Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

luận văn thạc sĩ quản trị chiến lược Phân tích năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần dược phẩm thiết bị y tế Hà Nội nhằm định hướng xây dựng chiến lược kinh doanh giai đoạn 2011-2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.64 KB, 87 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
1.2.3. Phân loại chiến lược kinh doanh 30
DANH MỤC BẢNG BIỂU
1.2.3. Phân loại chiến lược kinh doanh 30
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chính sách đổi mới mở cửa nền kinh tế, xoá bỏ cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường đã làm cho nền kinh tế Việt Nam
chuyển biến mạnh mẽ. Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá ngày càng phát
triển mạnh, sự cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt, quyết liệt thì sự đứng
vững và khẳng định vị thế của một doanh nghiệp trên thị trường là một điều
cực kỳ khó khăn. Bất cứ một doanh nghiệp nào khi tham gia vào hoạt động
sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường đều phải chịu tác động của các
quy luật kinh tế khách quan, trong đó có quy luật cạnh tranh. Theo quy luật
này, mỗi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được trên thị trường thì phải
không ngừng nỗ lực áp dụng khoa học kỹ thuật để nâng cao chất lượng, giảm
giá thành sản phẩm. Có như vậy, doanh nghiệp mới thu hút được khách hàng
đồng thời chiến thắng được các đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Vì vậy, vấn
đề nâng cao năng lực cạnh tranh bằng các chiến lược cạnh tranh của doanh
nghiệp đã trở thành một vấn đề quan trọng hàng đầu mà bất cứ doanh nghiệp
nào cũng phải quan tâm.
Theo đánh giá của WHO, năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp
Dược Việt Nam ở cấp độ 2,5-3 trong thang phân loại 1- 4. Việt Nam ra nhập
WTO đặt ra cho doanh nghiệp dược những cơ hội và thách thức. Doanh
nghiệp dược thuận tiện trong việc tiếp cận các đối tác kinh doanh để hợp tác
sản xuất, chuyển giao công nghệ. Đồng thời doanh nghiệp dược cũng cạnh
tranh với các doanh nghiệp lớn, có tiềm lực tài chính, công nghệ tốt, cạnh
tranh quyết liệt ở khu vực dịch vụ trong đó có dịch vụ phân phối. Doanh
nghiệp lớn thôn tính mua lại, chèn ép lấy mất nhân viên.
Công ty cổ phần Dược phẩm - Thiết bị y tế Hà Nội được chuyển đổi từ
Công ty nhà nước theo chủ trương cổ phần hoá của Chính phủ, cũng không


1
nằm ngoài quỹ đạo đó. Là một doanh nghiệp với chức năng phân phối là chủ
yếu, Công ty đã và đang gặp phải những thách thức to lớn trong nền kinh tế
thị trường với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt.
Với mong muốn đóng góp một phần vào xây dưng công ty ngày một
vững mạnh, chúng tôi tiến hành đề tài:
Phân tích năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần dược phẩm thiết
bị y tế Hà Nội nhằm định hướng xây dựng chiến lược kinh doanh giai
đoạn 2011-2016
Đề tài được thực hiện với 2 mục tiêu sau:
1. Phân tích một số yếu tố về năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần
dược phẩm thiết bị y tế Hà Nội
2. Đánh giá năng lực cạnh tranh và đề xuất một số chiến lược kinh
doanh của công ty CPDP TBYT Hà Nội giai đoạn 2011-2016.
2
PHẦN 1. TỔNG QUAN
1.1. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC CẠNH
TRANH
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Cạnh tranh nói chung, cạnh tranh trong kinh tế nói riêng là một khái
niệm có nhiều cách hiểu khác nhau. Khái niệm này được sử dụng cho cả
phạm vi doanh nghiệp, phạm vi ngành, phạm vi quốc gia hoặc phạm vi khu
vực liên quốc gia điều này chỉ khác nhau ở chỗ mục tiêu được đặt ra ở chỗ
quy mô doanh nghiệp hay ở quốc gia mà thôi. Trong khi đối với một doanh
nghiệp mục tiêu chủ yếu là tồn tại và tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở cạnh tranh
quốc gia hay quốc tế, thì đối với một quốc gia mục tiêu là nâng cao mức sống
và phúc lợi cho nhân dân
Theo K. Marx: “Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các
nhà tư bản nhằm dành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu
dùng hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch”. Nghiên cứu sâu về sản xuất

hàng hoá tư bản chủ nghĩa và cạnh tranh tư bản chủ nghĩa Marx đã phát hiện ra
quy luật cơ bản của cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là quy luật điều chỉnh tỷ suất lợi
nhuận bình quân, và qua đó hình thành nên hệ thống giá cả thị trường. Quy luật
này dựa trên những chênh lệch giữa giá cả chi phí sản xuất và khả năng có thể
bán hàng hoá dưới giá trị của nó nhưng vẫn thu được lợi nhuận
Theo từ điển kinh doanh (xuất bản năm 1992 ở Anh) thì cạnh tranh trong cơ
chế thị trường được định nghĩa là “Sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh
doanh nhằm giành tài nguyên sản xuất cùng một loại hàng hoá về phía mình.”
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: Cạnh tranh là hoạt động tranh đua
giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các thương gia, các nhà kinh doanh
trong nền kinh tế thị trường, bị chi phối bởi quan hệ cung cầu, nhằm giành các
3
điệu kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất. Canh tranh buộc những
người sản xuất và buôn bán phải cải tiến kĩ thuật, tổ chức quản lí để tăng năng
suất lao động, năng cao chất lượng hàng hoá, thay đổi mẫu mã, bao bì phù
hợp với thị hiếu của khách hàng; giữ tín nhiệm; cải tiến nghiệp vụ thương mại
và dịch vụ, giảm giá thành, giữ ổn định hay giảm giá bán và tăng doanh lợi.
Canh tranh đạt đỉnh cao trong sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa mà mục
đích duy. Cạnh tranh nhất là lợi nhuận và trở thành quy luật vận động của
kinh tế tư bản chủ nghĩa. Cạnh tranh trong chế độ tư hữu dẫn tới tình trạng
sản xuất với kĩ thuật hiện đại thắng thế, sản xuất với kĩ thuật lạc hậu bị loại
trừ, do vậy người sản xuất nhỏ sử dụng kĩ thuật lạc hậu bị loại trừ, do vậy
người sản xuất nhỏ sử dụng kĩ thuật lạc hậu bị phá sản hàng loạt. Cạnh tranh
đã dẫn tới độc quyền nên ở nhiều nước có luật chống độc quyền. Các hình
thức cạnh tranh ngày càng đa dạng, các phương pháp và quy mô cạnh tranh
ngày cang mở rộng trên phạm vi quốc tế. Cạnh tranh cũng tồn tại trong nền
kinh tế thị trường ở các nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước khuyến khích sự
cạnh tranh giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh nhằm đẩy nhanh tiến bộ khoa
học – kĩ thuật và cộng nghệ, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản
phẩm, giảm giá thành, trên cơ sở đó, tăng lợi nhuận cho người sản xuất, kinh

