Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

tác động của khủng hoảng kinh tế đến các biến số kinh tế vĩ mô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.49 KB, 21 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ĐỘC LẬP – TỰ DO – HẠNH PHÚC
************************
BIÊN BẢN HỌP NHÓM LẦN 1
Thời gian: 16h00 ngày 31/5/2015
Phạm Thị Kim Oanh, Nguyễn Xuân Hải, Trần Ngọc Hưng, Trần Thị Phương Bình,
Hoàng Xuân Hùng, Nguyễn Đức Anh, Giang Thị Thu Hằng, Vũ Thị Thanh Hiền,
Phạm Văn Lợi.Nội dung họp:
- Chọn nhóm trưởng, thư ký: nhóm thống nhất ý kiến chọn Oanh làm nhóm trưởng,
Hằng làm thư ký
- Đề tài nghiên cứu: Nếu xảy ra khủng hoảng kinh tế tại Việt Nam sẽ ảnh hưởng đến
các biến số kinh tế vĩ mô như thế nào? Biện pháp, chính sách mà Chính phủ cần thực
hiện để đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng
- Yêu cầu các thành viên trong nhóm tìm kiếm, thu thập tài liệu có liên quan
- Lập Facebook của nhóm để các thành viên trao đổi các vấn đề nghiên cứu.
Ngày 31 tháng 5 năm 2015
Trưởng nhóm Thư ký
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ĐỘC LẬP – TỰ DO – HẠNH PHÚC
************************
BIÊN BẢN HỌP NHÓM LẦN 2
Chủ trì: Phạm Thị Kim Oanh – Trưởng nhóm
Thời gian: 19h30 ngày 2/6/2015
Phạm Thị Kim Oanh, Nguyễn Xuân Hải, Trần Ngọc Hưng, Trần Thị Phương Bình,
Hoàng Xuân Hùng, Nguyễn Đức Anh, Giang Thị Thu Hằng, Vũ Thị Thanh Hiền,
Phạm Văn Lợi.
Nội dung họp:
- Các thành viên trình bày các ý kiến góp ý về đề tài thông qua tài liệu nghiên cứu
được.
- Các thành viên góp ý về các phần nội dung tiểu luận
- Phân công công việc cho từng thành viên trong nhóm


- Thời hạn nộp bài: 4/6/2015
Ngày 2 tháng 6 năm 2015
Trưởng nhóm Thư ký
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ĐỘC LẬP – TỰ DO – HẠNH PHÚC
************************
BIÊN BẢN HỌP NHÓM LẦN 3
Thời gian: 17h00 ngày 5/6/2015
Thành phần tham gia: Phạm Thị Kim Oanh, Nguyễn Xuân Hải, Trần Ngọc Hưng,
Trần Thị Phương Bình, Hoàng Xuân Hùng, Nguyễn Đức Anh, Giang Thị Thu Hằng,
Vũ Thị Thanh Hiền, Phạm Văn Lợi.
Nội dung họp:
- Tổng hợp phần nội dung của tiểu luận
- Hoàn tất các mẫu giấy tờ liên quan
- Đánh giá thành viên trong nhóm
Ngày 5 tháng 6 năm 2015
Trưởng nhóm Thư ký
LỜI MỞ ĐẦU
Khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay là một vấn đề nan giải với tất
cả các quốc gia. Khủng hoảng gây ra nhiều hậu quả nặng nề đối với các nền kinh tế.
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 đến năm 2010 tuy không ảnh
hưởng trực tiếp đến Việt Nam nhưng do hội nhập ngày càng sâu và rộng nên cũng đã
có những tác động nhất định.
Nếu khủng hoảng kinh tế xảy ra tại Việt Nam thì nền kinh tế nước ta sẽ chịu ảnh
hưởng như thế nào? Mục đích nghiên cứu của tiểu luận là nhằm tìm hiểu những tác
động của khủng hoảng kinh tế đến các biến số kinh tế vĩ mô của Việt Nam. Đồng
thời, bài học mà Việt Nam rút ra từ cuộc khủng hoảng kinh tế quốc tế và các giải
pháp mà Nhà nước, Chính phủ sẽ sử dụng để khôi phục kinh tế một cách tối ưu nhất.
Nội dung tiểu luận:
Phần I: Tổng quan về chu kỳ kinh tế và khủng hoảng kinh tế

