Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Các quy định của pháp luật Việt Nam về cạnh tranh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.68 KB, 10 trang )

Các quy định của pháp luật Việt Nam về cạnh tranh
1:11' 15/9/2009
Dominique Brault, luật sư Công ty luật Herbert Smith LLP, chi nhánh
Paris, đã có bài viết giới thiệu về pháp luật cạnh tranh của Việt Nam với độc
giả Pháp trên tạp chí LAMY DE LA CONCURRENCE số 15, tháng 4/5 năm
2008. Sau đây là bản dịch bài viết của ông giới thiệu về các quy định của luật
này cùng với những áp dụng bước đầu vào thực tiễn.
Ngay cả các nước kiên trì với tuyên bố chủ nghĩa cộng sản và cơ cấu tổ chức
chính trị do một đảng duy nhất lãnh đạo cũng vừa tự trang bị cho mình các quy
định pháp luật và các thể chế cần thiết để điều hành một nền kinh tế thị trường.
Việt Nam đã thông qua Luật Cạnh tranh ngày 3/12/2004 và các văn bản
hướng dẫn và các cơ quan chịu trách nhiệm thi hành đạo luật này đã sẵn sàng:
Nghị định 116/2005/NĐ-CP của Chính phủ, quy định chi tiết thi hành một số điều
của Luật Cạnh tranh; Nghị định 120/2005/NĐ-CP về xử lý vi phạm pháp luật trong
lĩnh vực cạnh tranh, Nghị định 06/2006/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh; Nghị định 05/2006/NĐ-
CP về thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Hội đồng cạnh tranh.
Cục Quản lý cạnh tranh và Hội đồng Cạnh tranh
Cục Quản lý cạnh tranh là một tổ chức hành chính trực thuộc Bộ Thương
mại - nay là Bộ Công thương, ND - (đơn vị này được gọi tắt là VCAD - Vietnam
Competition Administration Department). Các đóng góp của tổ chức này tương tự
như DGCCRF của Pháp, đặc biệt trong lĩnh vực điều tra. Cục Quản lý cạnh tranh
phối hợp với Hội đồng Cạnh tranh, đơn vị có từ 11 đến 15 thành viên phụ trách
thông báo các vi phạm cũng như « đưa vụ việc ra giải quyết ở đơn vị có thẩm
quyền» (Điều 53.2 et 107). Hội đồng Cạnh tranh hoàn toàn độc lập với cơ quan
chính trị có thẩm quyền. Hội đồng không có quyền miễn trừ, riêng chỉ các Bộ mới
có quyền này. Thủ tướng có thể cách chức Chủ tịch Hội đồng theo đề nghị của Bộ
trưởng Bộ Thương mại.
Luật Cạnh tranh Việt Nam gồm 123 điều. Luật này điều chỉnh các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh, các hành vi hạn chế cạnh tranh, việc kiểm soát tập


