I. GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ:
Một trong những nguyên tắc quan trọng nhất để giải quyết các vấn đề tranh chấp
giữa các quốc gia là nguyên tắc không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan
hệ quốc tế. Nguyên tắc này được áp dụng để giải quyết các tranh chấp về lãnh thổ, khai
thác sử dụng biển, nhân quyền...Nên việc tuân thủ nguyên tắc này là điều hết sức cần
thiết cho sự ổn định, phát triển trong hòa bình an ninh của thế giới.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ
quốc tế có thể tồn tại dưới cả hai hình thức là quy phạm điều ước và quy phạm
tập quán. Tại vì:
Trước tiên chúng ta cần tìm hiểu tập quán quốc tế và điều ước quốc tế là gì?
“Tập quán quốc tế là hình thức pháp lý chứa đựng quy tắc xử sự chung, hình
thành trong thực tiễn quan hệ quốc tế và được các chủ thể luật quốc tế là luật.”
Theo cách tiếp cận của Công ước Viên 1969 về Luật Điều ước quốc tế ký kết giữa
các quốc gia và các quy định của luật quốc tế hiện hành thì: “Điều ước quốc tế là sự thỏa
thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và các chủ thể của luật quốc tế
và được luật quốc tế điều chỉnh, không phụ thuộc vào việc thỏa thuận đó được ghi nhận
trong một văn kiện duy nhất hay hai hoặc nhiều văn kiện có quan hệ với nhau, cũng như
không phụ thuộc vào tên gọi cụ thể của những văn kiện đó.”
- Thứ nhất: Nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ
quốc tế có thể tồn tại dưới hình thức là quy phạm tập quán. Tại vì: nguyên tắc này có một
quá trình hình thành và phát triển theo xu hướng ngày càng tiến bộ, dần dần phát triển và
trở thành một nguyên tắc rất quan trọng trong luật quốc tế hiện nay. Theo Hiệp ước Paris
năm 1928 về Khước từ chiến tranh như một công cụ của chính sách quốc gia lần đầu tiên
đã chỉ rõ: “ Các quốc gia thành viên lên án việc sử dụng chiến tranh để giải quyết các
tranh chấp và xung đột quốc tế và cam kết không dùng chiến tranh như một công cụ quốc
sách trong quan hệ với nhau”. Đây là bước đi quan trọng đầu tiên trong việc hình thành
nguyên tắc này với tư cách là “quy phạm tập quán”.
- Thứ hai: Nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ
quốc tế có thể tồn tại dưới hình thức là quy phạm điều ước. Tại vì nguyên tắc này đã
1
được quy định cụ thể tại khoản 4 Điều 2 Hiến chương Liên hợp quốc:“Tất cả các Thành
viên từ bỏ việc đe dọa hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế nhằm chống lại sự toàn
vẹn lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào, hoặc bằng cách khác trái
với những Mục đích của Liên Hiệp Quốc.”. Sau này, nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe
dọa dùng vũ lực trong Hiến chương đã được cụ thể hóa trong một loạt các văn bản quốc
tế quan trọng được thông qua trong khuôn khổ Liên hợp quốc.
Đồng thời, Xét về “mối quan hệ giữa tập quán quốc tế và điều ước quốc tế” thì
chúng ta có thể thấy rằng: tập quán quốc tế có vị trí độc lập so với điều ước quốc tế và
các hình thức tồn tại khác của luật quốc tế). Nhưng giữa chúng lại có mối quan hệ biện
chứng và tác động quan lại với nhau. Biểu hiện của mối quan hệ này là: “Sự tồn tại của
một điều ước quốc tế không có ý nghĩa loại bỏ giá trị áp dụng của tập quán quốc tế tương
đương về nội dung, mặc dù điều ước quốc tế có những ưu thế so với tập quán quốc tế
( như tính rõ ràng, khả năng hình thành nhanh và áp dụng thuận lợi);...”
Vì vậy: Dựa trên cơ sở những quy phạm của luật tập quán có cùng nội dung với
luật quy định trong Hiến chương Liên Hợp Quốc. Trong quan hệ quốc tế có tồn tại một số
quy phạm hỗn hợp, là loại quy phạm có thể tồn tại dưới cả hai hình thức quy phạm điều
ước và quy phạm tập quán. Ví dụ: Nguyên tắc “tự do biển cả” được quy định tại Điều 87
trong Luật biển quốc tế năm 1982.