Phần II: Tác động của khủng hoảng kinh tế đến các biến số kinh tế vĩ mô
Phần III- Các biện pháp Nhà nước, Chính phủ sử dụng để đưa nền kinh tế thoát
khỏi khủng hoảng.
PHẦN I
TỔNG QUAN VỀ CHU KỲ KINH TẾ, KHỦNG HOẢNG KINH TẾ
1.1. Chu kỳ kinh tế
Chu kỳ kinh tế, còn gọi là chu kỳ kinh doanh, là sự biến động của GDP thực tế
theo trình tự lần lượt là giai đoạn suy thoái, phục hồi và hưng thịnh (bùng nổ).
Chu kỳ kinh tế
- Suy thoái là giai đoạn trong đó GDP thực tế giảm đi.
- Phục hồi là giai đoạn trong đó GDP thực tế tăng trở lại bằng mức ngay trước suy
thoái.
- Khi GDP thực tế tiếp tục tăng và bắt đầu lớn hơn mức ngay trước lúc suy thoái,
nền kinh tế đang ở giai đoạn hưng thịnh.
Thông thường, người ta chỉ nhận ra hai điểm đáy và đỉnh của chu kỳ kinh tế khi
nền kinh tế đã sang giai đoạn tiếp sau điểm ngoặt với dấu hiệu là tốc độ tăng
trưởng GDP thực tế đổi chiều giữa mức âm và mức dương. Trong thực tế, các nhà
kinh tế học cố tìm cách nhận biết dấu hiệu của suy thoái vì nó tác động tiêu cực đến
mọi mặt kinh tế, xã hội.
Chu kỳ kinh tế là những biến động không mang tính quy luật. Không có hai chu
kỳ kinh tế nào hoàn toàn giống nhau và cũng chưa có công thức hay phương pháp
nào dự báo chính xác thời gian, thời điểm của các chu kỳ kinh tế. Chính vì vậy chu kỳ
kinh tế, đặc biệt là giai đoạn khủng hoảng sẽ khiến cho cả khu vực công cộng lẫn khu
vực tư nhân gặp nhiều khó khăn. Khi có suy thoái, sản lượng giảm sút, tỷ lệ thất
nghiệp tăng cao, các thị trường từ hàng hóa dịch vụ cho đến thị trường vốn thu hẹp dẫn
đến những hậu quả tiêu cực về kinh tế, xã hội.
1.2. Khủng hoảng kinh tế
Khủng hoảng kinh tế là khái niệm dùng để chỉ những hiện tượng kinh tế mất
ổn định kéo dài mà không điều chỉnh được trong nền kinh tế, gây ra những chấn
động và hậu quả kinh tế xã hội trong quy mô rộng hoặc hẹp.

Trong lịch sử phát triển của nhân loại đã xảy ra không ít các cuộc khủng hoảng
kinh tế trầm trọng ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội: Cuộc khủng hoảng
tài chính – tiền tệ (1929-1933), Khủng hoảng dầu mỏ (1970), Khủng hoảng kinh tế
thế giới (2008-2010).
Khủng hoảng là giai đoạn đầu tiên của chu kỳ kinh tế. Xuất hiện trước hết là
khủng hoảng tiêu thu, dự trữ hàng hóa trong kho của các xí nghiệp tăng lên, giá cả hàng
hóa giảm xuống do cung lớn hơn cầu cuộc cạnh tranh để tiêu thụ hàng hóa trở lên gay
gắt.
Khủng hoảng kinh tế gây ra bởi sự kết hợp của các yếu tố bên trong (nội sinh)
theo chu kỳ và các cú sốc từ bên ngoài (ngoại sinh).
Một số đặc điểm thường gặp trong thời kỳ khủng hoảng là:
• Tiêu dùng giảm mạnh, hàng tồn kho trong các doanh nghiệp tăng lên ngoài dự
kiến. Việc này dẫn đến nhà sản xuất cắt giảm sản lượng kéo theo đầu tư vào trang thiết
bị, nhà xưởng cũng giảm và kết quả là GDP thực tế giảm sút.
• Cầu về lao động giảm, đầu tiên là số ngày làm việc của người lao động giảm
xuống tiếp theo là hiện tượng cắt giảm nhân công và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao.
• Lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm mạnh và giá chứng khoán thường giảm
theo khi các nhà đầu tư cảm nhận được pha đi xuống của chu kỳ kinh doanh. Cầu
về vốn cũng giảm đi làm cho lãi suất giảm xuống trong thời kỳ khủng hoảng.
PHẦN II
TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG KINH TẾ ĐẾN CÁC BIẾN SỐ KINH TẾ
VĨ MÔ
2.1 Tác động của khủng hoảng kinh tế đến tăng trưởng kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản
phẩm quốc dân (GNP) trong một thời gian nhất định.
Tăng trưởng kinh tế thường được đo lường thông qua tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Công thức xác định tốc độ tăng trưởng kinh tế
g = x 100%
Khi xảy ra khủng hoảng kinh tế , tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ chậm lại. Theo số
liệu thống kê tăng trưởng GDP năm 2008 dự kiến đạt khoảng 7%. Tuy nhiên, do tác

