Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một vài biện pháp giúp học sinh phát triển kỹ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử ở nhà trường phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.21 KB, 20 trang )

“Một vài biện pháp giúp học sinh phát triển kỹ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử
ở nhà trường phổ thông”
…………………………………………………………………………………………………………………

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong thời gian gần đây, các cơ quan truyền thông đang nêu lên một thực
trạng mà cả xã hội quan tâm, đó là sự xuống cấp của bộ môn lịch sử trong ngành
giáo dục: thái độ thờ ơ của học sinh đối với môn lịch sử và kết quả trong các kì
tuyển sinh thi cử quá thấp, hàng ngàn bài thi môn lịch sử của học sinh không có
điểm (điểm 0), những bài thi “cười ra nước mắt” Với thực trạng đáng lo ngại đó,
là một người giáo viên giảng dạy môn lịch sử, đặc biệt là giáo viên đang dạy lớp
12, tôi cảm thấy chạnh lòng và thấy mình cũng phải có trách nhiệm. Thực trạng đó,
khiến tôi suy nghĩ nhiều, làm sao để khắc phục tình trạng đó và nâng cao nhận
thức, kết quả học tập môn lịch sử.
Qua kinh nghiệm gần sáu năm công tác giảng dạy môn lịch sử và tìm hiểu
thực tế, tôi mạnh dạn quyết định viết đề tài: “Một vài biện pháp giúp học sinh
phát triển kỹ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử ở nhà trường phổ thông”.
Đây là một đề tài tôi đã ấp ủ khá lâu và tôi cũng đã thực hiện thí điểm có hiệu quả
tốt, cho nên tôi quyết định viết đề tài này để cho các đồng nghiệp cùng tham khảo
và có thể ứng dụng, tạo cảm hứng học tập cho học sinh và có biện pháp giúp đỡ
học sinh phát triển kĩ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử một cách hiệu quả,
từ đó nâng cao chất lượng giáo dục và vị trí của môn lịch sử trong xã hội.
2. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Tên đề tài đã nói rõ phần nào về đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
tổng kết kinh nghiệm. Đề tài trình bày những vấn đề về vai trò của giáo viên trong
dạy học môn lịch sử và những biện pháp giúp học sinh phát triển kĩ năng tự học và
ghi nhớ kiến thức lịch sử. Người giáo viên phải xác định được đối tượng người

GV: Nguyễn Đình Thế- Bộ môn Lịch Sử- Trường THPT Vĩnh Bình Bắc Trang 1
“Một vài biện pháp giúp học sinh phát triển kỹ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử


ở nhà trường phổ thông”
…………………………………………………………………………………………………………………

học và tìm hiểu cũng như nắm bắt, phân tích được tình hình thực trạng để từ đó có
những cách thức biện pháp trong đổi mới phương pháp dạy học, tránh nhàm chán
trong tiết học, tạo hứng thú học tập tập bộ môn; đề cập một số cách thức biện pháp
bồi dưỡng phát triển kĩ năng tự học và dễ dàng ghi nhớ kiến thức lịch sử.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong việc thực hiện nghiên cứu một vấn đề - đề tài, một sự vật hiện tượng
chúng ta cần thực hiện nhiều phương pháp, trong đề tổng kết kinh nghiệm này tôi
cũng sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như: tìm hiểu, điều tra thực tế, thống
kê, phân tích, đánh giá…
Những phương pháp này đã góp phần rất lớn cho tôi hoàn thành đề tài tổng kết
kinh nghiệm này.
Qua các phương pháp nghiên cứu làm việc như đọc các tài liệu tham khảo,
tìm hiểu thực trạng việc học tập môn lịch sử của học sinh cũng như trao đổi với học
sinh về thái độ tình cảm cũng như phương pháp học tập tôi rút ra được nhiều kết
luận để viết đề tài và hoàn thành theo đúng kế hoạch.

GV: Nguyễn Đình Thế- Bộ môn Lịch Sử- Trường THPT Vĩnh Bình Bắc Trang 2
“Một vài biện pháp giúp học sinh phát triển kỹ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử
ở nhà trường phổ thông”
…………………………………………………………………………………………………………………

II. PHẦN NỘI DUNG
1. THỰC TRẠNG
1.1. Thuận lợi
Hiện nay, cùng với sự phát triển chung của xã hội người giáo viên cũng như
học sinh có điều kiện tiếp thu nhiều nguồn thông tin truyền hình báo chí, Internet,
các tư liệu lịch sử phong phú, đa dạng và các phương tiện bổ trợ cho công tác dạy

và học.
Trong quá trình dạy học ở nhà trường phổ thông, được sự quan tâm của các cấp
lãnh đạo, đặc biệt là phía nhà trường đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho người
giáo viên hướng dẫn, truyền đạt kiến thức cho học sinh.
Đa số học sinh, phụ huynh học sinh cũng thấy được tầm quan trọng của việc học
tập để phục vụ cho tương lai, cho nên đa số học sinh cũng có ý thức cao trong việc
học tập và phụ huynh cũng lo lắng quan tâm đến việc học của con cái nhiều hơn.
Đối với trường THPT Vĩnh Bình Bắc, cơ sở vật chất khá đầy đủ, khang trang
có hệ thống đèn quạt, phòng máy tính, thư viện, thiết bị Ban giám hiệu tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động dạy - học của thầy và trò…
1.2. Khó khăn
Cùng với những thuận lợi như đã nói ở trên, thì trong công tác giảng dạy tôi
cũng nhận thấy được nhiều khó khăn-bất cập, nguyên nhân dẫn đến chất lượng của
bộ môn lịch sử ngày càng sa sút.
Tuy nhiên, trong đề tài này tôi chỉ trình bày một cách ngắn gọn một số nguyên
nhân cơ bản nhất dẫn đến tình trạng đó.
Thứ nhất, trong nhận thức chung, chúng ta còn xem nhẹ môn học lịch sử, coi
môn lịch sử là “môn phụ”- không chỉ là là đa số học sinh- cho nên học sinh chưa
thật sự ý thức trong việc học tập môn học này.

