, chính tả,tập làm văn, kể chuyện. Trong đó tập làm văn là môn học có
tính chất tồng hợp, kiến thức cơ sở liên quan đến nhiều ngành khoa học. Môn tập
làm văn giúp học sinh ý thức đợc một câu văn khi chuyển đến ngời đọc hay ngời
nghe đều chứa đựng nội dung ý nghĩa hoặc thông tin cần thiết. Tập làm văn có
nhiệm vụ chủ yếu là giúp học sinh rèn luyện kĩ năng sản sinh ngôn bản nói và
viết. Không học tốt tập làm văn, khả năng nói và viết ngôn bản của học sinh sẽ bị
hạn chế. Phần tập làm văn trong chơng trình tiếng Việt mới đợc xây dựng gồm 2
mạch: Mạch dạy tập làm văn nói và mạch dạy tập làm văn viết.
Đối với lớp 3, chơng trình tiếng Việt đặt ra nhiệm vụ cho phân môn tập
làm văn. Phân môn tập làm văn rèn cả 4 kĩ năng: nghe, nói, đọc viết. Trong giờ
tập làm văn, học sinh đợc cung cấp kiến thức về cách làm bài và làm các bài
luyện tập (nói, viết), xây dựng các loại văn bản và các bộ phận cấu thành văn
bản. Bên cạnh đó, học sinh còn tập kể lại những mẩu chuyện đợc nghe thầy, cô
kể trên lớp.
Nói:
- Biết dùng lời nói phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp trong sinh hoạt gia
đình, trong các cuộc họp Đội, họp lớp và các hình thức sinh hoạt khác ở nhà tr-
ờng.

- Biết giới thiệu các thành viên, các hoạt động của tổ, của lớp ; biết kể lại
một câu chuyện đã nghe, đã đọc. Nghe hiểu nội dung lời nói ý kiến thảo luận
trong các buổi sinh hoạt. Nghe- hiểu và kể lại đợc nội dung các mẩu chuyện
ngắn, biết nhận xét về nhân vật trong các câu chuyện.
Viết:
3
- Biết viết đơn, viết tờ khai theo mẫu, viết một bức th ngắn để báo tin tức,
để hỏi thăm ngời thân, tập trình bày phong bì th hoặc kể lại một việc đã làm. biết
kể lại nội dung một bức tranh đã xem, một văn bản đã đọc.
- Trau dồi thái độ ứng xử có văn hoá, tinh thần trách nhiệm trong công
việc. Bồi dỡng những tình cảm lành mạnh, tốt đẹp qua nội dung bài dạy.
3. Xuất phát từ nội dung dạy học và các hình thức luyện tập của phân
môn tập làm văn.
a. Nội dung dạy học:
- Trang bị cho học sinh một số hiểu biết và kỹ năng phục vụ học tập, đời
sống hàng ngày nh: điền vào các tờ giấy in sẵn, viết th, làm đơn, tổ chức họp
phát biểu trong cuộc họp, giới thiệu hoạt động của tổ, lớp, trờng, ghi chép sổ
tay
- Tiếp tục rèn luyện kỹ năng kể chuyện, miêu tả: kể về một sự việc đơn
giản, tả sơ lợc về ngời, vật xung quanh theo gợi ý bằng tranh, bằng câu hỏi.
- Rèn luyện kĩ năng nghe thông qua các bài tập nghe kể và các hoạt
động trên lớp.
b. Các kiểu bài tập:
- Bài tập nghe: Nghe và kể lại một mẩu chuyện ngắn, nghe và nói lại một
mẩu tin
- Bài tập nói:
+ Tổ chức, điều khiển cuộc họp, phát biểu trong cuộc họp.
+ Kể hoặc tả miệng về ngời thân, gia đình, trờng, lớp, quê hơng, lễ hội,
hoạt động thể thao văn nghệ.
- Bài tập viết:

+ Điền vào giấy tờ in sẵn
+ Viết một số giấy tờ theo mẫu.
+ Viết th.
+ Ghi chép sổ tay.
+ Kể hoặc tả ngắn về ngời thân, gia đình, trờng lớp, quê hơng, lễ hội, hoạt
động thể thao văn nghệ.
4. Xuất phát từ thực trạng dạy học phân môn tập làm văn ở trờng
Tiểu học
Nhằm thực hiện mục tiêu hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng
sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết), để học tập và giao tiếp trong các môi tr-
ờng hoạt động của lứa tuổi", sách giáo khoa Tiếng Việt 3 nói chung và phân môn
lập làm văn nói riêng tiếp tục lấy nguyên tắc dạy giao tiếp làm định hớng cơ
bản. Quan điểm dạy giao tiếp đợc thể 'hiện trên cả 2 phơng diện: nội dung và ph-
ơng pháp dạy học.
4
a. Những thuận lợi:
- Nhìn chung học sinh lớp 3 về cơ bản đã đợc rèn luyện kĩ năng tập làm
văn nói, giao tiếp thông qua các tình huống cụ thể nhng đòi hỏi ở học sinh kĩ
năng cao hơn.
- Cấu trúc nội dung và chơng trình của phân môn tiếng Việt hay có nhiều
thuận lợi cho dạy tập làm văn theo định hớng phát triển kĩ năng giao tiếp. Học
sinh đợc tăng cờng rèn luyện kĩ năng nói thông qua hình thức nghe- kể, tăng c-
ờng các hình thức sinh hoạt tập thể tự nhiên nhiên họp nhóm họp tổ rất gần
gũi với các em, giúp các em rèn luyện đợc tính tự tin trớc đám đông.
- Trong thời gian gần đây, việc hình thành kĩ năng dạy tập làm văn nói cho
giáo viên đã đợc chú trọng thông qua các hội thi giáo viên dạy giỏi các cấp, giúp
giáo viên đợc cọ sát, có cơ hội trau dồi kinh nghiệm với đồng nghiệp.
b. Những khó khăn.
- Việc áp dụng chơng trình thay sách giáo khoa cho học sinh lớp 3 mới đ-
ợc áp dụng một vài năm nên khó khăn trớc hết là nhận thức của ngời dạy và ngời

học, nhận thức của cha mẹ học sinh cha thấy hết đợc vị trí, vai trò tầm quan
trọng và sự tác động qua lại của các môn học.
- Trong một thời gian khá dài việc chú trọng rèn luyện kĩ năng giao tiếp
cho học sinh thông qua môn tập làm văn đã bị xem nhẹ, những giáo viên cha chú
trọng phát triển vốn từ và cách diễn đạt cho học sinh thông qua giờ tập làm văn
miệng mà mới chỉ dừng lại ở việc giúp học sinh có đợc một bài viết hoàn chỉnh.
- Mặt khác, môn tập làm văn đòi hỏi ngời giáo viên phải có một vốn từ và
cách diễn đạt phong phú, biết cách gợi mở để từng học sinh có thể bộc lộ khiếu
thẩm mỹ, khả năng rung động trớc cái hay, cái đẹp của xung quanh thông qua
môn tập làm văn. Vì vậy một số giáo viên có xu hớng tâm lý là ngại dạy tập làm
văn đặc biệt là tập làm văn miệng, chỉ cốt đa ra bài mẫu, câu mẫu để từ đó học
sinh có thể hoàn thành bài làm của mình. Việc này đã phần nào làm giảm tính
sáng tạo, sự sinh động, khả năng rèn luyện kĩ năng sản sinh ngôn bản vốn có do
môn tập làm văn đem lại cho ngời học.
Xuất phát từ những lý do trên, cộng thêm với điều kiện chủ quan là tôi đã
có một số năm tìm tòi tham khảo một số phơng pháp dạy tập làm văn cho học
sinh nên trong luận văn này tôi chọn nghiên cứu đề tài: Một só biện pháp rèn
luyện kỹ năng nói trong phân môn tập làm văn cho học sinh lớp 3.
5
Phần nội dung
Chơng I. Cơ sở lý luận của đề tài.
1. Cơ sở lý luận:
a. Cơ sở triết học Mác- Lê nin
Triết học Mác- Lê nin là cơ sở quyết định phơng hớng chung của phơng
pháp dạy học tiếng Việt. Nó giúp chúng ta hiểu đợc đối tợng của khoa học ngôn
ngữ một cách sâu sắc trang bị cho chúng ta phơng pháp nghiên cứu đúng đắn.
Sau đây chúng ta xem xét một vài luận điểm của chủ nghĩa Mác- Lê nin về ngôn
ngữ, quá trình nhận thức có ảnh hởng quan trọng, trực tiếp đối với phơng pháp
dạy tiếng Việt, là cơ sở lý thuyết quan trọng để giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn
của dạy học tiếng Việt nói chung và dạy tập làm văn nói riêng.