doanh giỏi, đồng thời có lợi cho người tiêu dùng và toàn xã hội, nhưng chỉ
thừa nhận sự cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật, chống những hoạt động
phạm pháp đẻ ra những hệ quả tiêu cực trong xã hội.
Hai nhà kinh tế học Mỹ P.A Samuelson và W.D Nordhaus trong cuốn
kính tế học ( xuất bản lần thứ 12 ) cho. Cạnh tranh (Competition) là sự kình
địch giữa các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để dành khách hàng hoặc thị
trương. Hai tác giả này cho cạnh tranh đồng nghĩa với cạnh tranh hoàn
hảo( Perfect Competition).
4
Ba tác giả Mỹ khác là D.Begg, S.Fischer và R. Dornbusch cũng cho
cạnh tranh là cạnh tranh hoàn hảo, các tác giả này viêt. Một cạnh tranh hoàn
hảo là ngành trong đó mọi người đều tin rằng hành động họ không gây ảnh
hưởng tới giá cả thị trường, phải có nhiều người bán và nhiều người mua.
Cùng quan điểm như trên, R.S Pindyck và D.L Rubinfeld trong cuốn
kinh tế học vĩ mô cho rằng: Một thị trường cạnh tranh hoàn hảo, hoàn thiện có
rất nhiều người mua và người bán, để cho không có người mua hoặc người
bán duy nhất nào có ảnh hưởng có ý nghĩa đối với giá cả.
Các tác giả trong cuốn “Các vấn đề pháp lý về thể chế và chính sách
cạnh tranh kiểm soát độc quyền kinh doanh, thuộc dự án VIE/97/016 thì cho:
Cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc
giành một số nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của
mình trên thị trường để đạt dược một mục tiêu kinh doanh cụ thể, ví dụ như
lợi nhuận, doanh số hoặc thị phần. Cạnh tranh trong một môi trường như vậy
đồng nghĩa với ganh đua.
Tác giả Nguyễn Văn Khôn trong từ điển Hán việt giải thích: “Cạnh tranh
là ganh đua hơn thua”.
Ở phạm vi quốc gia, theo Uỷ ban cạnh tranh công nghiệp của Tổng
thống Mỹ thì . Cạnh tranh đối với một quốc gia là mức độ mà ở đó, dưới các
điều kiện thị trường tự do và công bằng, có thể sản xuất các hàng hóa và dịch
vụ đáp ứng được các đòi hỏi của thị trường Quốc tế, đồng thời duy trì và mở

rộng được thu nhập thực tế của người dân nước đó.
Tại diễn đàn Liên hợp quốc trong báo cáo về cạnh tranh toàn cầu năm
2003 thì định nghĩa cạnh tranh đối với một quốc gia là khả năng của nước đó
đạt được những thành quả nhanh và bền vững về mức sống, nghĩa là đạt được
các tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao được xác định bằng các thay đổi của tồn sản
phẩm quốc nội (GDP) tính trên đầu người theo thời gian.
5
Từ những định nghĩa và các cách hiểu không giống nhau trên, tác giả
rút ra các điểm hội tụ chung sau đây:
- Cạnh tranh là cố gắng nhằm giành lấy phần hơn phần thắng về mình
trong môi trường cạnh tranh.
- Để canh tranh phải có các điều kiện kiên quyết sau:
+ Phải có nhiều chủ thể cùng nhau tham gia cạnh tranh: Đó là các chủ
thể có cùng các mục đích, mục tiêu và kết quả phải giành giật, tức là phải có một
đối tượng mà chủ thể cùng hướng đến chiếm đoạt. Trong nền kinh tế, với chủ
thể cạnh tranh bên bán, đó là các loại sản phẩm tưng tự có cùng mục địch phục
vụ một loại nhu cấu của khách hàng mà các chủ thể tham gia cạnh tranh đều có
thể làm ra và được người mua chấp nhận. Còn với các chủ thể cạnh tranh bên
mục là giành giật được các sản phẩm theo đúng mong muốn của mình.
+ Việc cạnh tranh phải được diễn ra trong một môi trường cạnh tranh cụ
thể, đó là các ràng buộc chung mà các chủ thể tham gia cạnh tranh phải tuân
thủ. Các ràng buộc này trong cạnh tranh kinh tế giữa các doanh nghiệp chính
là các đặc điểm nhu cầu về sản phẩm của khách hàng và các ràng buộc của
pháp luật và thống kê kinh doanh ở trên thị trường. Còn giữa người mua với
người mục, hoặc giữa những người mua và người bán là các thoả thuận được
thực hiện có lợi hơn cả đối với người mua.
+ Cạnh tranh có thể diễn ra trong một khoản thời gian không cố định
hoặc ngắn hoặc dài (trong suốt quá trình tồn tại và hoạt động của mỗi chủ thể
tham gia cạnh tranh). Sự cạnh tranh có thể diễn ra trong khoảng thời gian
không nhất định hoặc hẹp (một tổ chức, một địa phương, một ngành) hoặc