GV: Nguyễn Đình Thế- Bộ môn Lịch Sử- Trường THPT Vĩnh Bình Bắc Trang 3
“Một vài biện pháp giúp học sinh phát triển kỹ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử
ở nhà trường phổ thông”
…………………………………………………………………………………………………………………

Thứ hai, chương trình học và việc giảng dạy bộ môn LS còn nhiều vấn đề
tồn tại: chúng ta thấy rằng từ sau đổi mới chương trình và sách giáo khoa được áp
dụng từ năm học 2006-2007 của Bộ Giáo dục và đào tạo thì “dung lượng” kiến
thức nhiều mà “thời lượng” thì quá ít dẫn đến phương pháp giảng dạy thiên về
đọc chép mà ít chú ý đến rèn luyện phát triển khả năng tư duy độc lập của học

sinh.
Thứ ba, nhiều giáo viên bộ môn lịch chưa thập sự tâm huyết với nghề hoặc
năng lực chuyên môn còn hạn chế
Thứ tư, từ những nguyên nhân dẫn đến học sinh “ngán” - không hứng thú
với môn lịch sử, học lịch sử chỉ là để đối phó trong thi cử, nên đa số học sinh, học
lịch sử theo phương pháp “thuộc lòng” “máy móc” và còn nhiều nguyên nhân
khác nữa.
Chính những vấn đề đó mà có những bài thi của học sinh “cười ra nước
mắt”, những bài thi điểm Zéro (0)
2. CƠ SỞ LÍ LUẬN
2.1. Khái niệm
2.1.1. Khái niệm kỹ năng:
Kỹ năng là khả năng ứng dụng tri thức khoa học vào thực tiễn {Từ điển tiếng
Việt}. Có nhiều định nghĩa khác nhau về kỹ năng. Các định nghĩa thường bắt
nguồn từ góc nhìn chuyên môn và quan niệm của mỗi cá nhân . Tuy nhiên hầu hết
chúng ta đều thừa nhận rằng kỹ năng được hình thành khi chúng ta áp dụng tri thức
khoa học vào thực tiễn. Kỹ năng học được do quá trình lặp đi lặp lại một hoặc một
nhóm hành động nhất định nào đó. Kỹ năng luôn có chủ đích và định hướng rõ
ràng.

GV: Nguyễn Đình Thế- Bộ môn Lịch Sử- Trường THPT Vĩnh Bình Bắc Trang 4
“Một vài biện pháp giúp học sinh phát triển kỹ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử
ở nhà trường phổ thông”
…………………………………………………………………………………………………………………

Vậy, Kỹ năng là năng lực hay khả năng của chủ thể thực hiện thuần thục một
hay một chuỗi hành động trên cơ sở hiểu biết (kiến thức hoặc kinh nghiệm)
nhằm tạo ra kết quả mong đợi.
2.1.2. Khái niệm tự học:
Người ta cũng có nhiều quan niệm về tự học, có người cho rằng: Tự học là

học riêng một mình ?
Trong quá trình học tập bao giờ cũng có tự học, nghĩa là tự mình học tập hoặc
hợp tác với bạn (nhóm) học, không có sự giảng dạy một cách trực tiếp của giáo
viên tự bản thân tìm tòi, lao động bằng tri óc để nắm bắt, hiểu một vấn đề, một sự
vật hiện tượng
Vậy, Tự học là quá trình tự mình lao động trí óc để chiếm lĩnh tri thức.
2.1.3. Khái niệm kỹ năng tự học:
Từ hai khái niệm trên, chúng ta thấy rằng kỹ năng tự học là khả năng làm
chủ các hoạt động học tập của bản thân người học một cách đúng đắn khoa học
để đạt hiệu quả mong đợi, như kỹ năng lập được kế hoạch tự học- thời gian địa
điểm học hợp lý, kỹ năng đọc sách, nghe giảng, ghi chép bài người học xác định
được mục tiêu, mục đích, phương pháp học tập một cách hợp lý và đạt hiệu quả
cao.
2.1.4. Khái niệm nhớ:
Nhớ là “ghi vào trong trí óc cho khỏi quên” [Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hoá
thông tin, 2001, tr. 524]. Có nhiều nguyên nhân làm người ta nhớ: lặp đi lặp lại
nhiều lần, thấu hiểu vấn đề, có tình cảm, tình yêu, có ấn tượng mạnh

GV: Nguyễn Đình Thế- Bộ môn Lịch Sử- Trường THPT Vĩnh Bình Bắc Trang 5
“Một vài biện pháp giúp học sinh phát triển kỹ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử
ở nhà trường phổ thông”
…………………………………………………………………………………………………………………