"Ngôn ngữ là phơng tiện giao tiếp quan trọng nhất của loài ngời (Lê nin).
Luận điểm này không chỉ đơn thuần khẳng định ngôn ngữ là phơngtiện giao tiếp
mà còn là phơng tiện giao tiếp quan trọng nhất và là phơng tiện giao tiếp đặc tr-
ng của loài ngời. Không có ngôn ngữ xã hội không thể phát triển. Mục đích
nghiên cứu ngôn ngữ trong nhà trờng là phải làm cho họ có thể sử dụng ngôn
ngữ làm phơng tiện sắc bén để giao tiếp. Vì vậy, phát triển lời nói là nhiệm vụ
quan trọng nhất của dạy học nói trong nhà trờng. Tất cả các giờ dạy môn tiếng
Việt (cả dạy đọc, viết ) phải đi theo khuynh hớng này. Học sinh cần hiểu rõ ng-
ời ta nói và viết không chỉ để cho mình mà cho ngời khác nên ngôn ngữ phải
chính xác, rõ ràng, đúng đắn, dễ hiểu. Mặt khác vì ngôn ngữ là phơng tiện giao
tiếp nên phải lấy hành động giao tiếp làm phơng tiện để dạy học tiếng Việt nói
chung và môn tập làm văn nói riêng.
Ngôn ngữ luôn gắn bó chặt chẽ với t duy, ngôn ngữ là hiện thực trực
tiếp của t tởng" (Mác). Ngôn ngữ là phơng tiện của nhận thực lôgic, lí tính. T
duy của con ngời không thể phát triển nếu thiếu ngôn ngữ. Việc chiếm lĩnh
ngôn ngữ nhằm tạo ra những tiền đề phát triển t duy. Từ đây ngời ta rút ra những
kết luận có tính chất phơng pháp: kiến thức, kĩ năng ngôn ngữ phải đợc xem xét
nh là những yếu tố của phát triển t duy. Các hệ thống dạy học tiếng Việt cần bảo
đảm mối quan hệ giữa lời nói, t duy, phải thờng xuyên luyện tập cho học sinh kỹ
năng diễn đạt t tởng của mình bằng những hình thức ngôn ngữ khác nhau. Trong
dạy tiếng Việt phải đi từ t duy đến ngôn ngữ (ví dụ: từ một ý viết thành nhiều câu
khác nhau).
Nhận thức luận của chủ nghĩa Mác- Lê nin dạy rằng: con đờng biện chứng
của nhận thức chân lý đi qua 2 giai đoạn (nhận thức cảm tính và nhận thức lý
tính), đồng thời chỉ ra thực tiễn là cội nguồn, động lực của nhận thức, là tiêu
chuẩn của chân lý.
Đứa trẻ nhận thức thế giới xung quanh một cách cảm tính (bằng mắt, bằng
tai ) gắn với màu sắc, âm thanh cụ thể. Do đó, nhiệm vụ đầu tiên của nhà trờng
6
trong dạy tiếng là phải dựa trên kinh nghiệm sống và kinh nghiệm lời nói của

học sinh. Học sinh sẽ đi từ việc quan sát tiếng nói trong đời sống của nó, thông
qua việc phân tích, tổng hợp đến khái quát hoá và từ đó quay về thực tiễn giao
tiếp thể hiện sống động dới dạng nói và dạng viết. Cách làm việc của học sinh
với tiếng mẹ đẻ trong nhà trờng không chỉ tuân thủ những quy luật chung của
quá trình nhận thức chân lý của loài ngời mà còn đáp ứng đợc những đòi hỏi của
lý luận dạy học hiện đại. Đó là con đờng nghiên cứu, phát minh- khuynh hớng
của phơng pháp dạy học hiện đại nói chung, của phơng pháp dạy tiếng Việt nói
riêng.
Phơng pháp dạy học tiếng Việt còn dựa vào một loạt khoa học có liên
quan khác. Nó nghiên cứu vấn đề dạy học tiếng, đứng trớc một hiện tợng gồm 3
yếu tố: Tiếng Việt, ngời học và dạy học theo phơng pháp nhất định. Phơng pháp
dạy học tiếng Việt phải xuất phát từ chung quy luật vận động của những yếu tố
đó mới có cơ sở khoa học.
Việc dạy tiếng Việt trong nhà trờng phải đặt ra mục đích cuối cùng không
phải là trang bị cho học sinh những kiến thức về tiếng Việt mà là hình thành và
rèn luyện cho học sinh các kỹ năng sử dụng tiếng Việt làm phơng tiện giao tiếp
quan trọng nhất của các em. Kết quả của việc dạy học tiếng Việt trong nhà trờng
chính là việc sử dụng tiếng Việt của các em nh thế nào trong giao tiếp ở nhà tr-
ờng, gia đình và xã hội.
b. Cơ sở tâm lý học:
Quan hệ của phơng pháp dạy học tiếng Việt và tâm lý học, đặc biệt là tâm
lý học lứa tuổi rất chặt chẽ. Không có kiến thức về quá trình tâm lý ở con ngòi
nói chung và ở trẻ em lứa tuổi tiểu học nói riêng thì không thể giảng dạy tốt đ-
ợc. Phơng pháp dạy học tiếng Việt vận dụng rất nhiều kết quả tâm lý học. Đó là
các quy luật tiếp thu tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo. Những nghiên cứu tâm
lý cho phép xác định mức đọ vừa sức của tài liệu học tập.
Mối quan hệ của phơng pháp dạy học tiếng Việt với tâm lý ngữ học, một
khoa học trẻ nằm giữa tâm lý và ngôn ngữ, càng nỗi rõ hơn. Tâm lý ngữ học đem
lại cho phơng pháp ngôn ngữ số liệu về lời nói nh một hoạt động. (VD nh việc
nhận định tình huống nói năng, các giai đoạn sản sinh lời nói )

c. Cơ sở ngôn ngữ học:
Ngôn ngữ nói chung, tiếng Việt nói riêng có quan hệ mật thiết với phơng
pháp dạy học tiếng Việt. Từ mối quan hệ này có ý kiến cho rằng phơng pháp dạy
học tiếng Việt là ngôn ngữ học ứng dụng. Ngôn ngữ tiếng Việt tạo nên nền tảng
của môn học tiếng Việt và lôgic khoa học của ngôn ngữ quyết định logic môn
học tiếng Việt. Phơng pháp dạy học tiếng Việt phải phát hiện đợc những quy luật
riêng, đặc thù của dạy học tiếng Việt. Chính khoa học ngôn ngữ quy định đặc
thù này. . .
7
Những hiểu biết về bản chất của ngôn ngữ, của tiếng Việt có vai trò quan
trọng trong việc định ra các nguyên tắc, nội dung và phơng pháp dạy học tiếng
Việt.
Ví dụ: Từ bản chất tín hiệu của ngôn ngữ, dạy học tiếng phải làm cho học
sinh nắm đợc giá trị của từng yêu tố ngôn ngữ, tính hệ thống của ngôn ngữ là cơ
sở để xây dựng các bài tập yêu cầu học sinh tìm các yếu tố khi biết một yếu tố
khác, nó cũng là cơ sở cung cấp từ theo chủ đề ở tiểu học.
Các bộ phận ngôn ngữ học (từ vựng, ngữ âm ) có vai trò quan trọng trong
việc xác định nội dung và phơng pháp dạy học. Ngữ âm trong quan hệ qua lại
với chữ viết là cơ sở của việc soạn thảo phơng pháp dạy đọc, viết, cơ sở của việc
hình thành kỹ năng đọc sơ bộ. Ngữ pháp quan trọng cả trong việc phát triển lời
nói vì nó đảm bảo quan hệ giữa các từ, cụm từ và việc viết câu đúng. Gần đây,
trong phơng pháp dạy tiếng ngời ta dựa nhiều hơn vào phong cách học (VD: ở
tiểu học ngời ta dựa vào phân định ranh giới của ngôn ngữ hội thoại và ngôn ngữ
viết để dạy nói cho học sinh lớp 1).
Tóm lại, ngôn ngữ học nói chung, Việt ngữ học nói riêng, quy định cả nội
dung dạy học, trình tự sắp xếp nội dung môn học và cả phơng pháp làm việc của
thầy và trò trong giờ Tiếng Việt.
d. Cơ sở giáo dục học:
Phơng pháp dạy học tiếng Việt là một bộ phận của khoa học giáo dục nên
nó phụ thuộc vào chung quy luật chung của khoa học này. Giáo dục học nói