động của khủng hoảng, thực tế năm 2008 tốc độ này chỉ đạt 6,18% và trong những
năm tiếp theo tăng GDP luôn thấp hơn 7% và ngày càng đi xuống.
Năm 2007 2008 2009 2010 2011
g 8,48 6,18 5,32 6,78 5,89
Nguồn: Tổng cục thống kê – Đơn vị tính: %
2.2. Tác động của khủng hoảng kinh tế đến đầu tư (I)
Khủng hoảng sẽ làm cho đầu tư giảm vì các nhà đầu tư nước ngoài rút khỏi thị
trường.Mặt khác, hàm đầu tư phụ thuộc vào lãi suất:
I = I (r)
Do đó, khi lãi suất trong giai đoạn này ở mức cao sẽ hạn chế đầu tư.
Khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong những năm khủng
hoảng kinh tế giảm sút rõ rệt. Việt Nam đã từng là điểm đầu tư hấp dẫn của khu vực
Đông Nam Á, tuy nhiên từ năm 2009 đầu tư đã suy giảm mạnh do khủng hoảng kinh
tế toàn cầu.
Nguồn: Tổng cục thống kê – Đơn vị tính: tỷ USD
2.3. Tác động của khủng hoảng kinh tế đến xuất khẩu, đến nhập khẩu, cán
cân thương mại:
Nền kinh tế suy thoái sẽ khiến xuất khẩu giảm vì sản lượng mà nền sản xuất sản
xuất ra giảm. Hơn nữa, hoạt động xuất khẩu phụ thuộc vào các thị trường chính. Do
đó, khi xảy ra khủng hoảng toàn cầu thì nhu cầu nhập khẩu của các thị trường chính
cũng giảm mạnh. Cuộc khủng hoảng năm 2008 đã gây ảnh hưởng trực tiếp đến xuất
khẩu Việt Nam sang các thị trường Mỹ, Nhật Bản, châu Âu. Tỷ trọng thị trường Mỹ
trong tổng kim ngạch xuất khẩu giảm từ 24% năm 2007 xuống còn 17,7% năm
2008. Tỷ trọng của thị trường EU trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
cũng đã giảm chỉ còn 16,5% trong khi năm 2007 là 18%.
Nhập khẩu phụ thuộc vào thu nhập, tỷ giá hối đoái. Chính vì vậy, khi xảy ra
khủng hoảng kinh tế thu nhập giảm, tỷ giá hối đoái giảm do đó nhập khẩu (IM) sẽ
giảm.
Số liệu nhập khẩu của Việt Nam năm 2009 cho thấy trong quý I đạt 7,7 tỷ giảm
43,1% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân giảm là do giá các mặt hàng trên thế