2.2. Sự cần thiết phải phát triển kỹ năng tự học của học sinh trong nhà
trường phổ thông
Trong xu thế phát triển của thời đại và công cuộc cải cách giáo dục của Bộ
Giáo dục và đào tạo, ngành giáo dục hiện nay xác định học sinh là trung tâm, là
người chủ động tích cực và sáng tạo, người giáo viên chỉ đóng vai trò là người
điều khiển hướng dẫn học sinh học tập
Cùng với những bất cập mà tôi đã trình bày ở phần thực trạng về chương trình

trình học lịch sử hiện nay (“dung lượng” kiến thức nhiều mà “thời lượng” thì quá
ít)
Chính vì thế mà người giáo viên dạy học môn lịch sử không thể truyền đạt
cho học sinh một lượng kiến thức “khổng lồ” được mà chỉ có một trong hai cách:
-Một là, giáo viên đọc cho học sinh ghi chép toàn bộ kiến thức cho học sinh-
theo chuẩn kiến thức kỹ năng của Bộ Giáo dục ban hành.
-Hai là, giáo viên giữ vai trò là người hướng dẫn học sinh tự học-tự tìm hiểu
là chính; chỉ giảng giải phân tích một số nội dung trọng tâm cần thiết.
Ta thấy rằng cách thứ nhất là đi ngược lại với xu thế phát triển của khoa học giáo
dục hiện đại và hướng dẫn chỉ đạo của Bộ Giáo dục, vậy cho nên người giáo viên
phải luôn xác định học sinh là trung tâm còn mình là người hướng dẫn học sinh tự
tìm hiểu chiếm lĩnh tri thức. Nhà giáo dục học Usinxki nói rằng: “ nhiệm vụ chủ
yếu của thầy giáo không phải là truyền đạt kiến thức mà dạy cho học sinh biết suy
nghĩ ”.
Như vậy, vấn đề tự học của học sinh là rất quan trọng vì đó là một khâu
trong một quá trình thống nhất của việc dạy học, nhằm phát huy năng lực độc lập tư
duy của các em trên lớp cũng như ở nhà. Điều này xuất phát từ nguyên lý giáo dục
gắn nhà trường với đời sống.

GV: Nguyễn Đình Thế- Bộ môn Lịch Sử- Trường THPT Vĩnh Bình Bắc Trang 6
“Một vài biện pháp giúp học sinh phát triển kỹ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử
ở nhà trường phổ thông”
…………………………………………………………………………………………………………………

Với việc xác định học sinh là trung tâm, giáo viên là người điều khiển,
hướng dẫn học sinh thì người giáo viên đóng vai trò hết sức quan trọng, đó là người
giáo viên phải nắm vững kiến thức của toàn bộ chương trình và phải lập được kế
hoạch giảng dạy khoa học mang tính bao quát và cụ thể- đặc biệt là giáo án trong
từng tiết dạy
2.3. Một số lưu ý khi học sinh tự học

Việc tự học của học sinh là rất quan trọng và đóng vai thành bại kết quả học
tập của người học. Tuy nhiên, khi mới áp dụng cách học này học sinh còn gặp
nhiều khó khăn, bỡ ngỡ và nhiều khi cảm thấy không hiệu quả bằng cách học
truyền thống là thầy đọc- trò chép và về nhà chỉ việc học thuộc lòng những gì thầy
cô cho ghi tại lớp. Cho nên, trong quá trình tự học, học sinh cần lưu ý một số vấn
đề.
- Trước hết, học sinh cần nắm rõ thế nào là tự học; tự học là một chu trình 3
giai đoạn: Tự nghiên cứu, tìm tòi- Tự thể hiện- Tự kiểm tra và điều chỉnh. Chu trình
này thực chất là con đường phát hiện vấn đề, định hướng cách giải quyết và giải
quyết vấn đề học tập.
- Thứ hai, học sinh cần xác định mục tiêu, nội dung học tập. Mục tiêu là cái
đích chúng ta muốn đạt được, từ đó chúng ta mới xác định được nội dung cần học
và xây dựng phương pháp học tập. Chỉ khi nào xác định được mục tiêu-mục đích
thì học mới hiệu quả.
- Thứ ba, học sinh cần xây dựng được kế hoạch học tập một cách khoa học
rõ ràng và cố gắng thực hiện đúng kế hoạch.
- Thứ tư, học sinh phải có phương pháp, cách học hiệu quả. Phương pháp
đúng đắn là chìa khóa đi tới thành công trong học tập.