trung kinh tế, trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc cạnh tranh và các biện pháp xử lý
vi phạm pháp luật về cạnh tranh.
Tuy nhiên, ngay tại Điều 4 đạo luật này, chúng ta đã bắt gặp hai quy định
dường như là trái ngược nhau (Khoản 1 và Khoản 2). Nhà nước Việt Nam tuyên bố
«quyền cạnh tranh trong kinh doanh», quyền mà chúng ta tìm kiếm vô vọng trong
hệ thống pháp luật của các nước châu Âu, nhưng việc thực hiện quyền cạnh tranh
tại Việt Nam phải tùy thuộc vào «lợi ích của Nhà nước». Nhà nước có nhiệm vụ
bảo vệ quyền cạnh tranh trong kinh doanh, quyền mà từ nay được thừa nhận đối
với mọi doanh nghiệp: «doanh nghiệp được tự do cạnh tranh» ; Nhà nước quản lý
cạnh tranh theo cách «tập trung thống nhất» (Điều 7), nhưng Bộ Công thương, cơ
quan chịu trách nhiệm quản lý Nhà nước về cạnh tranh, lại dựa vào các cơ quan
phân quyền tại địa phương (Ủy ban Nhân dân tỉnh, thành phố thuộc trung ương) để
thực hiện vai trò này.
Các quy định còn lại và điểm cốt lõi của Luật Cạnh tranh không thể hiện
được tinh thần đa dạng hóa và hệ quả là Luật này đưa ra các khái niệm quen thuộc
trong lĩnh vực cạnh tranh nhưng không phải không hàm chứa trong đó vài yếu tố
làm người đọc ngạc nhiên.
Điều thứ nhất, và chắc chắn là điều gây ngạc nhiên nhiều nhất, không chỉ là
việc giải thích các thuật ngữ. Theo quy định của đạo luật này, «các hành vi bị
cấm» bao gồm một tập hợp các hành vi mà chúng tôi cho rằng tập hợp đó vừa bao
gồm các thỏa thuận, các «hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh và độc quyền thị
trường» và các hành vi tập trung kinh tế. Thuật ngữ và định nghĩa về «hành vi
chống cạnh tranh» không được thể hiện và một số hành vi tập trung kinh tế không
được xử lý một cách riêng biệt như trong pháp luật của Pháp và pháp luật cộng
đồng châu Âu. Hành vi hạn chế cạnh tranh theo quy định của Luật này mới chỉ
dừng lại ở các hành vi bị cấmcũng như hành vi tập trung kinh tế (Điều 18), các
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (Điều 8) và các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường (Điều 13).
Điều 8 Luật Cạnh tranh đưa ra một danh sách giới hạn trong 8 thỏa thuận
được coi là hạn chế cạnh tranh. Hầu hết các thỏa thuận này chỉ bị coi là hạn chế

cạnh tranh khi nó vượt qua một mức nhạy cảm nhất định vì các thoả thuận này chỉ
bị cấm khi các bên tham gia thỏa thuận có thị phần kết hợp từ 30% trở lên trên thị
trường liên quan. Giống như trong hệ thống pháp luật châu Âu, theo quy định của
Luật Cạnh tranh Việt Nam, chỉ có các thỏa thuận mới có thể được miễn trừ khỏi
các hành vi bị cấm, trừ trường hợp lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường. Thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh được miễn trừ khỏi các hành vi bị cấm nếu đáp ứng hai
điều kiện: i) Thỏa thuận đó «nhằm hạ giá thành, có lợi cho người tiêu dùng», ii)
Thỏa thuận đó thuộc một trong 6 đóng góp thúc đẩy nền kinh tế quy định tại Điều
10 Luật Cạnh tranh.
Các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường. Các quy định về hành
vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường nhằm vào các doanh nghiệp có thị phần từ
30% trở lên trên thị trường liên quan, nghĩa là «có khả năng gây hạn chế một cách
đáng kể sự cạnh tranh». Các quy định này còn nhằm vào các nhóm doanh nghiệp
có tổng thị phần từ 50% trở lên trên thị trường liên quan nếu nhóm có hai doanh
nghiệp, 65% trở lên trên thị trường có liên quan nếu nhóm có 3 doanh nghiệp, 75%
trở lên trên thị trường liên quan nếu nhóm có 4 doanh nghiệp.
Các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường bị cấm được Luật Cạnh
tranh giới hạn trong 6 hành vi (Điều 13): hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường bị cấm đầu tiên là hành vi «bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành
sản xuất nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh». Một cách truyền thống, các hành vi cản
trở việc xâm nhập thị trường, áp đặt giá bán lại tối thiểu và hành vi phân biệt đối
xử trong giao dịch thương mại tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh đều thuộc nhóm
các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường bị cấm. Điều đặc biệt nhất ở đây
là quy định về việc «áp đặt giá mua, giá bán bất hợp lý» (Điều 13 Khoản 2). Chúng
tôi không hề ngạc nhiên khi thấy rằng, Nhà nước Việt Nam chưa sẵn sàng vượt qua
ngưỡng quyết định mà Pháp đã làm từ năm 1986. Đó là việc từ bỏ nguyên tắc kiểm
soát hành chính đối với giá hàng hóa, dịch vụ và đặt niềm tin hoàn toàn vào cuộc
chơi tự do trong lĩnh vực cạnh tranh để đạt được mức giá hợp lý nhất có thể.
Các doanh nghiệp giữ độc quyền bị cấm thực hiện các hành vi đã quy định
tại Điều 13 đối với các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường. Ngoài ra, các