rộng (một nước, giữa các nước).
1.1.2. Vai trò của cạnh tranh
Cạnh tranh có vai trò quan trọng trong nền sản xuất hàng hoá nói riêng,
trong lĩnh vực kinh tế nói chung, là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, góp
phần vào sự phát triển kinh tế.
6
Sự cạnh tranh buộc người sản xuất phải năng động, nhạy bén, nắm bắt
tốt hơn nhu cầu của người tiêu dụng, tích cực nâng cao tay nghề, thường
xuyên cải tiến kỹ thuật, áp dụng những tiến bộ, các nghiên cứu thành công
mới nhất vào trong sản xuất, trong quản lý sản xuất để nâng cao năng xuất,
chất lượng và hiệu quả kinh tế, ở đâu thiếu cạnh tranh hoặc có biểu hiện độc
quyền thì thường trị trệ và kém phát triển.
Cạnh tranh mang lại nhiều lợi ích, đặc biệt cho người tiêu dùng. Người
sản xuất phải tìm mọi cách để làm ra sản phẩm có chất lượng hơn, đẹp hơn,
có chi phí sản xuất rẻ hơn, có tỷ lệ tri thức khoa học, công nghệ trong đó cao
hơn để đáp ứng với thị hiếu người tiêu dung.
Cạnh tranh là tiền đề của hệ thống free-enterprise vì càng nhiều doanh
nghiệp cạnh tranh với nhau thì sản phẩm hay dịch vụ cung cấp cho khách hàng
sẽ càng có chất lượng tốt hơn. Nói cách khác, cạnh tranh sẽ đem đến cho khách
hàng giá trị tối ưu nhất đối với những đồng tiền mồ hôi công sức của họ.
Ngoài mặt tích cực, canh tranh cũng đem lại những hệ quả không mong
muốn về mặt xã hội. Nó làm thay đổi cấu trúc xã hội trên phương diện sở hữu
của cải, phân hoá mạnh mẽ giàu nghèo, có những tác động tiêu cực khi cạnh
tranh không lành mạnh, dựng các thủ đoạn vi phạm pháp luật hay bất chấp
pháp luật. Vì lý do trên cạnh tranh kinh tế bao giờ cũng phải được điều chỉnh
bởi các định chế xã hội, sự can thiệp của nhà nước.
Cạnh tranh cũng có những tác động tiêu cực thể hiện ở cạnh tranh không
lành mạnh như những hành động vi phạm đạo đức hay vi phạm pháp luật
(buôn lậu, trốn thuế, tung tin phá hoại ) hoặc những hành vi cạnh tranh làm
phân hoá giầu nghèo, tổn hại môi trường sinh thai.

Trong xã hội, mỗi con người xét về tổng thể, vừa là người sản xuất đồng
thời cũng là người tiêu dùng, do vậy cạnh tranh thường mang lại nhiều lợi ích
hơn cho mọi người và cho cộng đồng, xã hội
7
1.1.3. Các loại hình cạnh tranh
Dựa trên các tiêu thức khác nhau người ta phân thành nhiều loại hình
cạnh tranh khác nhau.
- Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường:
Cạnh tranh giữa người bán và người mua: Người bán muốn bán hàng
hoá của mình với giá cao nhất, còn người mua muốn mua với giá thấp nhất.
Giá cả cuối cùng được hình thành sau quá trình thương lượng giữa hai bên.
Cạnh tranh giữa những người bán: Là cuộc cạnh tranh nhằm giành giật
khách hàng và thị trường, kết quả là giá cả giảm xuống và có lợi cho người
mua. Trong cuộc cạnh tranh này, doanh nghiệp nào tỏ ra đuối sức, không chịu
được sức ép sẽ phải rút lui khỏi thị trường, nhường thị phấn của mình cho đối
thủ mạnh hơn.
- Căn cứ theo phạm vi ngành kinh tế
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cuộc cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp tròng cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá hoặc dịch
vụ. Kết quả của cạnh tranh này là làm cho kỹ thuật phát triển.
Cạnh tranh giữa các ngành là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
trong các ngành kinh tế với nhau nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Trong
quá trình này có sự phân bố vốn đầu tư một cách tự nhiên giữa các ngành, kết
quả hình là hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quận.
- Căn cứ vào mức độ, tính chất của cạnh tranh trên thị trường
Cạnh tranh hoàn hảo (Perfect Competition): Là hình thức cạnh tranh
giữa nhiều người bán trên thị trường, trong đó không người nào có đủ ưu thế
khống chế giá cả trên thị trường. Các sản phẩm bán ra đều được người mua là
đồng thức, tức là không khác nhau về quy cách, phẩm chất mẫu mã. Để chiến
thắng trong cuộc cạnh tranh các doanh nghiệp buộc phải tìm cách giảm chi

phí, hạ giá thành hoặc làm khác biệt hoá sản phẩm của mình so với đối thủ
cạnh tranh.
8
Canh tranh không hoàn hảo (Imperfect Competition: Là hình thức cạnh
tranh giữa người bán có sản phẩm không đồng nhất với nhau. Mỗi sản phẩm
đều mang hình ảnh hay uy tín khác nhau cho nên để giành được ưu thế trong
cạnh tranh, người bán phải sử dụng các công cụ hỗ trợ bán như: Quáng cáo,
khuyến mại, cung cấp dịch vụ, ưu đãi giá cả, đây là loại hình cạnh tranh phổ
biến trong giai đoạn hiện nay
Canh tranh độc quyền (Monopolistic Competition): Trên thị trường chỉ
có một hặc một số ít người bán một sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó, giá cá của
sản phẩm hoặc dịch vụ đó trên thị trường sẽ do họ quyết định không phụ
thuộc vào quan hệ cung cầu.
- Căn cứ vào thủ đoạn sử dụng trong cạnh tranh:
Cạnh tranh lành mạnh: Là cạnh tranh đúng luật pháp, phù hợp với
chuẩn mực xã hội và được xã hội thưa nhận, nó thường diễn ra sòng phản,
công bằng và công khai
Canh tranh không lành mạnh: Là cạnh tranh dựa vào kẽ hở của pháp
luật, trái với chuẩn mực xã hội và bị xã hội lên án( như trốn thuế, buôn lậu,
móc ngoặc, khủng bố…)
1.1.4. Các công cụ cạnh tranh chủ yếu của doanh nghiệp
Sự cạnh tranh gay gắt nhất luôn là cuộc cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp cùng sản xuất, cùng cung ứng một loại hàng hoá hay dịch vụ. Do vậy
các công cụ cạnh tranh ở đây chủ yếu xem xét theo các doanh nghiệp trong
cùng một ngành.
Giá cả: Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá sản phẩm mà người bán
có thể dự tính nhận được từ người mua thông qua sự trao đổi giữa các sản
phẩm đó trên thị trường giá cả phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Các yếu tố kiểm soát được: Đó là chi phí sản xuất, chi phí bán hàng,
chi phí lưu thông, chi phí hỗ trợ và tiếp xúc bán hàng.