chung, lý luận dạy học đại cơng nói riêng cung cấp cho phơng pháp dạy học
tiếng Việt những hiểu biết về các quy luật chung của việc dạy học các môn học.
Có thể nói, phơng pháp dạy học tiếng Việt là một khoa học sinh ra từ sự tích hợp
biện chứng của Việt ngữ học và lý luận dạy học đại cơng. Mục đích của phơng
pháp dạy học tiếng Việt cũng nh các khoa học giáo dục nói chung là tổ chức sự
phát triển tâm hồn và thể chất của học sinh, chuẩn bị cho các em đi vào cuộc
sống trong xã hội mới.
Quan hệ của phơng pháp dạy học tiếng Việt với khoa học giáo dục đợc thể
hiện ở chỗ phơng pháp đợc một hệ thống giáo dục tạo ra và làm cơ sở. Phơng
pháp dạy học tiếng Việt hoàn toàn sử dụng các khái niệm, thuật ngữ của giáo
dục học. Nó hiện thực hóa mục tiêu, nhiệm vụ do giáo dục học đề ra (phát triển
trí tuệ, hình thành thể giới quan khoa học, phát triển duy sáng tạo cho học sinh,
giáo dục t tởng đạo đức, phát triển óc thẩm mỹ, giáo dục tổng hợp và giáo dục
lao động). Trong phơng pháp dạy học tiếng Việt có thể tìm thấy các nguyên tắc
cơ bản của lý luận dạy học (nguyên tắc giáo dục và phát triển của dạy học,
nguyên tắc vừa sức, nguyên tắc khoa học, nguyên tắc hệ thống, nguyên tắc gắn
liền lý thuyết với thực hành, nguyên tắc trực quan, nguyên tắc tích cực hoá quá
trình nhận thức của học sinh, nguyên tắc tiếp cận cụ thể và phân hoá trong quá
8
trình dạy học ). Phơng pháp dạy học tiếng Việt vận dụng nguyên tắc này theo
đặc trng riêng của mình.
Chơng II. Cơ sở thực tiễn của đề tài
1. Tính chất của tập làm văn
- Tập làm văn nối tiếp một cách tự nhiên các bài học khác nhau trong môn
tiếng Việt nh tập đọc, chính tả, từ và câu nhằm giúp học sinh có một năng lực
mới: năng lực sản sinh ngôn bản (bằng hình thức nói hoặc viết). Nhờ năng lực
này. học sinh biết cách sử dụng tiếng Việt văn hoá làm công cụ t duy, giao tiếp
học tập.
- Tập làm văn có tính chất thực hành toàn diện, tổng hợp và sáng tạo. Tập
làm văn mang tính chất thực hành vi nhiệm vụ chủ yếu của nó là hình thành cho

học sinh kỹ năng nói và viết văn bản. Mang tính toàn diện, tổng hợp vì tập làm
văn đợc xây dựng trên thành tựu của nhiều môn khoa học, trong đó nổi bật là lý
thuyết hoạt động lời nói, các hiểu biết về ngôn ngữ pháp văn bản, logic hoặc !ý
luận văn học , vì tập làm văn đòi hỏi học sinh huy động vốn kiến thức nhiều
mặt từ các hiểu biết về cuộc sống đến tri thức về văn học, khoa học thờng thức ,
vì tập làm văn đòi hỏi học sinh không chỉ vận dụng các hiểu biết lý luận mà còn
cả cảm xúc. tình cảm khi làm bài; Vì tập làm văn sử dụng nhiều loại kỹ năng
từ kỹ năng dùng từ đặt câu đến kỹ năng dựng đoạn. Các kỹ năng này là do nhiều
phân môn của môn tiếng Việt rèn luyện.
- Bài tập làm văn còn là sản phẩm không lặp lại của mỗi học sinh trớc
những đề tài cụ thể. Điều đó giải thích cho tính sáng tạo của tập làm văn.
- Tập làm văn giúp cho học sinh sau quá trình luyện tập lâu dài và có ý
thức, học sinh dần dần nắm đợc cách viết và cách nói các bài văn theo nhiều
phong cách khác nhau.
- Tập làm văn góp phần bổ sung kiến thức, rèn luyện t duy và hình thành
nhân cách cho học sinh.
Ví dụ: Để làm đợc đề bài của tuần 12: "Nói, viết về cảnh đẹp đất nớc,
(dựa vào tranh, ảnh), kiến thức của các em đợc mở rộng. Do diễn đạt các ý
thành đoạn, trình độ t duy và ngôn ngữ của các em đợc nâng lên. Bên cạnh đó
qua việc quan sát tranh ảnh, qua việc quan sát để miêu tả tình cảm gắn bó yêu
mến thiên nhiên đợc nảy nở. Nói cách khác, con ngời, nhân cách các em phát
triển qua việc học tập làm văn.
9
2. Những yêu cầu cơ bản của việc dạy tập làm văn lớp 3:
Rèn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Trang bị cho học sinh một số hiểu biết
và kỹ năng phục vụ học tập và đời sống hàng ngày. Điền vào giấy tờ in sẵn, viết
th, làm đơn, tổ chức họp và phát biểu trong cuộc họp, giới thiệu hoạt động của
tổ, lớp) trờng, ghi chép sổ tay
- Tiếp tục rèn kỹ năng kể chuyện và miêu tả: kể sự việc đơn giản, tả sơ lợc
về ngời, vật xung quanh theo gợi ý bằng tranh, bằng câu hỏi.

- Rèn luyện kỹ năng nghe thông qua các bài tập nghe- kể và các hoạt động
học tập trên lớp.
3. Về chơng trình tập làm văn lớp 3:
Mỗi tuần có 1 tiết, mỗi tiết 40 phút. Chơng trình đợc phân phối trong 35
tuần. Ngoài ra học sinh còn đợc rèn luyện kỹ năng nói qua các tiết kể chuyện,
tập đọc.
- Về tập làm văn nói: học sinh đợc học, đợc luyện tập cả độc thoại và hội
thoại (kể một câu chuyện ngắn đã nghe, tổ chức các cuộc họp ). Để phù hợp với
đặc điểm tâm lý và trình độ nhận thức của học sinh chơng trình hớng chủ yếu
vào các cuộc thoại đơn giản và có tính chất nghi thức. Đề tài các cuộc hội thoại
đợc lựa chọn trong cuộc sống nhà trờng, cuộc sống gia đình, cuộc sống xã hội
trong phạm vi hẹp (cộng đồng dân ở làng xã, phờng xóm ).
- Về tập làm văn viết: học sinh bớc đầu đợc làm quen với dạng sản sinh
văn bản ngắn (viết đoạn văn), bớc đầu nắm đợc cấu trúc một đoạn văn, cách diễn
đạt mối quan hệ giữa các ý trong đoạn. Ngoài ra các em còn đợc làm quen với
một số văn bản hành chính đơn giản (tập điền vào các văn bàn cho sẵn).
4. Tìm hiểu nội dung phân môn tập làm văn trong sách giáo khoa tiếng
Việt lớp 3
Qua quá trình tìm hiểu sách giáo khoa tiếng Việt lớp 3, tôi nhận thấy rằng
các đề tập làm văn không chia thành dạng, kiểu bài nh chơng trình cũ mà nó đợc
phân phối theo chủ đề. 35 tuần học trừ 4 tuần ôn tập giữa học kỳ và cuối học kỳ,
các tuần còn lại đợc phân phối 2 tuần một chủ đề, riêng chủ đề ngôi nhà chung"
ở học kỳ 2 đợc học trong 3 tuần. Các chủ đề này đều rất gần gũi với học sinh nh:
gia đình, môi trờng, cộng đồng, trờng học Trong mỗi chủ đề, các nội dung của
tiết tập làm văn đợc xây dựng gắn chặt với tên chủ đề và có sự hỗ trợ đắc lực của
các phân môn khác nh tập đọc, từ và câu kể chuyện có thể liệt kê một số dạng
bài tập làm văn ở lớp 3 nh sau:
- Nói theo chủ đề.
- Nghe kể câu chuyện.
- Điền vào các văn bản in sẵn.