GV: Nguyễn Đình Thế- Bộ môn Lịch Sử- Trường THPT Vĩnh Bình Bắc Trang 7
“Một vài biện pháp giúp học sinh phát triển kỹ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử
ở nhà trường phổ thông”
…………………………………………………………………………………………………………………

3. BIỆN PHÁP
Trong đề tài này tôi xin đưa ra một vài biện pháp (phương pháp học tập) giúp
học sinh phát triển kỹ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử.
3.1. Tìm ý cơ bản và tập diễn đạt các ý bằng ngôn ngữ của mình
Khi học bài học sinh không nên học nguyên văn trong sách giáo khoa, hoặc
nội dung bài học mà giáo viên chép ở lớp Cách học như vậy mang tính “máy

móc” còn gọi là học “thuộc lòng”, dẫn đến nặng nề, khó hiểu và khó nhớ. Để nhớ
được kiến thức cơ bản, các em nên kết hợp sách giáo khoa, bài giảng của giáo viên,
tập vở Trước hết, học sinh cần phải nhớ các phần, mục chính rồi sau tìm xem mỗi
phần, mục gồm mấy ý chính rồi diễn đạt bằng ngôn ngữ của mình để học. Học
sinh chỉ cần nhớ “ý” chứ không cần thiết nhớ “văn” (có nghĩa học sinh không nhất
thiết phải diễn đạt (nói và viết) giống hệt như sách giáo khoa hoặc như lời giảng
của thầy cô, miễn sao đúng là được).
Ví dụ, khi học diễn biễn một cuộc chiến tranh, một quá trình lịch sử thì nhất
thiết phải nhớ mốc mở đầu, đỉnh cao, kết thúc và một số sự kiện tiêu biểu khác để
nhớ. Cụ thể, khi học Cách mạng tư sản Pháp cuối XVIII: Sự kiện mở đầu
14/7/1789 nhân dân Pari nổi dậy phá ngục Baxti; đỉnh cao: 2/6/1793 phái
Giacobanh lên nắm quyền; sự kiện thoái trào- kết thúc: 27/7/1794- tháng Técmiđo
(tháng Nóng) Để dễ học dễ nhớ hơn, nội dung này chúng ta có thể sơ đồ hóa kiến
thức.
Ý nghĩa thắng lợi của mỗi cuộc cách mạng lớn, mỗi cuộc kháng chiến lớn thường
có ý nghĩa dân tộc và quốc tế, ý nghĩa dân tộc thường có hai ý nhỏ là kết thúc cái gì
và mở ra cái gì; ý nghĩa quốc tế cũng có hai ý nhỏ là tác động đến thù và bạn như
thế nào. Cụ thể, khi học về ý nghĩa thắng lợi của cuộc mạng tháng Tám 1945, cuộc
kháng chiến chống Pháp (1945-1954) hay cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
(1954-1975) chúng ta đều nhận thấy những điểm chung như vậy.

GV: Nguyễn Đình Thế- Bộ môn Lịch Sử- Trường THPT Vĩnh Bình Bắc Trang 8
“Một vài biện pháp giúp học sinh phát triển kỹ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử
ở nhà trường phổ thông”
…………………………………………………………………………………………………………………

Nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng Pháp (1945-1954), có các ý: Đảng và
Bác Hồ, nhân dân, hậu phương và quốc tế.
Trên cơ sơ các ý cơ bản đã chọn, học sinh tập diễn đạt theo ngôn ngữ
của mình. Khi mới học theo phương pháp này học sinh sẽ gặp nhiều khó khăn như

trình bày bài dòng, vấp váp và có khi thiếu chính xác, có thể diễn đạt sai kiến thức.
Tuy nhiên, khi đã tập học theo cách này nhiều, thuần thục trở thành kỹ năng thì rất
dễ học, dễ nhớ và nhớ lâu. Nhà giáo dục Geoffrey Petty người Anh cho rằng: “Đọc
vở ghi chép hay nghe những lời tóm tắt chưa đủ, chính tập nhớ lại mới có tác dụng.
Các kỹ năng trí tuệ và thể chất cũng được lưu giữ tốt nhất bằng cách dùng đi dùng
lại, chứ không phải bằng những phương pháp thụ động”. Khi học tập bằng phương
pháp này học sinh cũng cần tự tổ chức các buổi học nhóm- chỉ cần hai học sinh truy
bài cho nhau để kiểm tra nhau và tự điều chỉnh.
3.2. Sơ đồ
Trong phương pháp học Tìm ý cơ bản và tập diễn đạt theo ngôn ngữ của
mình, khi học sinh tìm ý cơ bản sau đó có thể sơ đồ hóa, công thức hóa đơn vị
kiến thức cho ngắn gọn, đơn giản tránh gây nhiễu giữa những đơn vị nội dung
kiến thức gần giống nhau. Khi sử dụng học bài bằng phương pháp này người giáo
viên đóng vai trò hết sức quan trọng, cần hướng dẫn cụ thể cho học sinh lập sơ đồ
Những nội dung phức tạp hoặc các giai đoạn lịch sử thì giáo viên có thể cung cấp
sẵn cho học sinh rồi hướng dẫn học sinh tự nghiên cứu và phát biểu
Ví dụ, bài Các quốc gia cổ đại phương đông- Lịch sử 10, khi dạy về các giai
cấp, tầng lớp trong xã hội chúng ta có thể lập sơ đồ:
Sơ đồ xã hội cổ đại phương Đông

GV: Nguyễn Đình Thế- Bộ môn Lịch Sử- Trường THPT Vĩnh Bình Bắc Trang 9
Quý tộc
NDCX
Nô lệ
Vua
“Một vài biện pháp giúp học sinh phát triển kỹ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử
ở nhà trường phổ thông”
…………………………………………………………………………………………………………………