9
- Các yếu tố không thể kiểm soát được : Đó là quan hệ cung cầu trên thị
trường, cạnh tranh trên thị trường, sự điều tiết của nhà nước.
Giả cả được sử dụng làm công cụ cạnh tranh thông qua các chính sách
định giá bán sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường, một doanh nghiệp có
thể có các cách chính sách đinh giá sau:
- Chính sách định giá thấp: Đây là cách định giá bán thấp hơn mức giá thị
trường. Chính sách định giá thấp có thể hướng vào các mục tiêu khác nhâu, tuỷ
theo tình hình sản xuất và thị trường và được chia ra các cách khác nhau.
+ Định giá thấp hơn so với thị trường nhưng cao hơn giá trị sản phẩm,
doanh nghiệp chấp nhận mức lãi thấp. Nó được ứng dụng trong trường hợp
sản phẩm mới xâm nhập thị trường, cần bán hàng nhanh với khối lượng lớn,
hoặc dụng giá để cạnh tranh với các đối thủ.
+ Định giá bán thấp hơn giá thị trường và cũng thấp hơn giá trị sản
phẩm: Doanh nghiệp bị lỗ. Cách này được áp dụng trong trường hợp bán hàng
trong thời kỳ khai trương hoăc muốn bán nhanh để thu hồi vốn (tương tự bán
phá giá).
- Chính sách định giá cao:
Tức là mức giá bán cao hơn mức giá thống trị trên thị trường và cao hơn
giá trị sản phẩm. Được áp dụng trong các trường hợp sau:
+ Sản phẩm mới tung ra thị trường người tiêu dùng chưa biết rõ chất
lượng của nó, chưa có cơ hội để so sánh về giá áp dụng giá bán cao sau đó
giảm dần.
+ Doanh nghiệp hoạt động trong thị trường độc quyền, áp dụng giá cao
(giá độc quyền) để thu lợi nhuận độc quyền.
+ Sản phẩm thuộc loại cao cấp, hoặc sản phẩm có chất lượng đặc biệt
phù hợp với người tiêu dùng thuộc tầng lớp thượng lưu.
10
+ Sản phẩm thuộc loại không khuyến khích người tiêu dùng mua, áp
dụng giá bán cao để thúc đẩy họ tìm sản phẩm thay thế.

- Chính sánh ổn định giá bán:
Tức là giữ nguyên giá bán theo thời ký và địa điểm. Chính sách này giúp
doanh nghiệp xâm nhập, giữ vững và mở rộng thị trường.
- Chính sách định giá theo giá thị trường:
Đây là cách định giá phổ biến của các doanh nghiệp hiện nay tức là giá
bán sản phẩm xoay quanh mức giá thị trường của sản phẩm đó. Ở đây do
không sử dụng yếu tố giá làm đòn bẩy kích thích người tiêu dùng nên để tiêu
thụ được sản phẩm, doanh nghiệp tăng cường công tác tiếp thị thực hiện
nghiêm ngặt các biện pháp giảm chi phí sản xuất kinh doanh.
- Chính sách giá phân biệt:
Với cùng một loại sản phẩm nhưng doanh nghiệp định ra nhiều mức giá
khác nhau dựa theo nhiều tiêu thức khác hau:
+ Phân biệt theo lượng mua: Mua khối lượng nhiều hoặc giảm giá hoặc
hưởng chiết khấu.
+ Phân biệt theo chất lượng: Các loại chất lượng có mức giá khác nhau
phục vụ cho các nhóm đối tượng khác nhau.
+ Phân biệt theo phương thức thanh toán: Tại thời điểm khác nhau, giá
cả khác nhau.
- Chính sách bán phá giá:
+ Định mức giá bán thấp hơn hẳn giá thị trường và thấp hơn cả giá thành
sản xuất. Mục tiêu của bán giá là tối thiểu hoá rủi ro hay thua lỗ hoặc để tiêu
diệt đối thủ cạnh tranh. Muốn đạt được mục tiêu này đòi hỏi doanh nghiệp
phải có tiềm lực về tài chính, về khoa học công nghệ, sản phẩm đó có uy tín
trên thị trường. Bán phá giá chủ yếu nên áp dụng khi sản phẩm bị tồn đọng
qua nhiều, bị cạnh tranh gay gắt, lạc hậu không phù hợp với nhu cầu tiêu
dùng, sản phẩm mang tính thời vụ, dễ hư hỏng, càng để lâu càng bị lỗ lớn.
11
Ngày nay cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội mức sống của
người dân không ngừng nâng cao, giá cả không còn là công cụ cạnh tranh
quan trọng của doanh nghiệp nữa nhưng nếu doanh nghiệp biết kết hợp công