- Viết đoạn văn theo chủ đề.
10
- Kể lại một sự kiện đã đợc chứng kiến.
- Ghi chép sổ tay .
Trong đó thề loại nói theo chủ đề chiếm tỉ lệ cao (10/35 tuần). Nh vậy có
thể thấy chơng trình tập làm văn lớp 3 giúp học sinh rèn luyện kỹ năng nói, giao
tiếp là chủ yếu. Sau đó các em sẽ tập diễn đạt những điều đã đợc trao đổi với bạn
dới dạng văn bản viết (đoạn văn). Đây là một cấu trúc chơng trình hợp lý, chặt
chẽ, phù hợp với lứa tuổi, vì ở lứa tuổi này các em đang tích luỹ vốn từ bằng hình
thức nghe- nói là chủ yếu.
5. Mối quan hệ giũa tập làm văn, tập đọc, kể chuyện
a. Về phơng diện ngôn ngữ:
Khi sử dụng tiếng Việt, học sinh cần đợc luyện tập thành thạo trên 2 ph-
ơng diện: hiểu, tiếp nhận đúng, đủ thông tin và diễn đạt chính xác và đầy đủ
những gì cần nói ra viết ra.
- Muốn giao tiếp có hiệu quả, ngời nghe hoặc đọc phải hiểu đúng và đủ
nội dung, ý nghĩa thông tin của các ngôn bản nghe và đọc. ở tiểu học, khi học
các phân môn tập đọc, kể chuyện, lúc nghe cô giảng bài khi nghe kể chuyện, đọc
truyện học sinh đợc rèn luyện đễ lĩnh hội ngôn bản thông qua nghe hiểu và đọc
hiểu nội dung.
- Khi tham gia giao tiếp, mỗi ngời có nhu cầu diễn đạt ý nghĩ, nội dung
cần trao đổi. Nói hoặc viết không đầy đủ, chính xác các nội dung cần thiết,
nguời nghe hoặc đọc sẽ không hiểu đúng và đủ các thông tin cần trao đổi.
Trong môn tiếng Việt khi trả lời câu hỏi trong bài học, tập đọc, khi tập kể
chuyện, đặc biệt là khi học tập làm văn, học sinh đợc luyện tập đễ có thể sản
sinh ngôn bản có hiệu quả trong giao tiếp. Giữa lĩnh hội ngôn bản và sản sinh
ngôn bản có mối quan hệ khăng khít.

Các kết luận rút ra:
- Quan hệ giữa tập làm văn, tập đọc, kể chuyện là mối quan hệ giữa các

kỹ năng sử dụng tiếng Việt.
- Tập đọc, kể chuyện có nhiệm vụ chủ yếu là rèn luyện kỹ năng, kỹ năng
đọc và đọc hiểu, nghe và nghe hiểu các ngôn bản nh bài tập đọc, câu chuyện kể.
Bên cạnh đó, các phân môn này cũng góp phần rèn luyện kỹ năng sản sinh ngôn
bản qua việc trả lời câu hỏi hoặc tập kể lại câu chuyện.
- Tập làm văn có nhiệm vụ chủ yếu là rèn luyện kỹ năng sản sinh ngôn
bản nói và viết. Không học tốt tập làm văn, kỹ năng nói và viết ngôn bản của học
sinh sẽ bị hạn chế.
Ngoài mối quan hệ trên, tập đọc, kể chuyện còn là kho tàng quý, cung cắp
cho học sinh vốn từ phong phú, đa dạng các ví dụ điển hình về nghệ thuật dùng
từ đặt câu, viết đoạn để các em vận dụng vào bài tập làm văn. Khi đọc các bài
11
văn. các bài thơ miêu tả hay nh: Nhớ lại buổi đầu đi học", "Những chiếc
chuông reo", Anh đom đóm", "Âm thanh thành phô", "Hội đua voi ở Tây
Nguyên các bài kể chuyện sinh động gợi cảm nh Chiếc áo len, Ngời mẹ,
"Ngời lính dũng cảm" , các em sẽ học đợc cách dùng tính từ, động từ; học đợc
cách dùng phép so sánh nhận hoá để chắp thêm cánh cho trí tởng tợng, liên t-
ởng khi làm văn. Do đó tập làm văn đợc thừa hởng và cần phải tận dụng vốn từ
vựng nghệ thuật dùng từ, đặt câu mà học sinh thu nhận đợc từ các bài tập đọc,
kể chuyện.
b. Về phơng diện nhận thức, tình cảm:
Các bài tập đọc, kể chuyện do đặc điểm đa dạng về thể loại, về đề tài nên
có khả năng cung cấp thêm cho học sinh những vốn sống, bồi dỡng cảm xúc
lành mạnh, trong sáng. Chẳng hạn các bài tập đọc "Nắng phơng Nam", "Ngời
con của Tây Nguyên", "Ông tổ nghề thêu', "Sự tích lễ hội Chử Đồng Tử" đã mở
ra trớc mặt học sinh cuộc sống muôn màu muôn vẻ về phong tục tập quán, phong
cảnh trên đất nớc ta và nhiều nớc trên thế giới. Những tình cảm nhân hậu, yêu
thơng con ngời, chan hoà cùng cỏ cây, muôn loài những tình cảm giàu chất
nhân văn từ các bài tập đọc, các câu chuyện về danh nhân văn hoá, khoa học
nh dòng suối mát lành làm tâm hồn các em thêm phong phú, cao đẹp. Chính

những tình cảm cao đẹp đó kết hợp với vốn sống trực tiếp giúp các em có thêm
hiểu biết và cảm xúc để làm bài tập làm văn miêu tả, kể chuyện
Cấu trúc chơng trình sách giáo khoa tiếng Việt lớp 3 chơng trình mới còn
có đặc điểm u việt hơn chơng trình cũ ở chỗ 1 tuần có 3 tiết tập đọc trong đó có
1 bài tập đọc gắn với nội dung của tiết kể chuyện. Nh vậy có thuận lợi là các em
vừa đợc tìm hiểu ngữ liệu để đọc hay, để cảm thụ, đồng thời qua nội dung cảm
thụ đợc sẽ tập diễn đạt lại câu chuyện bằng ngôn ngữ của mình. Mối quan hệ
này có thể nhận thấy rất rõ trong cấu trúc chơng trình sách giáo khoa:
6. Quan hệ giữa tập làm văn với luyện từ và câu:
Chơng trình luyện từ câu và câu ở lớp 3 có những nội dung chủ yếu là hệ
thống hoá, tích cực hoá và mở rộng vốn từ cho học sinh qua các bài tập theo chủ
điểm. Vốn từ và chủ đề Thiếu nhi, Gia đình, Trờng học, Cộng đồng,
Quê hơng đợc nhắc lại, giải nghĩa, đợc đa vào các tình huống cụ thể để các
em tập sử dụng. Nhờ thế vốn từ của các em tăng lên và cùng với nó, cách nghĩ
theo hệ thống, theo sự phân hoá lạihình thành giúp các em có thêm công vụ về
t duy để khám phá những giá trị mới mẻ của vốn từ tiếng Việt, tự nhân vốn từ
của mình lên thông qua hoạt động giao tiếp và vận dụng vào bài tập làm văn.
Chơng trình luyện từ và câu là những kiến thức sơ giản về cách sử dụng
dấu câu danh từ chỉ hoạt động, chỉ đặc điềm, các biện pháp nghệ thuật so sánh,
nhân hoá Những kiến thức này giúp cho học sinh không chỉ dùng tiếng Việt
dựa trên cảm quan của ngời bản ngữ mà dần có ý thức, có cơ sở lý thuyết. Điều
12
ấy có ích nhiều cho việc học và làm bài tập làm văn. Mặt khác, sự làm quen bớc
đầu với các biện pháp nghệ thuật so sánh nhân hoá giúp các em viết đợc những
câu văn sinh động hơn.
Phân tích trên ta thấy tập làm văn đã nhận và sử dụng kết quả học tập của
phân môn luyện từ và câu. Đối với phân môn này. tập làm văn là nơi để học sinh
luyện tập các kỹ năng và vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn.
Tóm lại, tập làm văn có tính chất tổng hợp , có quan hệ chặt chẽ với việc
học tập đọc, kể chuyện. từ và câu. Đây là nơi tiếp nhận và cũng là nơi luyện tập