Quan sát sơ đồ học sinh kết hợp sách giáo khoa và lời giảng của giáo viên

có thể biết được xã hội cổ đại phương Đông phân hóa thành các tầng lớp:
- Nông dân công xã: là tầng lớp đông đảo nhất và có vai trò to lớn; nhận đất
canh tác và nộp tô thuế.
- Quý tộc: vua, quan, tăng lữ là tầng lớp bóc lột có nhiều của cải và quyền thế.
- Nô lệ: Số lượng không nhiều, chủ yếu phục vụ hầu hạ tầng lớp quý tộc.
Bài Khôi phục và phát triển kinh tế-xã hội miền Bắc, giải phóng hoàn toàn
miền Nam (1973 – 1975)- Lịch sử 12. Cụ thể khi tìm hiểu nội dung Cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy Xuân năm 1975, giáo viên có thể sơ đồ hóa nội dung kiến thức, cụ
thể như sau:
Sơ đồ cấu trúc kiến thức: Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước

GV: Nguyễn Đình Thế- Bộ môn Lịch Sử- Trường THPT Vĩnh Bình Bắc Trang 10
TW Đảng chủ trương, kế hoạch GPMN
trong 2 năm (1975-1976)
-> tranh thủ GP trong 1975
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa
xuân 1975
Cq SG phá hoại HĐ,
tiến hành cd: “Tràn
ngập lãnh thổ”
Đtr chống A.M của Mỹ-Cq
SG, mở các cuộc hành quân
QS, c.thắng PL(6/1/1975)
Cd Huế-Đà Nẵng
(21 -> 29/3)
Cd Tây Nguyên
(4 -> 24/3)
Cd Hồ Chí Minh
(26 -> 30/4)
30/4/1975 MNGP, cuộc kháng Mỹ cứu

thắng lợi hoàn toàn 2/5/1975
Nguyên nhân thắng lợi
Ý nghĩa lịch sử
MN sau HĐ Pari
“Một vài biện pháp giúp học sinh phát triển kỹ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử
ở nhà trường phổ thông”
…………………………………………………………………………………………………………………

Qua sơ đồ này, học sinh dễ dàng nắm được một cách khái quát nội dung kiến
thức này có hệ thống và lôgíc, từ đó học sinh triển khai, diễn đạt đầy đủ nội dung
kiến thức trên cơ sở sơ đồ này. Học sinh sẽ khái quát được những sự kiện- nội
dung:
- Âm mưu và hành động của Mỹ và chính quyền Sài Gòn sau Hiệp định Pari
- Chủ trương và hành động của ta sau Hiệp định Pari đến khi giải phóng hoàn
toàn miền Nam
- Diễn biễn của các chiến dịch: Tây Nguyên, Huế-Đà Nẵng, Hồ Chí Minh
- Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa của cuộc kháng Mỹ cứu nước (1954-
1975).
Hoặc, khi giảng dạy và học về các loại hình chiến tranh xâm lược Việt Nam
của Đế quốc Mỹ- Lịch sử 12, chúng ta có thể công thức hóa đơn vị kiến thức. Cụ
thể, chiến lược chiến tranh cục bộ (1965-1968) của Mỹ thực hiện ở Việt Nam,
chúng ta có lập theo công thức:
Với việc lập công thức này, học sinh rất dễ dàng nắm được nội dung các
chiến lược chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ.
Bên cạnh việc lập sơ đồ, công thức chúng ta còn có thể lập dàn ý theo dạng
cành cây, lập niên biểu, biểu đồ Có thể nói rằng, áp dụng phương pháp dạy học
này giúp học sinh có thể độc lập tư duy và từng bước rèn luyện kỹ năng tự học
ngày càng hiệu quả hơn.
3.3. So sánh :


GV: Nguyễn Đình Thế- Bộ môn Lịch Sử- Trường THPT Vĩnh Bình Bắc Trang 11
CL CTCB = LL Ngụy + (LL viễn chinh+đồng minh+PTCT+ đô la ) Mỹ
“Một vài biện pháp giúp học sinh phát triển kỹ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử
ở nhà trường phổ thông”
…………………………………………………………………………………………………………………

So sánh cũng là cách học hiệu quả để ghi nhớ kiến thức, trong lịch sử có
những đơn vị nội dung kiến thức tương đồng hoặc tương phản Học sinh có thể so
sánh về đơn vị nội dung kiến thức, về sự kiện, số liệu, các nhân vật lịch sử, so sánh
về thuật ngữ gần giống nhau nhưng nội dung hoàn toàn khác nhau so sánh theo
cặp phạm trù hoặc lập bảng và điều đó giúp học sinh tránh tình trạng “râu ông nọ
cắm cằm bà kia” trong trình bày- diễn đạt. Với cách học này, học sinh chúng ta đưa
các nội dung kiến thức lại gần với nhau từ đó nhận rõ hai nội dung đơn vị kiến thức
đó có điểm gì chung nhất và điểm khác biệt nào cần nhớ rõ, từ đó học sinh có thể
học một mà biết được hai và đạt hiệu quả cao hơn.
Tìm hiểu về đơn vị- nội dung kiến thức tương đồng hoặc tương phản, ví dụ:
đường lối cách mạng của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh (đầu thế kỷ XX), học
sinh cần lập bảng so sánh điểm giống nhau và khác nhau về xu hướng cách mạng
của hai vị lãnh tụ này. Cụ thể, chúng ta có thể lập bảng như sau:
Bảng so sánh xu hướng hai xu hướng cách mạng bạo động và cải cách đầu
thế kỷ XX
Xu hướng
cách mạng
PHAN BỘI CHÂU
Xu hướng bạo động
PHAN CHÂU TRINH
Xu hướng cải cách
Giống nhau - Xuất phát từ lòng yêu nước, muốn giành độc lập cho quê
hương đất nước;
- Dùng sách báo để tuyên truyền thức tỉnh đồng bào