cụ giá với các công cụ khác thì kết quả thu được sẽ rất to lớn.
Chất lượng sản phẩm và đặc tính sản phẩm: Chất lượng sản phẩm trở
thành một công cụ quan trọng của các doanh nghiệp trên thị trường. Chất
lượng sản phẩm càng cao tức là mức đọ thoả mãn nhu cầu càng cao, dẫn tới
đẩy mạnh tốc độ tiêu thu, tăng khả năng thằng thế trong cạnh tranh của doanh
nghiệp. Trong điều kiện hiện nay, mức sống của người dân ngày càng được
nâng cao, tức là nhu cầu có khả năng thanh toán của người tiêu dùng tăng lên
thì sự canh tranh bằng giá cả đã và sẽ có xu hướng cho sự cạnh tranh bằng
chất lượng.
Chất lượng sản phẩm là tập hợp các thuộc tính sản phẩm trong điều kiện
nhất định về kinh tế kỹ thuật. Chất lượng là một chỉ tiêu tổng hợp thể hiện ở
nhiều mặt khác nhau tính cơ lý hoá đúng như các chỉ tiêu quy định , hình
dạng màu sắc hấp dẫn. Với mỗi loại sản phẩm khác nhau, tuy nhiên vấn đề
đặt ra là doanh nghiệp phải luôn luôn giữ vững và không ngừng năng cao chất
lượng sản phẩm. Đó là điều kiện không thể thiếu nếu doanh nghiệp muốn
giành được thắng lợi trong cạnh tranh, nói một cách khác chất lượng sản
phẩm là vấn đề sồng còn đối với doanh nghiệp. Khi chất lượng không còn
được đảm bảo, không thoả mãn nhu cầu khách hàng thì ngay lập tức khách
hàng sẽ rời bỏ doanh nghiệp.
Năng cao chất lượng sản phẩm có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với
việc tăng khả năng cạnh tranh thể hiện trên các giác độ:
- Chất lượng sản phẩm tăng lên sẽ thu hút được khách hàng tăng được
khối doanh thu, tăng lợi nhuận, đảm bảo hoàn thành các mục tiêu mà doanh
nghiệp đã đề ra.
12
- Nâng cao chất lượng sản phẩm có nghĩa là nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh.
Hệ thống kênh phân phối: Đối với mỗi doanh nghiệp hoạt động trong
cơ chế thị trường, sản xuất tốt chưa đủ để khẳng định khả năng tồn tại và phát
triển của mình, mà còn phải biết tổ chức mạng lướt bán hàng, đó là tập hợp

các kênh đưa sản phẩm hàng hoá từ nơi sản xuất đến người tiêu dùng sản
phẩm ấy. Bên cạnh đó, để thúc đẩy quá trình bán hàng. doanh nghiệp có thể
tiến hành một loạt các hoạt động hỗ trợ như: Tiếp thị, quảng cáo, yểm trợ bán
hàng, tổ chức hội nghị khách hàng, tham gia các tổ chức liên kết kinh tế
Ngày nay, nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm đóng vai trị vô cùng quan trọng, thậm
trí quyết định đến sự còn của doanh nghiệp trên thị trường bởi vì nó tác động
đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên các khía cạnh sau:
- Tăng khả năng tiêu thụ hàng hoá thông qua việc thu hút sự quan tâm
của khách hàng tới sản phẩm của doanh nghiệp
- Cải thiện vị trí hình ảnh của doanh nghiệp trên thị trường ( thương
hiệu, chữ tín của doanh nghiệp)
- Mở rộng quan hệ làm ăn với các đối tác trên thị trường, phối hợp với
các chủ thể trong việc chi phối thị trường, chống hàng giả.
Doanh nghiệp chọn các kênh phân phối, lựa chọn thị trường, nghiên cứu
thị trường và lựa chọn kênh phân phối để sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ
nhanh chóng, hợp lý và đạt được hiệu quả cao. Chính sách phân phối sản
phẩm đạt được các mục tiêu giải phóng nhanh chóng lượng hàng tiêu thụ,
tăng nhanh vòng quay của vốn thúc đẩy sản xuất nhờ vậy tăng nhanh khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Các công cụ cạnh tranh khác
Dịch vụ sau bán hàng
Trách nhiệm của doanh nghiệp đối với sản phẩm của mình không phải
chấm dứt sau khi giao hàng và nhận tiền của khách hàng bởi vì có một nguyên
13
tắc chung là " Ai sản xuất thì người đó phục vụ kỹ thuật. Tốt hơn nữa là chuẩn bị
cho việc phục vụ kỹ thuật sớm hơn việc cung cấp sản phẩm đó ra thị trường.
Doanh nghiệp sẽ bán được nhiều sản phẩm nếu khách hàng cảm thấy yên tâm
rằng sản phẩm đó đảm bảo chất lượng ngay cả khi quan hệ mua bán đã chấm
dứt. Dịch vụ sau bán hàng thường áp dụng đối với trường hợp sau:
+ Sản phẩm mang tính kỹ thuật cao

+ Đơn giá sản phẩm cao
+ Sản phẩm được bán đơn chiếc
+ Người mua không am hiểu tính năng và cách sử dụng của sản phẩm
+ Sản phẩm chiếm lĩnh thị trường nhiều
Nội dung của dịch vụ sau bán hàng gồm:
+ Cam kết thu lại sản phẩm và hoàn trả tiền lại cho khách hàng hoặc đổi
lại hàng nếu sản phẩm không đúng với thoả thuận ban đầu hoặc không thoả
mãn nhu cầu của họ.
+ Cam kết bảo hành trong thời gian nhất định.
+ Cung cấp các dịch vụ bảo dưỡng kỹ thuật cho các sản phẩm có tuổi
thọ dài.
Phương thức thanh toán
Phương thức thanh toán cũng là một công cụ cạnh tranh được nhiều doanh
nghiệp sử dụng. Phương thức thanh toán ngọn nhẹ, rườm rà hay chậm trễ ảnh
hưởng đến công tác tiêu thụ và do đó ảnh hưởng đến công tác tiêu thụ và do đó
ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Vận dụng yếu tố thời gian
Những thay đổi nhanh chóng của khoa học công nghệ làm thay đổi
nhanh chóng cách nghĩ, cách làm việc của con người, tạo thời cơ cho mỗi
người, mỗi đất nước tiến nhành về phía trước. Đối với các doanh nghiệp yếu
tố quyết định trong chiến lược kinh doanh hiện tại là tốc độ chứ không phải là yếu
14
tố cổ truyền như nguyên vật liệu, lao động muốn chiến thắng trong cuộc cạnh
tranh này, các doanh nghiệp phải biết tổ chức nắm bắt trong tin nhanh chóng tiêu
thụ để thu hồi vốn nhanh trước khi chu kỳ sản xuất sản phẩm kết thúc.
Cạnh tranh về thời cơ thị trường.
Doanh nghiệp nào dự báo trước thời cơ thị trường và nắm được thời cơ
thị trường sẽ có thêm điều kiện để chiến thắng trong cạnh tranh. Thời cơ thị
trường thường xuất hiện do các yếu tố sau:
+ Sự thay đổi của môi trường công nghệ.