càng ngày càng nhuần nhuyễn các kỹ năng và kiến thức của các phân môn trên.
Bài tập làm văn (nói. viết) trở thành sản phẩm tổng hợp, là nơi trình bày kết quả
đích thực nhất của việc học Tiếng Việt.
7. Đặc điểm của nội dung chơng trình tập làm văn lớp 3:
- Môn Tiếng Việt ở lớp 3 có 9 tiết/tuần riêng phân môn lập làm văn chiếm
1tiết/tuằn.
- Chơng trình sách giáo khoa Tiếng Việt mới có u điểm hơn hẳn chơng
trình sách giáo khoa cũ là kiến thức đợc xây dựng một cách hệ thống, khoa học
và có cấu trúc rất chặt chẽ. Nội dung mỗi tiết tập làm văn có quan hệ mật thiết
với nội dung các bài tập đọc các em đợc học trong tuần. Và theo thời khoá biểu,
tiết tập làm văn đợc xếp vào ngày thứ 6, sau khi các em đã đợc học xong các bài
tập đọc, kể chuyện, luyện từ và câu là những phân môn hỗ trợ chặt chẽ cho tập
làm văn.
Ví dụ: Tuần 3 với chủ đề "Mái ấm", các em đợc học các bài tập đọc kể
chuyện về tình cảm gia đình, nội dung của tiết tập làm văn là kể về gia đình em
với một bạn em mới quen.
- Cấu trúc nội dung môn tập làm văn không chia theo dạng bài mà chia
theo chủ đề. ở mỗi chủ đề học sinh đợc luyện những kỹ năng nói, viết, hội thoại
giao tiếp nhng chủ yếu là hình thành và phát triển kỹ năng giao tiếp. Với cấu trúc
nội dung nh vậy đã tạo điều kiện thuận lợi cho cả ngời dạy lẫn ngời học vì với
mỗi chủ đề giáo viên có điều kiện giúp học sinh đào sâu kiến thức, phát triển kỹ
năng, còn học sinh thì có cơ hội luyện tập tất cả các tinh huống giao tiếp (kể cả
nói và viết) với từng chủ đề mà các em thờng gặp trong cuộc sống sinh hoạt hàng
ngày.
- Chơng trình tập làm văn lớp 3 ngoài đờng hớng chung là tiếp tục phát
triển kỹ năng giao tiếp, còn tăng cờng rèn luyện kỹ năng nói thông qua hình thức
nghe- kể (trung bình 3 tuần/1ần nghe và kể lại 1 mẫu chuyện- chủ yếu là chuyện
vui) và tăng cờng các hoạt động sinh hoạt tập thể nh họp nhóm, tổ .
13
8. Các kiếu bài tập làm văn ở lớp 3

a. Bài tập nghe:
Nghe và kể lại một mẩu chuyện ngắn, nghe và nói lại một mẩu tin.
b. Bài tập nói:
- Tổ chức, điều khiển cuộc họp, phát biểu trong cuộc họp.
- Kể hoặc tả miệng về ngời thân, gia đình, trờng lớp, quê hơng, lễ hội, hoạt
động thể thao, văn nghệ.
c. Bài tập viết :
Điền vào giấy tờ in sẵn
- Viết một số giấy tờ theo mẫu
- Viết th.
- Ghi chép sổ tay
- Kể hoặc tả ngắn về ngời thân, gia đình. trờng lớp, quê hơng, lễ hội, hoạt
động thể thao, văn nghệ.
9. Các biện pháp dạy học chủ yếu
a. Hớng dẫn học sinh làm bài tập
- Giúp học sinh nắm vững yêu cầu của bài tập (bằng câu hỏi, bằng lời giải
thích).
- Giúp học sinh chữa một phần của bài tập làm mẫu (một học sinh chữa
mẫu trên bảng mẫu hoặc cả lớp làm bài vào vở).
- Tổ chức cho học sinh trao đồi, nhận xét về kết quả rút ra những điềm cần
ghi nhớ về tri thức.
b. Đánh giá.kết quả thực hành, luyện tập ở lớp, hớng dẫn hoạt động tiếp
nối (ở ngoài lớp, sau tiết học).
- Hớng dẫn học sinh nhận xét kết quả học tập của bạn, tự đánh giá kết quả
của bản thân trong quá trình luyện tập.
- Nêu yêu cầu, hớng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động tiếp nối nhằm
củng cố kết quả thực hành luyện tập ở lớp (thực hành giao tiếp ngoài lớp học, sử
dụng kỹ năng đã học vào thực tế cuộc sống )
10. Một số thuận lợi và khó khăn khi dạy chơng trình tập
làm văn lớp 3 .

a. Thuận lợi:
- Cấu trúc nội dung chơng trình Tiếng Việt lớp 3 nói chung và phân môn
tập làm văn nói riêng rất rõ ràng, chặt chẽ. Đặc biệt là phân môn tập làm văn có
đợc sự hỗ trợ đắc lực của các phân môn khác. Mặt khác. nội dung chơng trình
đều gồm các chủ đề gần gũi với hoạt động hàng ngày của học sinh, tạo điều kiện
thuận lợi cho cả ngời dạy và ngời học, chơng trình còn lồng ghép cả những chủ
14
đề mang tính thời sự, tính giáo dục rất cao nh chủ đề: Cộng đồng, ngôi nhà
chung là điều kiện thuận lợi cho giáo viên tích luỹ, tìm tòi tài liệu giảng dạy.
- Đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi học sinh lớp 3 là lứa tuổi đang trong
giai đoạn tích luỹ, phát triển vốn từ, các em còn đang nh tờ giấy trắng", dễ rung
động trớc những cái hay cái đẹp có khả năng tiếp nhận và nhớ rất lâu những từ
ngữ mới. Do đó đây chính là giai đoạn cơ sở quan trọng tạo tiền đề cho các em
học tốt môn tập làm văn ở các lớp trên.
- Chơng trình tập trung vào rèn kỹ năng giao tiếp là kỹ năng mà trẻ tiểu
học nói chung và trẻ lớp 3 nói riêng đều rất thích vì nó giúp các em tự khẳng
định mình, khẳng cạnh cái 'tôi" thông qua hoạt động giao tiếp, qua đó các em
thấy mình tự tin, trởng thành hơn và trở thành ngời lớn". Chính vì vậy nội dung
giao tiếp này đợc các em đón nhận, tìm hiểu với sự hồ hởi, say mê, tạo điều kiện
đế giáo viên dạy tốt.
b. Khó khăn:
Chơng trình Tiếng Việt yêu cầu dạy theo hớng giao tiếp rèn kỹ năng sản
sinh ngôn bản nói cho học sinh là chủ yếu. Yêu cầu này đặt ra cho giáo viên một
số khó khăn cần giải quyết vì:
- Dạy tập làm văn nói là khâu yếu nhất hiện nay, rất nhiều giáo viên có xu
hớng ngại dạy vì nó đòi hỏi sự đầu t về thời gian, công sức rất nhiều.
- Dạy tập làm văn nói, dạy tập làm văn giao. tiếp là dạng thể hiện rõ nhất
phơng hớng giao tiếp. Nhng đây lại là dạng làm văn chúng ta ít có kinh nghiệm,
cha định hình đợc phơng pháp và trình tự tiến hành loại tiết học này. Do đó còn
có giáo viên lúng túng dẫn đến hiệu quả giờ dạy cha cao, cha đạt đợc yêu cầu mà

