Nguyên tắc cơ bản của luật lao động là những nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo
quán triệt và xuyên suốt toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật lao động trong
việc điều chỉnh các quan hệ xã hội về sử dụng lao động. Để phát huy trí sáng tạo và
tài năng của người lao động góp phần phát huy sức sáng tạo và tài năng của người
lao động trí óc và lao động chân tay; người quản lý lao động, nhằm đạt năng suất,
chất lượng và tiến bộ trong sử dụng và quản lý lao động pháp luật lao động đã quy
định nguyên tắc đảm bảo và tôn trọng sự thỏa thuận hợp pháp giữa các bên trong
lĩnh vực lao động.
1. Cơ sở xác định nguyên tắc.
Thỏa thuận hợp pháp của các bên là những thỏa thuận hoàn toàn bình đẳng, tự
nguyện, trên cơ sở tương quan lao động và điều kiện thực tế, không trái pháp luật
và các giá trị xã hội…về quyền, nghĩa vụ, lợi ích, trách nhiệm của mỗi bên trong
quá trình tham gia lao động và sử dụng lao động.
Nguyên tắc này được xác định trước hết là do yêu cầu khách quan của nền kinh
tế thị trường. Để hình thành thị trường sức lao động, luật lao động không thể xác
định những quyền và nghĩa vụ cụ thể, chi tiết, có tính bắt buộc đối với các bên
trong quan hệ lao động. Thay vào đó, những quy định có tính bắt buộc chung,
mang tính định hướng, định mức và định khung vừa đáp ứng được yêu cầu chung
của sự điều chỉnh pháp luật, vừa tạo điều kiện cho các bên được tự do cạnh tranh
trên thị trường.
Ngoài ra, sự đa dạng, phong phú về ngành nghề, lĩnh vực…của nền kinh tế thì
đòi hỏi về nhu cầu tự thỏa thuận trên cơ sở tương quan lao động và điều kiện thực
tế về năng lực, trình độ, tay nghề…là nhu cầu bức thiết của các bên trong quan hệ
lao động. Xuất phát từ bản chất của quan hệ lao động là tự do thương lượng, nên
khi tham gia vào quan hệ lao động các bên cùng nhau thỏa thuận các vấn đề liên
quan trong quá trình lao động trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng nhằm đảm bảo cho
hai bên cùng có lợi và tạo điều kiện để các bên thực hiện tốt nghĩa vụ của mình. Do
1
đó, khi thiết lập quan hệ lao động và các quan hệ liên quan khác, các bên phải căn
cứ vào những quy định chung của pháp luật, căn cứ vào tương quan, điều kiện của
mình để thỏa thuận với bên kia các quyền và nghĩa vụ cụ thể. Pháp luật lao động
phải đảm bảo cho các bên có quyền tự do thỏa thuận vì điều đó không chỉ là nhu
cầu của các bên mà nó còn hợp thành cơ chế điều chỉnh quan hệ lao động trong
nền kinh tế thị trường.
2. Nội dung của nguyên tắc.
Với quyền tự do việc làm và tự do thuê mướn lao động đã được pháp luật ghi
nhận, các bên của quan hệ việc làm, học nghề, các bên của quan hệ lao động đều
có quyền tự do thỏa thuận về nội dung quan hệ lao động. Trong quá trình thực hiện
quyền và nghĩa vụ, họ có thể thỏa thuận lại nếu những nội dung đã được xác định
ban đầu không còn phù hợp. Nếu một bên gây thiệt hại cho bên kia, họ cũng có thể
thỏa thuận vấn đề bồi thường. Khi có tranh chấp, việc thỏa thuận giải quyết thông
qua thương lượng, hòa giải là những cơ chế được ưu tiên áp dụng và được các cơ
quan có thẩm quyền tôn trọng.
Do đặc điểm người lao động bị phụ thuộc vào người sử dụng lao trong quan hệ
lao động nên thông thường những thỏa thuận giữa cá nhân người lao động và
người sử dụng lao động có nguy cơ bị người sử dụng lao động chi phối dẫn đến
khả năng không bình đẳng, tự nguyện thì nhu cầu được thỏa thuận tập thể của các
bên cũng đã được pháp luật lao động ghi nhận thông qua chế định thỏa ước lao
động tập thể. Thỏa ước lao động tập thể là cơ sở pháp lý chủ yếu để từ đó hình
thành nên mối quan hệ lao động có tính tập thể, tạo nên sự công đồng trách nhiệm
của cả hai bên trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh trên cơ sở pháp
luật lao động. Ngoài ra, nó còn tạo điều kiện để người lao động bằng sự thương
lượng, mặc cả, thông qua sức mạnh của cả tập thể với người sử dụng lai động để có
thể hưởng những lợi ích cao hơn so với sự quy định trong pháp luật.
2
Thực hiện ký thỏa ước lao động tập thể điều hòa lợi ích, hạn chế cạnh tranh
không cần thiết, tạo ra những điều kiện cho sự gắn bó chặt chẽ giữa người lao động
và người sử dụng lao động. Thỏa ước lao động tập thể là cơ sở pháp lý quan trọng
để xem xét giải quyết tranh chấp lao động tập thể khi có tranh chấp lao động tập
thể xảy ra. Thỏa ước lao động tập thể nếu được ký hết đúng đắn, trên cơ sở bình
đẳng, tự do thương lượng, hợp tác sẽ là nguồn quy phạm thích hợp tại chỗ bổ sung
cho nội quy doanh nghiệp, tăng cường kỷ luật trong doanh nghiệp và còn là cơ sở
pháp lý quan trọng để doanh nghiệp tiến hành ký hợp đồng lao động với người lao
động, phù hợp với điều kiện, khả năng của doanh nghiệp, đảm bảo quyền lợi của
hai bên.
Quyền tự do thỏa thuận của các bên đã được pháp luật lao động ghi nhận rộng
rãi đối với hầu hết các quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của luật lao động. Nó
được thể hiện trong Điều 9 Bộ luật lao động và nhiều các chế định khác của luật
lao động như các chế định: việc làm, học nghề, thỏa ước lao động tập thể, thời giờ
làm việc...Đó là biểu hiện của quan hệ hợp tác giữa hai bên trên cơ sở cùng có lợi
và là nền tảng của sự hợp tác ba bên.
3. Ý nghĩa của nguyên tắc.
Nguyên tắc đảm bảo và tôn trọng sự thỏa thuận hợp pháp của các bên trong
lĩnh vực lao động là một nguyên tắc có lợi cho người lao động. Nguyên tắc này tạo
cho người lao động cơ hội để thực hiện được quyền của mình đầy đủ hơn và mang
lại cho họ những lợi ích nhất định khi tham gia vào quan hệ lao động.
Nguyên tắc này tạo ra một thị trường lao động lành mạnh, không có sự bất
bình đẳng giữa các bên, các bên được tự do thỏa thuận những điều kiện có lợi cho
mình mà vẫn đem lại những lợi ích cho nền kinh tế nói riêng và cho xã hội nói
chung.
3
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật lao động, Nxb. Công An Nhân
Dân, Hà Nội, 2009.
2. Bộ Luật lao động 1994, sửa đổi, bổ sung năm 2002, 2006 và 2007.
4