+ Sự thay đổi về yếu tố dân cư, điều kiện tự nhiên.
+ Các quan hệ tạo lập được của từng doanh nghiệp.
Cạnh tranh về thời cơ thị trường thể hiện ở chỗ doanh nghiệp dự báo
được những thay đổi của thị trường, từ đó có các chính sách khai thác thị
trường hợp lý và sớm hơn các doanh nghiệp khác. Tuy nhiên cạnh tranh về
thời cơ thị trường cũng có thể thể hiện ở chỗ doanh nghiệp tìm ra được những
lợi thế kinh doanh, sớm đi vào khai thác thị trường và một loạt sản phẩm của
doanh nghiệp cũng sẽ sớm bị bão hồ. Yêu cầu này đòi hỏi phải thích ứng
nhanh với những thay đổi đó.
Thương lượng trong cạnh tranh
Đó là việc thoả thuận giữa các chủ doanh nghiệp để chia sẻ thị trường
một cách ơn hồ (hơn là cạnh tranh gây bất lợi) đó là việc sử dụng các kỹ thuật
tính toán của lý thuyết trò chơi (Theory of Game).
1.1.5. Các phương pháp sử dụng đối với các đối tượng liên quan
Các phương pháp sử dụng đối với bạn hàng
Bạn hàng là những người cung cấp các đầu vào cho doanh nghiệp, họ có
thể bán sản phẩm cho người khác và giữa họ (bên bán với nhau) cũng sẽ xuất
hiện hiện tượng cạnh tranh, phương pháp sử dụng chủ yếu là tôn trọng lợi ích
của nhau (giữ chữ tín thanh toán sòng phẳng và thông cảm). Nhưng cũng cần
15
né tránh sự o ép của mặt hàng (nếu họ là những người bán không biết điều
trục lợi và bất tín) mà phương pháp chủ yếu là thay quan hệ buôn bán bằng
quan hệ bạn hàng và thay quan hệ song phương bằng quan hệ đa phương.
Các phương pháp sử dụng đối với các cơ quan và viên chức của các
cơ quan quản lý vĩ mô
Đó là sự sử dụng kết hợp các phương pháp sau:
- Chủ động tới mức cao nhất không đối đầu với luật pháp và thông lệ
Nghiêm chỉnh thực hiện nghĩa vụ ( đã chấp nhận, thuế nộp doanh lợi và các
khoản khác vv )
- Tạo và chuyển đổi quan hệ pháp lý thành quan hệ thông cảm, tôn trọng

thân tình.
1.1.6. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh là khả năng duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh
trong việc tiêu thụ sản phẩm , mở rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút và sử dụng
có hiệu quả các yếu tố sản xuất nhằm đạt lợi ích kinh tế cao và bền vững.
Năng lực cạnh tranh được phân biệt thành 4 cấp độ
Năng lực cạnh tranh quốc gia
Năng lực cạnh tranh quốc gia được định nghĩa là năng lực của một nền
kinh tế đạt được tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu tư, đảm bảo ổn định
được kinh tế xã hội, nâng cao đời sống của người dân.
Năng lực cạnh tranh của ngành
Là khả năng ngành phát huy được những lợi thế cạnh tranh và có năng
suất so sánh cao hơn giữa các ngành cùng loại.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đến nay vẫn chưa được
hiểu một cách thống nhất. Dưới đây là một số cách tiếp cận cụ thể về năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp đáng chú ý:
Một là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và mở
16
rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp. Đây là cách quan niệm khá
phổ biến hiện nay, theo đó năng lực cạnh tranh là khả năng tiêu thụ hàng hóa,
dịch vụ so với đối thủ và khả năng “thu lợi” của các doanh nghiệp. Cách quan
niệm này có thể gặp trong các công trình nghiên cứu của Mehra (1998),
Ramasamy (1995), Buckley (1991), Schealbach (1989) hay ở trong nước như
của CIEM (Ủy ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế). Cách quan niệm
như vậy tương đồng với cách tiếp cận thương mại truyền thống đã nêu trên.
Hạn chế trong cách quan niệm này là chưa bao hàm các phương thức, chưa
phản ánh một cách bao quát năng lực kinh doanh của doanh nghiệp.
Hai là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng chống chịu
trước sự tấn công của doanh nghiệp khác. Chẳng hạn, Hội đồng Chính sách