giới giảm mạnh.
Trong tình hình khủng hoảng, nhập khẩu và xuất khẩu đều giảm nhưng xuất khẩu
giảm mạnh hơn và Việt Nam luôn ở trong tình trạng nhập siêu nên cán cân thương
mại thâm hụt ở mức cao hơn.
2.4. Tác động của khủng hoảng kinh tế đến chi tiêu hộ gia đình, tiết kiệm, thu
nhập, thuế, chi tiêu của chính phủ , chính sách tài khóa.
Hàm chi tiêu: C = C + MPC. Y
Khi xảy ra khủng hoảng kinh tế, thu nhập giảm do đó sức mua của thị trường
giảm sút, chi tiêu của hộ gia đình (C) giảm và các hộ gia đình sẽ có xu hướng tiết
kiệm nhiều hơn.
Khủng hoảng tác động làm cho thu nhập giảm. Thu nhập giảm là do GDP giảm,
giá đồng nội tệ mất giá, sức mua giảm.
Thu nhập có thể được xác định thông qua chỉ tiêu GDP hoặc GNP. Tính theo chỉ
tiêu GDP thì Y= GDP = C+I+G+NX. Khủng hoảng làm cho C giảm, I giảm và NX
giảm do đó thu nhập sẽ giảm.
GDP Việt Nam trong giai đoạn từ 2007 -2010 (Số liệu tổng cục thống kê)
Năm GDP (Triệu USD)
2007 71003
2008 89553
2009 91533
2010 101623
Nhìn vào GDP danh nghĩa có thể thấy số liệu này tăng lên. Tuy nhiên, nếu xét đến
lạm phát trong thời kỳ này thì GDP thực tế của năm 2009 sẽ giảm so với năm 2008.
Chính sách tài khóa (fiscal policy) là chính sách thông qua chế độ thuế và đầu tư
công cộng để tác động tới nền kinh tế. Chính sách tài khóa là chính sách kinh tế vĩ
mô quan trọng, nhằm ổn định và phát triển kinh tế.
Trong điều kiện nền kinh tế khủng hoảng, để vực dậy nền kinh tế Chính phủ sẽ
thực hiện kích cầu bằng cách thực hiện chính sách tài khóa nới lỏng. Chính phủ sẽ
giảm thu thông qua việc giảm thuế (T) và tăng chi tiêu chính phủ (G). Việc giảm thu
và tăng chi này nhằm thúc đẩy tiêu dùng tăng. Do đó, cán cân ngân sách sẽ bị thâm

hụt.
Bên cạnh đó, Chính phủ còn có thể thực hiện các gói kích cầu với nền kinh tế. Gói
kích cầu này tác động vào tiêu dùng (C, G), đầu tư (I) và xuất khẩu ròng (NX). Năm
2009, để đưa kinh tế ra khỏi khủng hoảng, tại Việt NamChính phủ cũng đã sử dụng
gói kích cầu 8 tỷ USD.
2.5. Tác động của khủng hoảng kinh tế đến lạm phát, giá cả, thất nghiệp, tỷ
giá hối đoái, cán cân thanh toán
Khủng hoảng kinh tế làm cho lạm phát bùng nổ do giá cả các mặt hàng tiêu dùng
tăng cao. Tính đến cuối tháng 12 năm 2008, CPI và lạm phát đều tăng ở mức 2 con
số.
Năm Tỷ lệ lạm phát (%)
2007 12,6
2008 22,6
2009 6,88
2010 13,6
Tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam – Tài liệu chương 1
Năm Chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) - %
2007 108,3
2008 122,97
2009 106,88
2010 109,19
Chỉ số giá tiêu dùng Việt Nam – Nguồn tổng cục thống kê
Nhìn vào bảng số liệu, có thể dễ dàng nhận thấy, năm 2008 chỉ số giá tiêu dùng
tăng đột biến 22,97% và tỷ lệ lạm phát cũng ở mức rất cao 22,6%.
Tuy nhiên do tổng cầu giảm và chính sách tiền tệ thắt chặt đã làm cho chỉ số giá
giảm xuống và do đó lạm phát cũng được kiểm soát.
Khủng hoảng kinh tế làm cho thất nghiệp gia tăng. Lý do là khủng hoảng làm cho
đầu tư trong đó đặc biệt là đầu tư nước ngoài giảm rõ rệt do đó số việc làm sẽ ít đi, tỷ
lệ thất nghiệp sẽ tăng lên. Thất nghiệp gia tăng là gánh nặng với quốc gia, làm nảy