2. Theo em trong trường hợp trên, nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa
dùng vũ lực sẽ được áp dụng với tính chất là quy phạm tập quán. Tại vì:
Dựa vào đặc điểm và các yếu tố cấu thành lên quy phạm tập quán thì chúng ta
thấy rằng: sự hình thành một tập quán quốc tế hoặc sự áp dụng một quy tắc với giá trị là
tập quán quốc tế dựa trên hai yếu tố:
- Yếu tố vật chất: đây là sự tồn tại thực tiễn quốc tế, tức phải có quy tắc xử sự
được hình thành trong thực tiễn quan hệ của các quốc gia. Nó bao gồm cả những quy tắc
hình thành từ thực tiễn ký kết, thực hiện điều ước quốc tế hay các thực tiễn khác. Ví dụ:
giải quyết tranh chấp, áp dụng nghị quyết của tổ chức quốc tế,…
- Yếu tố tinh thần: là sự thừa nhận của chủ thể luật quốc tế đối với các quy tắc xử
sự đã hình thành là quy phạm luật quốc tế.. Ví dụ: Việc Mỹ mang quân vào Campuchia
năm 1970, vào Grenada năm 1983…thực chất là vi phạm nguyên tắc không dùng vũ lực và
2
đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Những hành vi này đã bị cộng đồng quốc tế
phản đối gay gắt vì nó vi phạm luật quốc tế, đi ngược lại xu thế chung của thời đại.
Theo khoản 1 Điều 38 của Quy chế Tòa án quốc tế quy định về nhiệm vụ của tòa
án là giải quyết các vụ tranh chấp được chuyển đến tòa án trên cơ sở công pháp quốc tế:
Các tập quán quốc tế với tính chất là những chứng cứ thực tiễn chung được thừa nhận
nhưu những quy phạm pháp luật, và những nguyên tắc đã hình thành từ lâu đời được các
quốc gia văn mình thừa nhận. Như vậy,
Tòa án Công lý quốc tế hoàn toàn có thẩm quyền vì đơn kiện của Nicaragoa họ
chống lại Mỹ dựa trên cơ sở những quy phạm của luật tập quán có cùng nội dung với luật
quy định trong Hiến chương Liên Hợp Quốc. Những quy định của luật tập quán quốc tế
không bị “bao hàm” và “bị gián đoạn” bởi các quy phạm của luật điều ước quốc tế đặc
biệt các quy định của Hiến chương Liên hợp quốc.
Theo em, trong các lĩnh vực luật liên quan đến tranh chấp này, không thể tuyên
bố tất cả các quy phạm tập quán có thể được viện dẫn đều có nội dung giống hệt các quy
phạm chứa trong điều ước vốn không thể áp dụng, Mỹ đã có bảo lưu về thẩm quyền của
Tòa án Công lý quốc tế trong các vụ liên quan đến áp dụng điều ước đa phương:“Các
trường hợp hành động” không thống nhất với opinion juris cấm sử dụng vũ lực là can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau được xem là vi phạm các quy định này và do đó
không thể gạt bỏ đươc việc tìm kiếm những thực tiễn chung khẳng định opinio juris này.
Đồng thời, trong vụ các hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragoa và chống
lại Nicaragoa, Tòa án quốc tế đã đưa ra nhận định (cũng có thể coi là lời giải thích cho vị
trí của tập quán quốc tế trong trường hợp này) rằng “việc các nguyên tắc tập quán được
pháp điển hóa hoặc được đưa vào các điều ước quốc tế đa phương không thể nói rằng
chúng đã chấm dứt tồn tại và được áp dụng như là những nguyên tắc của tập quán quốc
tế, ngay cả với các quốc gia là thành viên của công ước đó”.
III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ:
Thực tiễn quan hệ quốc tế ngày nay đã minh chứng rằng, mỗi quốc gia có một vai
trò nhất định trong quá trình “sáng tạo” quy phạm Luật Quốc tế. Điều đó là hoàn toàn
hợp lý, vì địa vị pháp lý khác nhau của từng quốc gia trên trường quốc tế và bên cạnh đó
chính là lợi ích khác nhau mà do chính quan hệ quốc tế đó mang đến cho mỗi quốc gia.
3