năng lực của Mỹ đưa ra định nghĩa: năng lực cạnh tranh là năng lực kinh tế về
hàng hóa và dịch vụ trên thị trường thế giới. Ủy ban Quốc gia về Hợp tác
Kinh tế Quốc tế (CIEM) cho rằng: năng lực cạnh tranh là năng lực của một
doanh nghiệp “không bị doanh nghiệp khác đánh bại về năng lực kinh tế”.
Quan niệm về năng lực cạnh tranh như vậy mang tính chất định tính, khỉ có
thể định lượng.
Ba là, năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với năng suất lao động. Theo Tổ
chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp là sức sản xuất ra thu nhập tương đối cao trên cơ sở sử dụng các yếu tố
sản xuất có hiệu quả làm cho các doanh nghiệp phát triển bền vững trong điều
kiện cạnh tranh quốc tế. Theo M. Porter (1990), năng suất lao động là thức đo
duy nhất về năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, các quan niệm này chưa gắn với
việc thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ của doanh nghiệp.
Bốn là, năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với duy trì và nâng cao lợi thế
cạnh tranh. Chẳng hạn, tác giả Vũ Trọng Lâm cho rằng: năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp là khả năng tạo dựng, duy trì, sử dụng và sáng tạo mới các
17
lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp, tác giả Trần Sửu cũng có ý kiến tương
tự: năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng tạo ra lợi thế cạnh
tranh, có khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh,
chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững.
Ngoài ra, không ít ý kiến đồng nhất năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp với năng lực kinh doanh. Như vậy, cho đến nay quan niệm về năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp vẫn chưa được hiểu thống nhất. Để có thể đưa ra
quan niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phù hợp, cần lưu ý thêm
một số vấn đề sau đây:
Một là, quan niệm năng lực cạnh tranh cần phù hợp với điều kiện, bối
cảnh và trình độ phát triển trong từng thời kỳ. Chẳng hạn, trong nền kinh tế
thị trường tự do trước đây, cạnh tranh chủ yếu trong lĩnh vực bán hàng và
năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với việc bán được nhiều hàng hóa hơn đối thủ

cạnh tranh; trong điều kiện thị trường cạnh tranh hồn hảo, cạnh tranh trên cơ
sở tối đa hỉa số lượng hàng hóa nên năng lực cạnh tranh thể hiện ở thị phần;
còn trong điều kiện kinh tế tri thức hiện nay, cạnh tranh đồng nghĩa với mở
rộng “không gian sinh tồn”, doanh nghiệp phải cạnh tranh không gian, cạnh
tranh thị trường, cạnh tranh tư bản và do vậy quan niệm về năng lực cạnh
tranh cũng phải phù hợp với điều kiện mới.
Hai là, năng lực cạnh tranh cần thể hiện khả năng tranh đua, tranh giành
về các doanh nghiệp không chỉ về năng lực thu hút và sử dụng các yếu tố sản
xuất, khả năng tiêu thụ hàng hóa mà cả khả năng mở rộng không gian sinh tồn
của sản phẩm, khả năng sáng tạo sản phẩm mới.
Ba là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cần thể hiện được phương
thức cạnh tranh phù hợp, bao gồm cả những phương thức truyền thống và cả ,
những phương thức hiện đại – không chỉ dựa trên lợi thế so sánh mà dựa vào
lợi thế cạnh tranh, dựa vào quy chế.
Từ những yêu cầu trên, có thể đưa ra khái niệm năng lực cạnh tranh của
18
doanh nghiệp như sau: năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy
trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng
lưới tiêu thụ, thu hút và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất nhằm đạt lợi
ích kinh tế cao và đảm bảo sự phát triển kinh tế bền vững.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa là khả năng sản phẩm
đó bán được nhanh với giá tốt khi có nhiều người căng bán loại sản phẩm đó
trên thị trường. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm phụ thuộc vào chất lượng,
giá cả, tốc độ cung cấp, dịch vụ đi kèm, thương hiệu, quảng cáo, uy tín của
người bán, chính sách hậu mãi …
Năng lực cạnh tranh ở bốn cấp độ trên có mối tương quan mật thiết với
nhau phụ thuộc lẫn nhau. Do đó, khi xem xét, đánh giá và đề ra các giải phấp
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, cần thiết phải đặt nó
trong mối tương quan chung giữa các cấp độ cạnh tranh.
a. Các yếu tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bị ảnh hưởng nhiểu yếu tố:
Môi trường vĩ mô:
 Chính trị - pháp luật
Ngành dược chịu tác động mạnh bởi sự quản lý của nhà nước và các quy
định riêng của ngành. Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp lý để quản
lý nhà nước về lĩnh vực dược, quản lý của nhà nước về giá thuốc, điều kiện
kinh doanh thuốc, quản lý thuốc thuộc danh mục phải kiểm soát đặc biệt, tiêu
chuẩn chất lượng thuốc, cơ sở kiểm nghiệm thuốc.
Ngày 19/04/2007, Bộ Y Tế ban hành Quyết định số 27/2007/QĐ-BYT
về lộ trình triển khai nguyên tắc: “Thực hành tốt sản xuất thuốc”(GMP) và
“Thực hành tốt bảo quản thuốc” (GSP) được thực hiện. Theo quy định này, kể
19
từ ngày 01/07/2008, doanh nghiệp sản xuất thuốc không đạt tiêu chuẩn GMP
theo khuyến cáo của Tổ chức Y Tế thế giới (GMP-WHO) và doanh nghiệp
xuất nhập khẩu và kinh doanh dược có hệ thống kho bảo quản không đạt tiêu
chuẩn GSP sẽ phải ngừng sản xuất và ngừng xuất nhập khẩu trực tiếp. Ngoài
ra còn có các quy định như GLP “ Thực hành tốt phòng thí nghiệm về văcsin
và sinh phẩm”, “Thực hành tốt phân phối thuốc”(GDP), “Thực hành tốt về
quản lý nhà thuốc” (GPP). Chỉ có các doanh nghiệp đáp ứng được những tiêu
chuẩn này mới có thể tồn tại kinh doanh và phát triển. Những quy định này sẽ
giúp tạo điều kiện cho các công ty dược nhỏ lẻ Việt Nam sáp nhập hoặc mua
lại, thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước nâng cao, tập trung phát triển theo
chiều sâu để có thể cạnh tranh với các công ty đa quốc gia.
20
 Văn hóa xã hội
Hiện lao động cả nước đang dồn về các khu công nghiệp, khu đô thị như
Hà Nơi, TP.HCM Lao động từ khu vực Nhà nước chuyển sang khu vực
ngoài quốc doanh, từ nông thôn chuyển ra thành thị Đây là sự dịch chuyển
tự nhiên theo quy luật “nước chảy về chỗ trũng”, một sự điều tiết mang tính
thị trường. Tệ nạn xã hội ngày càng tăng, lối sống thực dụng với các hiện