=> Đó là xu hướng cách mạng tiến bộ theo khuynh hướng
dân chủ tư sản.
Khác nhau
*Chủ trương
*Phương pháp
-Thành lập Hội Duy tân,
phát động phong trào Đông
Du, nhờ Nhật giúp đỡ
-Sử dụng bạo lực cách mạng
- Nhờ Pháp giúp đỡ để khai
thông dân trí, phát triển đất
nước
- Tiến hành cải cách duy tân

GV: Nguyễn Đình Thế- Bộ môn Lịch Sử- Trường THPT Vĩnh Bình Bắc Trang 12
“Một vài biện pháp giúp học sinh phát triển kỹ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử
ở nhà trường phổ thông”
…………………………………………………………………………………………………………………

để đánh thực dân Pháp trên các lĩnh vực KT-GD-VH
Hoặc khi tìm hiểu về nguyên nhân phát triển kinh tế của Mĩ và Nhật sau
chiến tranh thế giới thứ hai, chúng ta thấy rằng hầu hết các nguyên nhân cơ bản là
giống nhau, chỉ có điều sách giáo khoa và các tài liệu thường không sắp xếp các
nguyên nhân một cách thuận tiện cho người học, khi học học sinh nên lập bảng và
trình bày 5 nguyên nhân của Mĩ và 6 nguyên nhân của Nhật bằng sắp xếp tương
đồng theo từng ý phù hợp. Cụ thể, học sinh lập bảng như sau:
Bảng so sánh các nhân tố thúc đẩy nền kinh tế Mỹ - Nhật Bản phát triển sau
Chiến tranh thế giới thứ hai 1945 đến những năm đầu thập niên 70 thế kỷ XX.
Nguyên nhân phát triển kinh tế Mỹ Nguyên nhân phát triển kinh tế
Nhật Bản

1) Áp dụng thành tựu KHKT
2) Lãnh thổ Mỹ rộng lớn (Điều kiện
tự nhiên- khách quan )
3) Mỹ lợi dụng chiến tranh để làm
giàu
4) Các tổ hợp công ty Công nghiệp
quân sự, các công ty độc quyền có
sức cạnh tranh lớn và hiệu quả ở cả
trong và ngoài nước
5) Các chính sách và biện pháp điều
tiết của Nhà nước đóng vai trò quan
trọng
1) Áp dụng thành tựu KHKT
2) Con người được coi là vốn
quý nhất, là nhân tố quyết định
hàng đầu (Con người- Khách
quan )
3) Chi phí cho quốc phòng
thấp
4) Các công ty Nhật năng động,
có tầm nhìn xa, quản lí tốt nên
có tiềm lực và tính cạnh tranh
cao
5) Vai trò lãnh đạo, quản lý có
hiệu quả của Nhà nước
6) Tận dụng các yếu tố bên
ngoài:nguồn viện trợ


GV: Nguyễn Đình Thế- Bộ môn Lịch Sử- Trường THPT Vĩnh Bình Bắc Trang 13

“Một vài biện pháp giúp học sinh phát triển kỹ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử
ở nhà trường phổ thông”
…………………………………………………………………………………………………………………

Từ bảng so sánh trên, học sinh có thể nhận thấy rằng nguyên nhân phát triển kinh
tế Mỹ và Nhật Bản sau năm 1945 cơ bản là giống từ 1,3,4,5 (6), chỉ có nguyên
nhân thứ 2 là có sự khác biệt: Mỹ (điều kiện tự nhiên thuận lợi); Nhật Bản (Con
người là vốn quý- kỷ luật lao động, năng động, sáng tạo, giàu nghị lực )
Trong quá trình học và tự học chúng ta cần có sự so sánh để dễ dàng chiếm lĩnh
tri thức; ví dụ: Cương lĩnh chính trị (2/1930) với Luận cương (10/1930); Hiệp định
Giơnevơ (21/7/1954) với Hiệp định Pari (27/1/1973), Tổ chức Liên Hợp quốc với
tổ chức ASEAN
Học lịch sử có rất nhiều số liệu và ngày tháng khó nhớ, nhưng chúng ta nếu biết
vận dụng tìm những điểm chung tương đối và đưa ra so sánh thì một số sự kiện ghi
nhớ rất đơn giản. Ví dụ, từ khi Đức đánh bại Pháp (22/6/1940) đến khi Đức tấn
công Liên Xô (22/6/1941) là đúng một năm trời và một năm cũng là thời gian từ
khi tướng Nava được cử làm Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương
(7/5/1953) đến khi tướng Đờ Cátơri đầu hàng ở Điện Biên phủ (7/5/1954). Số
người chết và bị thương trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai lần lượt là:
10 - 20 triệu => 60 - 90 triệu
Trong thực tế có rất nhiều đơn vị kiến thức nội dung có mà chúng ta có thể áp
dụng đưa vào so sánh để học một cách hiệu quả.
3.4. Sử dụng tranh ảnh, lược đồ-bản đồ:
Sử dụng tranh ảnh, lược đồ thường gây ấn tượng mạnh cho học sinh, ấn
tượng mạnh là một trong những nguyên nhân giúp học sinh ghi nhớ kiến thức một
cách sâu sắc hơn. Ví dụ, bức tranh biếm hoạ: “Tình cảnh người nông dân Pháp
trước cách mạng” ( “Chà, tình cảnh này đến chừng nào mới chấm dứt” ) sẽ giúp
học sinh nhớ ngay đến nỗi thống khổ của người nông dân Pháp trước cách mạng
1789, đó cũng là một nguyên nhân dẫn đến bùng nổ cách mạng tư bản Pháp. Hình
ảnh “Quyết tử quân Hà Nội ôm bom ba càng đón đánh xe tăng Pháp”, sẽ làm học