chơng trình đề ra.
Chơng III. Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng
nói trong phân môn tập làm văn cho học sinh lớp 3
1. Một số nguyên tắc dạy tập làm văn cho học sinh lớp 3
Qua thực tế và yêu cầu của phân môn, theo tôi môn tập làm văn đặt ra cho
giáo viên một số nguyên tắc:
Dạy tập làm văn nói và dạy tập làm văn viết, trong giao tiếp và để giao tiếp
là phơng hớng hiện đại mà nhiều nớc đang phấn đấu thực hiện. Việc giảng dạy
của giáo viên phải dựa trên việc thực hành ngôn ngữ trong lớp, học sinh phải
luôn luôn đợc đặt vào tình huống giao tiếp. Theo hớng này việc dạy tập làm văn
cũng phải lấy giao tiếp làm môi trờng và phơng pháp, lấy việc phục vụ giao tiếp
làm nhiệm vụ và mục đích.
- Trong giao tiếp diễn ra hiện tợng trao đổi ngôn bản. Sự trao đổi này gồm
2 loại hành động luôn gắn bó với nhau: Hành động sản sinh ngôn bản (nói hoặc
viết ra các nội dung cần giao tiếp) và hành động lĩnh hội ngôn bản (hiểu ngôn
bản đọc đợc nghe đợc). Do đó giáo viên cần song song dạy học sinh ngôn bản và
15
lĩnh hội ngôn bản, tức là phải rèn cả 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết với mức độ
nh nhau.
- Cần coi học sinh là chủ thề luyện tập, các em phải đợc suy nghĩ, đợc nói
lên những suy nghĩ đó, đợc luyện tập ở những tình huống khác nhau.
- Cần chủ ý dạy sát đối tợng, sát trình độ, nên gợi mở để học sinh nắm đợc
phơng pháp, con đờng để tự mình đi đến kết quả.
2. Một số kinh nghiệm dạy tập làm văn theo hớng giao tiếp
Qua một số tiết dạy thử nghiệm của cá nhân, của đồng nghiệp, tôi rút ra
một số kinh nghiệm đầu tiên khi dạy tập làm văn cho học sinh lớp 3.
- Cần làm cho học sinh hiểu rõ nội dung, ý nghĩa của đề bài, của tình
huống giao tiếp thông qua khâu phân tích yêu cầu. Khâu này làm càng chặt chẽ
thì hiệu quả làm bài của học sinh càng cao.
- Đối với học sinh tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp 3 nên thực hiện việc

này qua thao tác phân tích mối quan hệ giữa các nhân tố giao tiếp nêu trong đề
bài.
- Kịch bản cho các lần chơi hoặc các lần diễn nên hoàn thiện dần qua thực
tiễn: Nói cách khác, dới sự hớng dẫn của giáo viên, học sinh sẽ hoàn thiện dần
kịch bản và thực hiện. Từ lần chơi (hoặc lần diễn) thứ nhất, giáo viên không cần
thiết đa ra chỉ dẫn về nghi thức lời nói, nội dung giao tiếp cần thực hiện. Hãy để
cho học sinh tự tìm trong vốn hiểu biết của mình cách ứng xử bằng lời nói trong
các tình huống các em sẽ gặp. Lần diễn này cho ta đánh giá đúng trình độ giao
tiếp của học sinh khi mới bớc vào chủ đề giao tiếp. Từ đây qua các lần chơi sau,
học sinh sẽ đợc rèn luyện và nâng cao các kỹ năng giao tiếp bằng lời nói (kỹ
năng sử dụng các nghi thức lời nói, kỹ năng ứng xử bằng lời nói )
Ví dụ: Khi dạy bài tập làm văn tuần 14 Đề bài: Hãy giới thiệu về tổ em và
hoạt động của tổ em trong tháng qua với một đoàn khách đến thăm lớp
a. Hớng dẫn tìm hiểu tình huống giao tiếp:
- Mục đích của cuộc giao tiếp? Ai gặp ai? Quan hệ giữa các nhân vật?
- Cuộc gặp diễn ra ở đâu ?
- Cuộc gặp gỡ nói tới vấn đề gì?
- Nội dung em định giới thiệu về tổ? (gồm những ai, mỗi bạn có những
điểm gì hay? Tháng vừa qua bạn đã làm đợc những việc gì tốt?)
- Thái độ và tình cảm khi nhân vật nói chuyện với nhau?
b. Phơng pháp tiến hành tiết học: Chơi đóng vai.
c. Tiến hành chơi đóng vai.
- Giáo viên chỉ định từng nhóm học sinh đóng vai diễn theo đúng yêu cầu
để bài.
- Mỗi nhóm bàn bạc cách sắm vai và cách diễn đạt trong 5 phút.
- Sau mỗi lần chơi lại rút kinh nghiệm đề hoàn chỉnh "kịch bản"
16
giúp nhóm sau luyện tập có hiệu quả hơn.
+ Từng bạn đã đóng đúng vai cha? Các câu hỏi chuyện trò đã đúng nghi
thức cha?

+ Cuộc gặp gỡ có đạt mục đích không?
+ Cách dùng từ ngữ, đặt câu, cách dùng ngữ điệu các hành động phi ngôn
ngữ (ánh mắt, nụ cời ) có gì cần sửa để đạt mục đích cao hơn? có chỗ nào có
thể học tập đợc?
Chú ý: Kết thúc mỗi lần chơi, giáo viên cho học sinh rút kinh nghiệm theo
các gợi ý trên. Trớc khi vào lằn chơi mới giáo viên cần nhắc lại những u điểm
cần phát huy, các nhợc điểm cần khắc phục của lần chơi trớc.
d. Biến đổi tình huống trò chơi.
Đoàn khách đến thăm lớp, trong đoàn có thầy (cô) hiệu trởng đi cùng. Cô
hiệu trởng giới thiệu với khách đây là một tập thể lớp có nhiều thành tích và yêu
cầu lớp trởng báo cáo rõ hơn hoạt động của lớp em trong thời gian qua. Hãy giới
thiệu với đoàn khách về hoạt động của lớp em.
Đề bài có điều chỉnh để tạo tình huống mới. Cách tiến hành trò chơi nh đã
trình bày ở trên. Chỉ nên thực hiện trò chơi này một lần để rút kinh nghiệm và
chuẩn bị cho tiết học sau.
e. Giáo viên kết luận tiết học.
Nhấn mạnh các nghi thức chào hỏi khi khách đến thăm lớp, các lời nói
cần thực hiện khi báo cáo hoạt động của tổ.
Vai trò tổ chức và hớng dẫn của giáo viên trong các tiết tập làm văn rất rõ.
Trình độ giao tiếp của học sinh sau mỗi tiết học tiến bộ nh thế nào phụ thuộc vào
trình độ giao tiếp của giáo viên. Điều đó đòi hỏi công phu tự tu dỡng, rèn luyện
bản thân của từng giáo viên đối với việc sử dụng tiếng Việt văn hoá và chuẩn
mực. Chỉ có nh vậy ngời giáo viên mới hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Đối với đề bài yêu cầu học sinh sản sinh ngôn bản viết, nên gợi mở để các
em đa ra những ý phục vụ yêu cầu của đề bài. Nên phối hợp với cách diễn đạt
bằng so sánh. nhân hoá (do phân môn từ và câu cung cấp) để câu văn đợc sinh
động, giàu hình ảnh. Sau đó mới hớng đễ cho học sinh sắp xếp các ý tìm đợc
thành đoạn văn hoàn chỉnh. Ngời giáo viên cần lu ý cũng là một sự vật, hiện tợng
có rất nhiều cách nhìn nhận, tởng tợng, so sánh khác nhau nên giáo viên cần gợi
mở để các em phát huy tối đa tính sáng tạo, óc tởng tợng phong phú của mình,