doanh nghiệp có vị trí độc quyền còn bị cấm thực hiện 2 hành vi sau: i) «áp đặt các
điều kiện bất lợi cho khách hàng», ìi) «lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương
thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng». Hai
hành vi này được quy định rất chung chung và đương nhiên cần có hướng dẫn cụ
thể.
Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực độc quyền nhà nước và
các dịch vụ công, Luật Cạnh tranh có các quy định đặc biệt. Cụ thể là quyền kiểm
soát các doanh nghiệp này (Điều 15) dường như nằm ngoài các quy định của Luật
Cạnh tranh, trừ trường hợp và với điều kiện các doanh nghiệp này cũng thực hiện
các hoạt động kinh doanh ngoài lĩnh vực độc quyền nhà nước và sản xuất, cung
ứng sản phẩm, dịch vụ công ích (Điều 15, Khoản 3).
Kiểm soát việc tập trung kinh tế. Như chúng ta đã thấy, một số đối tượng
tập trung kinh tế có thể kiểm soát được hoặc dưới hình thức thông báo cho cơ quan
quản lý cạnh tranh, hoặc đối với những đối tượng tập trung kinh tế quan trọng,
dưới hình thức xin phép miễn trừ đối với tập trung kinh tế bị cấm. Điều 18 Luật
Cạnh tranh cấm các doanh nghiệp tập trung kinh tế nếu các doanh nghiệp đó có thị
phần kết hợp từ 50% trở lên trên thị trường liên quan, không cần xét đến hoàn cảnh
và tình huống. Việc tiến hành tập trung kinh tế mà không xin phép được coi là một
hành vi bị cấm và bị xử phạt hành chính (phạt tiền). Ngoài ra, chia, tách doanh
nghiệp đã sáp nhập, hợp nhất hoặc buộc bán lại phần doanh nghiệp đã mua cũng có
thể được sử dụng như một biện pháp trừng phạt nhằm khắc phục hậu quả trong
trường hợp tập trung kinh tế vi phạm pháp luật về cạnh tranh (Điều 117).
Tuy nhiên, một đối tượng tập trung kinh tế bị cấm có thể được xem xét miễn
trừ trong trường hợp một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang trong
nguy cơ bị giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản, tức là trong trường hợp việc
tập trung kinh tế có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển kinh tế -
xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ (Điều 19). Vì trên nguyên tắc, tập trung kinh tế
theo quy định tại Điều 18 là hành vi bị cấm nên hành vi này không thuộc diện phải
thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh. Các tổ chức, cá nhân muốn thực hiện
tập trung kinh tế bị cấm theo quy định tại Điều 18 phải nộp hồ sơ đề nghị hưởng

miễn trừ đến cơ quan quản lý Nhà nước về cạnh tranh. Việc quyết định miễn trừ do
cơ quan này thực hiện.
Các doanh nghiệp tập trung kinh tế có thị phần kết hợp từ 30% đến 50% trên
thị trường liên quan phải thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi tiến
hành tập trung kinh tế (Điều 20). Thông báo này được gửi đến Cục Quản lý cạnh
tranh, cơ quan chịu trách nhiệm thi hành Luật Cạnh tranh của Bộ Công thương. Cơ
quan quản lý cạnh tranh không có quyền từ chối một tập trung kinh tế đã thông

×