GV: Nguyễn Đình Thế- Bộ môn Lịch Sử- Trường THPT Vĩnh Bình Bắc Trang 14
“Một vài biện pháp giúp học sinh phát triển kỹ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử
ở nhà trường phổ thông”
…………………………………………………………………………………………………………………

sinh hiểu sâu sắc sự “cảm tử” anh dũng hi sinh của các Trung đoàn thủ đô trong
những ngày đầu kháng Pháp ở Hà Nội ( ôm bom đánh địch ). Sử dựng lược đồ:
“Cuộc chiến đấu của ta ở các đô thị phía bắc vĩ tuyến 16”, học sinh sẽ dễ dàng nhớ
kiến thức và xác định các đô thị: Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Giang, Bắc Ninh, Nam
Định, Vinh, Huế, Đà Nẵng
Tranh ảnh, lược đồ-bản đồ là phương tiện dạy và học, là một kênh thông tin
hết sức quan trọng, là hình ảnh trực quan sinh động giúp học sinh hứng thú hơn
trong học tập và góp phần rất quan trọng trong việc ghi nhớ kiến thức của học sinh.
3.5. Thực hành, luyện tập:
Thực hành luyện tập được ví như chiếc cầu “đưa tri thức chuyển tới năng
lực” vì nó không chỉ giúp học sinh hiểu sâu mà còn nhớ lâu kiến thức. Bác Hồ kính
yêu của chúng ta từng nói “Học đi đôi với hành” “lý luận gắn liền với thực tiễn”
Thành ngữ Trung Quốc cũng có câu “Tôi nghe, thì tôi quên. Tôi thấy, thì tôi nhớ.
Tôi làm , thì tôi hiểu ”. Từ “học tập” là gồm hai động từ “học” và “tập” ; “học” là
quá trình ở lớp giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu kiến thức mới, “tập” là thực
hành, luyện tập ở nhà của học sinh.Trong đó “tập” bao gồm nhiều hoạt động khác
nhau của học sinh: tập tìm các ý cơ bản, tập diễn đạt, làm bài tập, vẽ lược đồ, sơ đồ,
lập bảng so sánh, tìm tài liệu, đọc sách tham khảo, trao đổi với ban Trong các
môn khoa học tự nhiên thì luyện tập là công việc thường xuyên, nhưng trong các
môn khoa học xã hội, đặc biệt là môn lịch sử thì rất hiếm, mà có yêu cầu học sinh
thì giáo viên cũng không có thời gian để kiểm tra sữa chữa nên cũng chưa thật hiệu
quả Như vậy, học tập thì học sinh cần phải tự thực hành luyện tập nhiều, đấy là
điều tối quan trọng để học sinh nhớ lâu kiến thức, nâng cao hiểu quả học tập.
Ngoài ra còn nhiều cách ghi nhớ khác nữa như: chuyện kể, bài hát, bài thơ,

nhớ theo ngày sinh, số điện thoại, số nhà, tên gọi

GV: Nguyễn Đình Thế- Bộ môn Lịch Sử- Trường THPT Vĩnh Bình Bắc Trang 15
“Một vài biện pháp giúp học sinh phát triển kỹ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử
ở nhà trường phổ thông”
…………………………………………………………………………………………………………………

4. KẾT QUẢ THỰC HIỆN
Qua gần sáu năm dạy học lịch sử ở nhà trường phổ thông, tôi nhận tấy rằng
cách học của đa số học sinh trong môn học lịch sử là hết sức thụ động, thầy cô
giảng dạy như thế nào là về nhà học thuộc lòng “máy móc” như thế mà ít chịu
nghiên cứu tìm tòi, dẫn đến những kết quả không mong đợi- học sinh ngày càng
ngán học môn lịch sử và kết quả ngày càng thấp. Với tình hình như vậy, trong dạy
học tôi đã vận dụng nhiều phương pháp nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh
cũng như hướng dẫn đổi mới phương pháp học tập cho học sinh. Qua nghiên cứu
tài liệu, học hỏi và rút kinh nghiệm từ bản thân tôi thấy rằng việc tự giác học tập
của học sinh là rất quan trọng, đồng thời tự học cũng phải có phương pháp, khi tôi
đưa những phương pháp đã nêu trên hướng dẫn học sinh tự học thì học sinh rất
hứng thú và kết quả ngày càng đáng khích lệ.
BẢNG THỐNG KÊ KẾT QUẢ NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH
*Năm học 2010-2011:
Lớp- sĩ số Giỏi (%) Khá(%) Trung bình(%) Yếu kém(%)
10A – 42 3- 7.1 25 - 59.5 11 - 26.2
3 - 7.1
10B – 41 2- 4.3 14 -29.8 11 - 23.4
20 - 42.6
Tổng -