tránh gò ép theo một mẫu cho trớc. Chỉ sửa cho học sinh khi thấy thật cần thiết.
khi các em nói sai ngữ pháp, dùng từ cha chính xác, còn ý tởng thì để các em
phát hiện, nói ra, chỉ nên gợi ý làm sao để ý tởng đó đợc diễn đạt một cách sinh
động nhất.
Thờng xuyên bồi dỡng vun đắp tình yêu đối với thơ văn, bồi dỡng khả
năng cảm thụ cái hay, cái đẹp thông qua các tác phẩm nghệ thuật đợc trích học
17
trong sách giáo khoa Tiếng Việt. Có thể phối hợp với phụ huynh cùng học sinh
xây dựng tại các lớp bán trú."Tủ sách đọc chung, su tầm các tác phẩm văn học
dành cho thiếu nhi có giá trị nghệ thuật để các em cùng đọc, cùng cảm nhận đợc
cái hay, cái đẹp của các tác phẩm nghệ thuật đó.
3. Một số phơng pháp dạy tập làm văn lớp 3 sách Tiếng việt mới
a. Phơng pháp đàm thoại.
Phơng pháp này phù hợp với tâm lý trẻ nhỏ, các em thích hoạt động (hoạt
động lời nói). Giáo viên đa ra một hệ thống câu hỏi tìm hiểu đề bài, tình huống
giao tiếp. Muốn làm văn hay, xử lý tốt các tình huống giao tiếp trớc hết các em
phái hiểu đúng yêu cầu của đề bài. Vì vậy giáo viên cần hớng dẫn các em bằng
những câu hỏi đàm thoại dễ hiểu
Phơng pháp đàm thoại không chỉ sử dụng giữa giáo viên với học sinh mà
còn đợc sử dụng giữa học sinh với học sinh.
Các em có thể trao đổi, thảo luận theo nhóm để rút ra phơng án tốt nhất để
giải quyết yêu cầu của đề bài.
b. Phơng pháp trực quan
Phơng pháp này phù hợp với tâm lý lứa tuổi. Các tình huống giao tiếp
thông qua các vai mà bạn minh thể hiện, từ đó nhận xét, rút ra kết luận.
- Học sinh cũng có thể trực quan bằng cách nghe những câu văn, những
đoạn văn hay của các bạn trong nhóm, trong lớp khi tiến hành tiết tập làm văn
nói.
c. Phơng pháp luyện tập :
Là phơng pháp dùng chủ yếu trong giờ dạy tập làm văn. Dới sự chỉ đạo,

điều hành của giáo viên, học sinh sắm vai sẽ tiến hành rèn luyện kỹ năng kỹ xảo.
Các hình thức luyện tập :
- Tập nói trong nhóm học tập, nói trớc lớp: có tác dụng giúp học sinh rèn
luyện những kỹ năng giao tiếp vừa thu nhận đợc trong giờ học tập trong vở bài
tập tiếng Việt. Đây là hình thức luyện tập rất hiệu quả và phổ biến vì hệ thống
bài tập đợc xây dựng trong vở bài tập có nội dung rất sát với chơng trình sách
giáo khoa.
Là phơng pháp mà học sinh tiểu học rất thích, gây đợc hứng thú cho học
sinh, làm cho giờ học sôi nổi, sinh động. Phơng pháp này đợc sử dụng trong các
tiết tập làm văn nói. các tiết học nội dung hội họp (tổ chức họp tổ ). Khi sử
dụng phơng pháp này giáo viên cần lu ý ngoài việc xây dựng tình huống giáo
viên cần phải linh hoạt xây dựng kịch bản dựa trên chính những tình huống nảy
sinh trong giờ học. Ngoài ra khi lựa chọn học sinh sắm vai còn căn căn cứ vào cá
tính của một số học sinh để có sự phân vai phù hợp
Luyện tập ngoài giờ trên lớp: Đây là hình thức luyện tập sử dụng khi giáo
viên nêu các tình huống giao tiếp biến đổi để học sinh luyện tập thêm. Học sinh
18
có thể luyện tập ở nhà hoặc tự ứng dụng trực tiếp vào những tình huống tơng tự
mà các em gặp trong đời sống hàng ngày.
4. Một số biện pháp góp phần gây hứng thú luyện nói cho học sinh
trong giờ tập làm văn ở lớp 3
Nh ta đã biết, để giao tiếp đợc trọn vẹn, về mặt nguyên tắc, con ngời cần
năm đợc một loạt những kỹ năng ngời giáo viên muốn tạo đợc nhu cầu giao tiếp,
tình huống nói năng cần tạo cho học sinh biết định hớng nhanh chóng và đúng
đắn trong điều kiện giao tiếp; biết lập chơng trình lời nói của mình, lựa chọn nội
dung giao tiếp đúng đắn, tìm đợc những phơng tiện hợp lý để truyền đạt nội
dung đó.
a. Bớc 1 : Dạy học sinh định hớng bài nói
Có thể sử dụng phơng pháp đàm thoại gợi mở để học sinh định hớng đợc
yêu cầu của đề bài.

Ví dụ đề bài: Giới thiệu hoạt động của tổ trong tháng vừa qua
Học sinh phải nắm đợc yêu cầu của đề bài là thể hiện báo cáo với khách
tới thăm lớp hoạt dộng của tổ trong tháng vừa qua.
Sau khi xác định đợc nội dung, cần để học sinh tự thảo luận và rút ra nội
dung cần nói.
b. Bớc 2: Lập chơng trình nội dung biểu đạt
Qua bớc này, học sinh cần biết các kỹ năng tìm ý, tìm từ, chọn từ cho lời
nói. Qua việc giảng dạy thực tế, tôi thấy để làm tốt bớc này, một biện pháp rất có
kết quả đó là sử dụng hệ thống câu hỏi gợi ý hoặc phiếu học tập để tạo tình
huống giúp cho học sinh thảo luận tìm ra nội dung.
VD: đề bài: Giới thiệu hoạt động của tổ.
Nội dung phiếu học tập
Câu 1: Đánh dấu X vào ô trống xác định thứ tự nội dung báo cáo mà em
cho là đúng
Tên từng bạn trong tổ có đặc điểm nổi bật
Thành tích đạt đợc của từng bạn
Số lợng các bạn có trong tổ em
Câu 2: Ghi lại nội dung tơng phần của báo cáo
c. Hiện thực hoá bằng việc nói miệng
Tiết tập làm văn miệng cần rèn cho học sinh kỹ năng diễn đạt lời nói
thông qua khẩu ngữ và những yếu tố phi ngôn ngữ (cử chỉ điệu bộ, ánh mắt, nụ
cời ) sao cho hợp với yêu cầu diễn đạt.
Muốn làm tốt bớc này giáo viên cần sáng tạo tổ chức giờ học sao cho tự
nhiên, gây hứng thú, tạo cho học sinh thấy có nhu cầu nói, nhu cầu giao tiếp chứ
không phải chỉ đơn thuần là trả lời câu hỏi trong sách, kiểu học tập một cách g-
19
ợng ép, thiếu tự nhiên. Để giờ học đợc tổ chức một cách linh hoạt, kích thích
nhu cầu nói của học sinh, tôi đã chú ý mấy điểm sau:
- Giáo viên cần chuẩn bị cho mình lời mở đầu sao cho có sự thu hút ngời
nghe hoặc gây tác động kích thích không khí lớp học sôi nổi. Tôi thờng gọi