tượng xã hội tạo ra sự bất bình đẳng trong chăm sóc sức khỏe, thay đổi mô
hình bật tật và tăng chi phí cũng như gánh nặng cho xã hội.
Dân số Việt Nam phần lớn vẫn còn sống ở nông thôn, chiếm 75% dân số
cả nước, trong khi cán bộ y tế không về các địa phương nên gây khó khăn cho
các dịch vụ y tế , quá tải ở các bệnh viện tuyến trung ương và bệnh viện thành
phố. Dự đoán năm 2020, dân số Việt Nam sẽ đứng thứ tư ở Châu Á, chỉ sau
Trung Quốc, Ấn Độ và Indonesia, vượt qua cả Nhật Bản - đất nước đang có
số dân ngày càng giảm. Với lợi thế này , Việt Nam là một thị trường tiêu thụ
tiềm năng đối với các doanh nghiệp sản xuất thuốc trong nước cũng như các
công ty đa quốc gia.
Quan niệm sống hiện nay có sự thay đổi rất nhiều, cùng mức thu nhập
ngày càng cải thiện là nhu cầu sống ngày càng cao hơn. Người dân quan tâm
nhiều hơn đến những chăm sóc sức khỏe. Thói quen tự dựng thuốc của người
dân gây khó khăn cho công tác chẩn đoán và điều trị, tâm lý và thị hiếu dựng
thuốc ngoại, không tin tưởng vào thuốc nội cũng gây sức ép cạnh tranh cho
các doanh nghiệp sản xuất trong nước. Thói quen người tiêu dùng Việt Nam
là thường tự mua thuốc theo kinh nghiệm cá nhân hoặc theo lời khuyên của
người thân và người bán thuốc.
21
 Điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên bao gồm vị trí địa lý, khí hậu, cảnh quan, đất đai, tài
nguyên thiên nhiên, sự trong sạch của môi trường nước và không khí…
Có thể nói các điều kiện tự nhiên luôn là yếu tố quan trọng trong cuộc
sống con người, mặt khác cũng là yếu tố đầu vào quan trọng của nhiều ngành
kinh tế như: nông nghiệp, công nghiệp khai thác khoáng sản, du lịch, vận
tải…
Trong thập niên gần đây, nhân loại đang phải đối mặt với sự ô nhiễm
của môi trường ngày càng tăng, sự cạn kiệt và khan hiếm các nguồn tài
nguyên và năng lượng, sự mất cân bằng về môi trường sinh thái… Môi
trường tự nhiên bị ô nhiễm, dễ bị phá vỡ thế cân bằng khi xã hội có tốc độ

phát triển cao, điều này đe dọa nghiêm trọng tới sức khỏe cộng đồng.
 Yếu tố kinh tế
Kinh tế Việt Nam những năm qua tăng trưởng đều và ổn định, tạo điều
kiện thuận lợi cho ngành dược phát triển. Nhưng cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu đã ảnh hưởng mạnh đến nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là các ngành
công nghiệp chế biến xuất nhập khẩu, tài chính ngân hàng, bất động sản. Lạm
phát tăng cao, làm chi người dân thận trọng hơn trong việc đầu tư và tiêu dùng.
Điều này khiến cho các ngành công nghiệp gặp khó khăn hơn. So với các ngành
khác thì dược là một trong những ngành ít chịu ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng nhất, vì đây là một trong những mặt hàng thiết yếu đối với người dân.
Tiền thuốc bình quân đầu người tăng từ 6 USD/người/ năm 2001 lên
16,45USD/người/năm 2008. Tuy nhiên thực tế con số này vẫn còn thấp so với
các nước trong khu vực và còn rất thấp so với mức trung bình của thế giới
(40USD/người/ năm)
22
90% nguyên liệu bào chế thuốc và 50% thuốc thành phẩm phải nhập
khẩu, thị trương thuốc trong nước phụ thuộc nhiêu vào biến động giá của thị
trường thế giới như chi phí vận chuyển, tỷ giá ngoại tệ, giá nguyên liệu dùng
làm thuốc… nên việc bình ổn giá thuốc mà không xảy ra thiếu thuốc luôn là
bài toán khó đối với các nhà quản lý.
 Yếu tố công nghệ
Trình độ kỹ thuật, công nghệ sản xuất thuốc còn thấp và chưa được đầu
tư đúng đắn, đang diễn ra tình trạng đầu tư dây chuyền trùng lập:
Hầu hết các doanh nghiệp sản xuất thuốc chỉ tập trung vào công nghệ
bào chế đơn giản, hàm lượng kỹ thuật thấp, trùng lặp trong các dòng sản
phẩm mà chưa chú trọng phát triển nguồn dược liệu, ít chú ý đầu tư vào các
loại thuốc chuyên khoa đặc trị, các dạng bào chế đặc biệt… chính vì vậy,
nguồn cung trong nước chỉ đáp ứng được 40 – 50% nhu cầu thị trường.
Tính đến thời điểm cuối năm 2008, đã có 52% các doanh nghiệp dược
(bao gồm cả tân dược và đông dược) đạt được tiêu chuẩn GMP – WHO, trong

đó số doanh nghiệp đạt được tiêu chuẩn GLP và GSP lần lượt là 51% và 63%.
Các doanh nghiệp hiện nay đang chú trọng đến tiêu chuẩn này, vì chỉ có tập
trung đầu tư theo chiều sâu, nang cấp dây truyền sản xuất thì các doanh
nghiệp Việt Nam mới có thể tồn tại trong môi trường cạnh tranh khốc liệt này.
- Công tác nghiên cứu khoa học và phát triển chưa được coi trọng
Các doanh nghiệp Việt Nam thiếu chuyên môn cũng như nguồn tài
chính để hỗ trợ cho công tác R &D. Thay vào đó, từ lâu Việt Nam đã là nơi
để các công ty đa quốc gia tiền hành thử nghiệm lâm sàng.
Việc đầu tư cho một nghiên cứu mới vô cùng tốn kém, trung bình phải mất
10 năm với chi phí từ 12 -15 triệu USD. Hơn nữa, các doanh nghiệp chạy theo
nhu cầu trước mặt của thị trường và hạn chế về trình độ nhân lực, công nghệ nên
23

×