GV: Nguyễn Đình Thế- Bộ môn Lịch Sử- Trường THPT Vĩnh Bình Bắc Trang 16
“Một vài biện pháp giúp học sinh phát triển kỹ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử

ở nhà trường phổ thông”
…………………………………………………………………………………………………………………

*Năm học 2011-2012:
Lớp -sĩ số Giỏi(%) Khá(%) Trung bình(%) Yếu kém(%)
11/3 -39
11/4 -40
Tổng-
III. PHẦN KẾT LUẬN
Có thể nói rằng, việc phát triển kỹ năng tự học cho học sinh đóng vai trò tối
quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả học tập, là ngọn đèn lớn soi sáng người đi
trong đêm tối, "thiếu phương pháp người có tài cũng không đạt kết quả, có phương
pháp đúng thì người bình thường cũng làm được việc phi thường".
Trong học tập hay bất kỳ một công việc gì đều phải ứng dụng các cách thức
phương pháp phù hợp mới dẫn bạn đi đến thành công và mình phải là người chủ
động tìm tòi nghiên cứu. Cho nên, học sinh phải luôn phải tự trau dồi kiến thức, tìm
kiếm cho mình những phương pháp đúng và bồi dưỡng rèn luyện thuần thục trở
thành kỹ năng cơ bản, nhất là “kỹ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử”.
Việc tự học của học sinh phải được tiến hành với sự hứng thú say mê và ý thức
trách nhiệm tinh thần lao động cần cù. Trong việc tự học, điều quan trọng đối với
học sinh không chỉ là ghi nhớ, nắm vững, hiểu sâu kiến thức mà còn hình thành ở
các em tư cách, phẩm chất của người lao động- kiên nhẫn, độc lập, tự tin và sáng
tạo.
( Quả thật, khi học lịch sử bằng những phương pháp như vậy chúng ta thấy
sự tiến bộ rõ rệt và học cũng đỡ ngán lịch sử hơn mà còn cảm thấy thú vị " Phương
pháp chính là linh hồn của nội dung đang vận động"./.)*

GV: Nguyễn Đình Thế- Bộ môn Lịch Sử- Trường THPT Vĩnh Bình Bắc Trang 17
“Một vài biện pháp giúp học sinh phát triển kỹ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử
ở nhà trường phổ thông”

…………………………………………………………………………………………………………………

Người viết
NGUYỄN ĐÌNH THẾ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “Một số kỹ năng cần thiết dành cho học sinh trung học phổ thông”. NXB
GD - Ths: Trần Minh Quốc và Ths: Bùi Ngọc Diệp.
2. “Nghiên cứu, giảng dạy lịch sử trong bối cảnh hội nhập quốc tế ” Tiến sĩ
Tưởng Phi Ngọ.
3. “Phương pháp dạy học lịch sử”. NXB GD - Phan Ngọc Liên và Trần Văn
Trị.
4. “Đổi mới dạy học theo khoa học giáo dục hiện đại”. NXB ĐHSP Hồ Chí
Minh – Lê Vinh Quốc.
5. Lịch Sử 10 - SGK, SGV, Chuẩn KT-KN
6. Lịch Sử 11 - SGK, SGV, Chuẩn KT-KN
7. Lịch Sử 12 - SGK, SGV, Chuẩn KT-KN

GV: Nguyễn Đình Thế- Bộ môn Lịch Sử- Trường THPT Vĩnh Bình Bắc Trang 18
“Một vài biện pháp giúp học sinh phát triển kỹ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử
ở nhà trường phổ thông”
…………………………………………………………………………………………………………………

MỤC LỤC
I. Phần mở đầu Trang 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 1
3. Phương pháp nghiên cứu 2
II. Phần nội dung 3
1. Thực trạng 3
1.1. Thuận lợi 3

1.2. Khó khăn 3
2. Cơ sở lý luận 4
2.1. Khái niệm 4
2.1.1. Khái niệm kỹ năng 4
2.1.2. Khái niệm tự học 5
2.1.3. Khái niệm kỹ năng tự học 5
2.1.4. Khái niệm nhớ 5
2.2. Sự cần thiết phải phát triển kỹ năng tự học của học sinh trong nhà
trường phổ thông 6
2.3. Một số lưu ý khi học sinh tự học 7
3. Biện pháp 8

GV: Nguyễn Đình Thế- Bộ môn Lịch Sử- Trường THPT Vĩnh Bình Bắc Trang 19
“Một vài biện pháp giúp học sinh phát triển kỹ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử
ở nhà trường phổ thông”
…………………………………………………………………………………………………………………

3.1. Tìm ý cơ bản và tập diễn đạt các ý bằng ngôn ngữ của mình 8
3.2. Sơ đồ 9
3.3.So sánh 11
3.4. Sử dụng tranh ảnh, lược đồ-bản đồ 14
3.5. Thực hành, luyện tập 15
4. Kết quả 16
III. Kết luận 17
Tài liệu tham khảo 18
Mục lục 19


GV: Nguyễn Đình Thế- Bộ môn Lịch Sử- Trường THPT Vĩnh Bình Bắc Trang 20

×