sinh nhiều vấn đề xã hội.
Tại Việt Nam, do ảnh hưởng của khủng hoảng, theo Bộ Lao động Thương binh
và Xã hội thì năm 2008 đã có khoảng 30.000 lao động mất việc làm.
Trong nền kinh tế mở, khi đánh giá tác động của khủng hoảng phải đánh giá ảnh
hưởng đến tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán.
Khủng hoảng dẫn đến luồng vốn ra làm cho tỷ giá hối đoái có xu hướng giảm.
Đồng nội tệ sẽ mất giá so với đồng ngoại tệ. Điều này là do niềm tin đối với đồng nội
tệ giảm sút. Trong nền kinh tế khi tỷ giá giảm thường khuyến khích xuất khẩu, hạn
chế nhập khẩu. Tuy nhiên, trong điều kiện khủng hoảng nhu cầu của các thị trường
đều giảm do vậy việc thay đổi tỷ giá gần như không tác động đến cán cân thương
mại. Bên cạnh đó, tỷ giá hối đoái giảm sẽ dẫn đến tình trạng thâm hụt cán cân thanh
toán.
Tại Việt Nam trong giai đoạn này tỷ giá giảm mạnh từ 16.112 đ/USD xuống còn
15.560đ/USED.
2.6. Tác động của khủng hoảng kinh tế đến lãi suất, chính sách tiền tệ
Lãi suất thực tế được xác định thông qua lãi suất danh nghĩa và tỷ lệ lạm phát (r =
I - ). Lãi suất danh nghĩa thường được điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát.Vì thế, trong
giai đoạn khủng hoảng, khi tỷ lệ lạm phát luôn ở mức cao thì lãi suất cũng phải được
nâng lên. Hơn nữa, khủng hoảng làm cho doanh nghiệp không có khả năng thanh
toán các khoản nợ, việc rút tiền ra khỏi ngân hàng làm cho lãi suất tăng lên. Đỉnh
điểm lãi suất tại Việt Nam đã lên tới gần 20%.
Tín dụng tăng trưởng chậm do các ngân hàng thận trọng trong cho vay vì thị
trường biến động mạnh, mặt khác chính các doanh nghiệp hạn chế sản xuất kinh
doanh do khó khăn thị trường, do khó khăn trong hoạt động tiêu thụ và ký hợp đồng.
Chất lượng tín dụng bị ảnh hưởng: nguyên nhân khách quan từ quá trình luân
chuyển vốn chậm của nền kinh tế, các doanh nghiệp do sản xuất kinh doanh tăng
trưởng chậm, hàng hóa khó tiêu thụ dẫn đến khả năng thanh toán bị hạn chế, một số
doanh nghiệp ứ đọng hàng hóa, do vậy ảnh hưởng trực tiếp đến các khoản tín dụng
có liên quan.
Bên cạnh đó tín dụng bất động sản luân chuyển chậm do thị trường bất động sản

có sự biến động, giá bất động sản giảm và khó bán, dó là các yếu tố tác động trực tiếp
đến người vay, đến các khoản nợ cho vay bất động sản, đặc biệt là khoản nợ cho vay
kinh doanh bất động sản.
Chính sách lưu thông tiền tệ hay chính sách tiền tệ (monetary policy) là quá
trình quản lý cung tiền của cơ quan quản lý tiền tệ (có thể là ngân hàng trung ương),
thường là hướng tới một lãi suất mong muốn để đạt được những mục đích ổn định và
tăng trưởng kinh tế - như kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt
được toàn dụng lao động hay tăng trưởng kinh tế. Chính sách lưu thông tiền tệ bao
gồm việc thay đổi các loại lãi suấtnhất định, có thể trực tiếp hay gián tiếp thông qua
các nghiệp vụ thị trường mở; quy định mức dự trữ bắt buộc; hạn mức tín dụng hoặc
lãi suất chiết khấu.
Trong điều kiện kinh tế ở trạng thái bình thường thì mục tiêu lãi suất được lựa
chọn.
Trong trường hợp nền kinh tế suy thoái, cầu tiền giảm chính sách tiền tệ mà Nhà
nước áp dụng là chính sách tiền tệ thắt chặt với mục tiêu là giảm lượng cung tiền. Việc
giảm lượng cung tiền có thể được thực hiện thông qua việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc,
tăng lãi suất chiết khấu, giảm hạn mức tín dụng và bán trái phiếu trên thị trường mở.
Khi xảy ra khủng hoảng tại Việt Nam Ngân hàng Trung ương cũng đã thực hiện chính
sách tiền tệ thắt chặt để giảm cung tiền thông qua việc tăng dự trữ bắt buộc tại các Ngân
hàng. Dự trữ bắt buộc được NHNN sử dụng rất linh hoạt trong khoảng thời gian 2007 –
2010 để ngăn ngừa sự tăng trưởng tín dụng quá nóng và kiềm chế lạm phát. Trong đó,
giai đoạn 2007 – 2008, tỷ lệ dự trữ bắt buộc điều chỉnh khá mạnh tay (từ 5% lên 10% và
11% đầu năm 2008), đồng thời các thời gian tiếp theo điều chỉnh giảm linh hoạt và thận
trọng để phù hợp với các mục tiêu của chinh sách tiền tệ.
Đồ thị trên chỉ ra rằng khi thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt giảm cung tiền thì
đường cung tiền MS dịch chuyển sang trái đẩy lãi suất tăng lên từ r
1
-> r
2
, đây cũng là