những em có khả năng nói tốt để mở đầu, tránh gọi những em nhút nhát, khả
năng nói còn yếu
- Giáo viên cần tạo không khí sôi nổi nhng hết sức tôn trọng học sinh để
kích thích các em nói vì nếu ngời nói mà không có ngời nghe thì học sinh sẽ
không còn hứng thú trình bày nội dung của mình một cách say mê mà chỉ còn lại
sự làm khoán", làm bắt buộc"
- Giáo viên cằn hớng dẫn học sinh trình bày nội dung của mình có sự phụ
trợ của các yếu tố phi ngôn ngữ nh điệu bộ, cử chỉ làm hấp dẫn ngời nghe và
có tác dụng nêu bật nội dung định nói hớng dẫn học sinh sử dụng lời nói của
mình thành câu ngắn gọn, thể hiện ngữ điệu tự nhiên đời thờng khi gặp các câu
hỏi, câu cảm; biết cách sử dụng các lời nói "chêm xen", các từ thông dụng, thành
ngữ, tục ngữ. Cần quan tâm hớng dẫn học sinh nói sao cho đúng phong cách và
giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, tránh sử dụng những từ lai căng, xuyên tạc.
Muốn cho bài nói có sức hấp dẫn, cần nắm đợc nghệ thuật nói: Nói đúng
yêu cầu của ngời nghe, có sự tập trung ý chí và t tởng cao độ, có sự hiểu biết đề
tài một cách hệ thống, biết cách điều khiển giọng nói (ngữ điệu, âm sắc cao độ,
cờng độ, trờng độ )
Theo sự tìm tòi của bản thân, khi tổ chức giờ văn nói trên lớp tôi luôn chú
ý tạo nhu cầu giao tiếp, tạo hứng thú nói cho học sinh. Các em sẽ thấy giờ học
thật vui, nhẹ nhàng, mỗi em đều đợc bộc lộ vốn sống, vốn từ ngữ của mình, đặc
biệt thể hiện nội dung rất tự nhiên. Đây cũng là điều tôi thấy rất thành công bởi
vì khả năng diễn đạt văn bản nói của học sinh đã đỡ gợng gạo, máy móc, trở nên
hồn nhiên hơn. Nhiều đề văn tôi đã sử dụng phơng pháp sắm vai thay cho những
câu hỏi khô khan (ví dụ nh đề bài: "Báo cáo hoạt động của tổ" ) giúp các em
diễn đạt lời nói luôn kết hợp với cử chỉ điệu bộ. Qua đó, hiệu quả giờ dạy đợc
tăng lên, giáo viên cũng cảm thấy tiết học thực sự nhẹ nhàng và hứng thú khi dạy
phân môn tập làm văn lớp 3.
20
Chơng IV. Dạy thực nghiệm
I. Mục đích thực nghiệm

Bớc đầu vận dụng kết quả nghiên cứu vào việc Rèn luyện kỹ năng nói
trong phân môn Tập làm văn cho học sinh lớp 3 để kiểm tra quá trình học tập
nghiên cứu của mình.
II. Đối tợng và thời gian thực nghiệm
1. Đối tợng: Học sinh lớp 3A2 Trờng Tiểu học Nghĩa Đô
2.Thời gian: Học kỳ I năm học 2006 -2007.
III. Nội dung thực nghiệm.
21
Kết quả thực nghiệm
Tổng số bài
Điểm 9
10
Điểm 8 Điểm 7
Điểm 5
6
Điểm dới
5
SL % SL % SL % SL % SL %
40 9 22,5 26 65 3 7,5 2 5 0
Căn cứ vào kết quả thực nghiệm tôi nhận thấy kỹ năng nghe, nói, viết của
học sinh đã có tiến bộ rõ rệt. Tuy nhiên do chơng trình Sách giáo khoa mới đa
vào dạy chính thức từ năm học 2004 2005, thời gian thử nghiệm còn có hạn,
giáo viên và học sinh mới chỉ làm quen trong thời gian ngắn nên phần nào ảnh h-
ởng đến kết quả. Nhng qua tiết dạy minh họa, tôi nhận thấy điều đáng mừng đó
là:
- Không những học sinh nắm đợc kiến thức bài học mà tiết học trở nên sôi
nổi, các em đã tự tin khi thể hiện bài nói của mình.
- Học sinh đợc rèn luyện kỹ năng giao tiếp, nắm đợc cách giao tiếp với ng-
ời lớn tuổi, đặc biệt là các em đã không còn nhút nhát và rát a thích đợc nói trớc
đám đông.

22
Tài liệu tham khảo
1. Chơng trình tiểu học (ban hành kèm theo quyết định số 43/2001/QĐ)
Bộ giáo dục và đào tạo ngày 9/11/2001 của Bộ GD và đào tạo Nhà xuất bản
Giáo dục.
2. Hỏi đáp về đổi mới phơng pháp dạy học ở Tiểu học (Đỗ Đình Hoan-
Nhà xuất bản Giáo dục 1996).
3. Giáo trình phơng pháp dạy học Tiếng Việt I Trờng ĐHSPHN Lê
Phơng Nga - Đỗ Xuân Thảo Lê Hữu Tỉnh Nhà xuất bản Giáo dục 2000.
4. Dạy tập làm văn ở trờng Tiểu học (Nguyễn Trí NXBGD 1998)
5. Dạy và học môn tiếng Việt ở Tiểu học theo chơng trình mới (Nguyễn
Trí - NXBGD)
6. Tài liệu tập huấn cán bộ giáo viên Đổi mới chơng trình giáo dục phổ
thông Năm học 2003-2004.
7. Sách giáo khoa Tiếng Việt 3 (tập 1, 2)- Nhiều tác giả - Nhà xuất bản
Giáo dục.
8. Sách giáo viên Tiếng Việt 3 (tập 1,2) Nhiều tác giả- Nhà xuất bản
Giáo dục.
9. Vở bài tập Tiếng Việt 3 (tập 1,2) Nhiều tác giả- Nhà xuất bản Giáo
dục.
23
Kết luận
Dựa trên cơ sở khoa học lý luận và thực tiễn dạy tập làm văn cho học sinh
lớp 3 mà nội dung là Một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong phân môn tập làm
văn cho học sinh lớp 3, qua quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài, tôi nhận
thấy muốn dạy tập làm văn có kết quả tốt, mỗi giáo viên cần:
- Luôn tự trau dồi khả năng ngôn ngữ, giao tiếp, học hỏi đồng nghiệp để
nâng cao nghiệp vụ.
- Tham khảo các tài liệu về tiếng Việt (từ điển, thành ngữ tục ngữ, sách
bồi dỡng chuyên môn) để không ngừng mở rộng vốn từ, cập nhật thông tin.

- Để học sinh có đợc hứng thú khi học tập làm văn đòi hỏi ở ngời giáo
viên khả năng t duy sáng tạo, tìm tòi những hình thức, những phơng pháp dạy
học phong phú để kích thích ngời học, luôn tôn trọng ý kiến của học sinh, không
gò ép.
- Quá trình bồi dỡng tình yêu với tiếng Việt, bồi dỡng tâm hồn cảm nhận
tốt thơ văn, tạo điều kiện cho học sinh học tốt môn Tiếng Việt ở những lớp trên
là một quá trình lâu dài, đòi hỏi ở ngời giáo viên lòng yêu nghề, sự kiên nhẫn
bền bỉ.
- Vì thời gian có hạn, phần thực nghiệm đề tài thực hiện trong một thời
gian ngắn nên chắc chắn đề tài không tránh khỏi những sai sót. Rất mong đợc sự
góp ý của thầy cô và các bạn đồng nghiệp để việc dạy môn tập làm văn nói riêng
và môn tiếng Việt nói chung ở tiểu học ngày càng có hiệu quả hơn.
24
25
Trờng đại học s phạm hà nội
Khoa giáo dục tiểu học
Đề tài nghiệp vụ s phạm môn tiếng việt phơng pháp dạy
học tiếng việt
Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng nói trong phân
tập làm văn cho học sinh lớp 3
Ngời thực hiện : Hoàng Thị Tuyết Mai K8
Ngời hớng dẫn: Tiến sĩ Đặng Kim Nga
Hà Nội, năm 2007

×