nguyên nhân làm tăng lãi suất trong giai đoạn khủng hoảng.
2.7. Tác động của khủng hoảng kinh tế đến tổng cung, tổng cầu
MD
M
r
MS
1
MS
2
r
2
r
1
M
1
M
2
Tỷ lệ lạm phát cao do đó người tiêu dùng cắt giảm chi tiêu. Đồng thời, do đầu tư
giảm, xuất khẩu ròng giảm nên tổng cầu của nền kinh tế đã giảm đường tổng cầu
dịch chuyển về bên trái.
Đường tổng cầu AD dịch chuyển sang trái làm giảm sản lượng và việc làm trong
ngắn hạn. Theo thời gian, giá giảm và nền kinh tế đi xuống dọc theo đường cầu.
Khủng hoảng làm cho nền sản xuất suy yếu, sản lượng sản xuất giảm do các doanh
nghiệp phải đối mặt với giá nguyên liệu đầu vào tăng, vừa phải đối mặt với sức mua
P
Y
AD1
AD2
P
LRAS

SRAS
P
2
Y
Y
2
P
Y
SRAS
1
SRAS
2
P
2
P
1
LRAS
YY
2
giảm, nên đã cắt giảm và điều chỉnh giảm các kế hoạch sản xuất kinh doanh. Chính vì
thế tổng cung của nền kinh tế sẽ giảm so với trước đó.
Đường tổng cung SRAS dịch chuyển xuống dưới dẫn đến sản lượng và việc làm
đều giảm.
PHẦN III
CÁC BIỆN PHÁP NHÀ NƯỚC, CHÍNH PHỦ SỬ DỤNG ĐỂ ĐƯA NỀN KINH
TẾ THOÁT KHỎI KHỦNG HOẢNG
Nhìn lại chu kỳ phát triển kinh tế của thế giới từ thập kỷ 30 trở lại đây chúng ta
nhận thấy cứ 10 năm một lần, sau sự thăng hoa thì nền kinh tế thế giới lại chững lại
và suy giảm nhẹ. Độ suy giảm không lớn nhưng cũng đủ để nhận thấy lập trình này
luôn được lũy tiến và chắc chắn dẫn tới giai đọan cực suy của nó. Khi kinh tế toàn

cầu phát triển càng sâu rộng thì tính nguy hiểm và hệ lụy của nó càng lớn.
Suy thoái kinh tế toàn cầu không loại trừ Việt Nam đã và đang diễn ra khá căng
thẳng. Điều đáng lo ngại là thời gian chấm dứt của nó cũng chỉ là dự đoán. Do vậy,
chúng ta luôn luôn phải có biện pháp đề phòng và sẵn sàng trước những biến động có
thể còn xấu hơn nữa. Để thực hiện được điều này, Việt Nam cần phải có các giải
pháp sau:
1- Nhà nước cần có những đánh giá thực chất sự ảnh hưởng của suy thoái kinh tế
toàn cầu giai đọan này với nền kinh tế Việt Nam. Đẩy mạnh các chính sách kinh tế vĩ
mô, chính sách tiền tệ và các hệ thống điều tiết là điều kiện cần thiết để nền kinh tế
thị trường vận hành có hiệu quả. Cải cách hành chính, ngân sách và thuế đóng vai trò
quan trọng.
2- Định lượng về khả năng GDP trên nguyên tắc 3 chiều, không được phép chủ
quan và bệnh thành tích nhằm nhìn đúng vào thực trạng của kinh tế Việt Nam.
3- Để bình ổn sản xuất kinh doanh, Chính phủ xem xét lại lãi suất ngân hàng cho
2 lĩnh vực huy động vốn và cho vay vốn. Hủy bỏ chính sách hỗ trợ lãi suất 4% bằng
cách đưa lãi suất về chung một mức là 5% cho tất cả các doanh nghiệp đang đầu tư,
kinh doanh tại Việt Nam để họ đều được hưởng lợi và tránh mọi tiêu cực phát sinh.
4- Tạo nguồn nhân lực mới cho xã hội (mở rộng các trường dạy nghề) trên
nguyên tắc 3 nhà hợp tác: Nhà nước, nhà trường và doanh nghiệp. Lấy tiêu chí Nhà
nước là chủ đạo về chính sách, nguồn vốn.
5- Không phân biệt các thành phần kinh tế trong xã hội về công tác xuất khẩu lao
động. Vì thực tế cho thấy hiện nay, những doanh nghiệp được xem xét cấp Giấy phép
hoạt động dịch vụ đưa người đi lao động ở nước ngoài là doanh nghiệp được thành
lập theo Luật doanh nghiệp có 100% vốn điều lệ là tổ chức, cá nhân Việt Nam. Thị
trường xuất khẩu lao động là ưu tiên hàng đầu của Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ
chỉ đạo cho 61 tỉnh thành đẩy mạnh việc xuất khẩu lao động, để Việt kiều về đầu tư
tại Việt Nam, họ hội đủ các điều kiện và hoàn toàn có thể làm tốt hơn một số tổ chức
trong nước lại không được hoạt động trong lĩnh vực này. Qui định này cần sớm được
sửa đổi để phù hợp với luật pháp và nhu cầu đòi hỏi của xã hội.
6- Tạo điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà

nước đầu tư trong lĩnh vực bảo vệ môi trường như công nghệ sạch, trồng rừng…
7- Suy thoái kinh tế cũng là cơ hội cho Nhà nước, Chính phủ và chính các doanh
nhân doanh nghiệp nhìn nhận lại chính mình trong khả năng điều hành, quản lý, phát
triển của đất nước, của doanh nghiệp.
8- Chính phủ và các Cơ quan từ Trung ương tới địa phương muốn được toàn dân
chia sẻ và đồng thuận gánh vác khó khăn thì điều tiên quyết phải minh bạch về thông
tin, bình đẳng trong chính sách giữa doanh nghiệp và doanh nghiệp tạo thế và đà cho
các doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh.
9- Phải tái cơ cấu nền kinh tế: Vì Việt Nam tốc độ tăng trưởng thấp, tình trạng đầu
tư thiếu hiệu quả diễn ra trong khối doanh nghiệp khu vực kinh tế nhà nước, thiếu các
ngành, sản phẩm mũi nhọn có sức cạnh tranh cao, mức độ hiện đại trong công nghệ
sử dụng chỉ đạt trung bình hoặc thấp, giá trị gia tăng của sản phẩm thấp. Chính quyền
các địa phương rà soát lại danh mục dự án đầu tư, kiên quyết loại bỏ những dự án
chưa cần thiết, dồn sức cho những công trình thật sự hữu ích cho quốc kế dân sinh,
kích cầu đầu tư xây dựng đáp ứng nhu cầu của cộng đồng, đồng thời giải tỏa một
phần hàng hóa, nguyên vật liệu tồn kho cho DN. Các biện pháp kích cầu đã phát huy
tác dụng, kịp thời ngăn chặn đà suy giảm, bảo đảm các mục tiêu vĩ mô như an sinh xã
hội.
KẾT LUẬN
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, khủng hoảng kinh tế toàn cầu
ảnh hưởng không loại trừ một quốc gia nào. Nền kinh tế càng phát triển thì ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng càng lớn. Hơn nữa, thời gian diễn ra khủng hoảng và
chấm dứt khủng hoảng hiện nay vẫn chưa dự đoán được.
Khủng hoảng kinh tế tồn tại một cách khách quan và tác động sâu rộng vào mọi
mặt của nền kinh tế. Nhiều quốc gia đã và đang gánh chịu những tổn thất nặng nề do
cuộc khủng hoảng này gây ra: suy giảm tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thất nghiệp. Vì
vậy, việc nghiên cứu nguyên nhân của khủng hoảng, đánh giá tác động của khủng
hoảng đến nền kinh tế là rất cần thiết. Đồng thời, Chính phủ, Nhà nước cũng cần
phải có những biện pháp, chính sách để đề phòng khủng hoảng và nếu xảy ra khủng
hoảng thì nhanh chóng đưa nền kinh tế thoát khỏi tình trạng này.

Danh mục tài liệu tham khảo
- Tài liệu kinh tế vĩ mô – TS. Phan Thế Công
- Tạp chí kinh tế
- Trang web: (Tổng cục thống kê)
MỤC LỤC

×