Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Biện pháp giúp học sinh lớp một giải tốt các bài toán có lời văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.38 KB, 32 trang )

SKKN: Biện pháp giúp học sinh lớp một giải tốt các bài toán có lời văn
ĐỀ TÀI
BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP MỘT
GIẢI TỐT CÁC BÀI TOÁN CÓ LỜI VĂN
LỜI CẢM ƠN
Qua một thời gian nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm “Biện pháp giúp học
sinh lớp Một giải tốt các bài toán có lời văn”. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
tới Ban giám hiệu cùng tập thể cán bộ giáo viên và các em học sinh trường Tiểu học
nơi tôi đang công tác đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu hoàn
thành sáng kiến kinh nghiệm này.
Trong thời gian ngắn và phạm vi nghiên cứu còn hạn hẹp, mặc dù đã có nhiều
cố gắng song sáng kiến kinh nghiệm không tránh khỏi thiếu sót. Tôi mong nhận được
những ý kiến đóng góp, chỉ dẫn, bổ sung của các thầy cô giáo, của các bạn đồng
nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm ngày một hoàn thiện và đưa vào ứng dụng đạt kết
quả cao ở các nhà trường Tiểu học.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
1
SKKN: Biện pháp giúp học sinh lớp một giải tốt các bài toán có lời văn
PHẦN MỞ ĐẦU
1 – LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Theo Luật phổ cập giáo dục Tiểu học “Giáo dục Tiểu học là bậc học nền
tảng của hệ thống giáo dục quốc dân có nhiệm vụ xây dựng và phát triển tình
cảm, đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ và thể chất của trẻ em nhằm hình thành cơ sở ban
đầu cho sự phát triển toàn diện nhân cách con người Việt Nam XHCN”
Môn toán là một môn học chiếm một vị trí rất quan trọng và then chốt
trong nội dung chương trình các môn học bậc tiểu học . Các kiến thức kĩ năng
của môn toán ở tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống, chúng rất cần cho
người lao động, rất cần thiết để học các môn học khác ở tiểu học và các lớp trên.
Môn toán giúp học sinh nhận biết các mối quan hệ về số lượng và hình dạng
không gian của thế giới hiện thực. Nhờ đó mà học sinh có nhận thức cơ bản về
thế giới xung quanh và biết cách hoạt động có hiệu quả trong đời sống. Môn


toán góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ,
phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề. Nó góp phần phát triển
trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng tạo, nó đóng góp vào việc
hình thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng của người lao động như: cần
cù, cẩn thận, có ý chí vượt khó khăn, làm việc có kế hoạch, có nề nếp và tác
phong khoa học.
Đối với môn toán lớp 1nó là môn học mở đường cho trẻ em đi vào thế
giới kỳ diệu của Toán học rồi mai đây các em lớn nên nhiều em trở thành vĩ
nhân, trở thành anh hùng, nhà giáo, nhà khoa học, nhà thơ… trở thành những
người lao động sáng tạo trên mọi lĩnh vực sản xuất và đời sống. Trên tay có máy
tính xách tay trong túi có máy tính bỏ túi … nhưng không bao giờ các em quên
được những ngày đầu tiên đến trường học đếm và tập viết các số 1, 2, 3 … học
các phép tính cộng, trừ. Vì những con số những phép tính đơn giản ấy cần thiết
cho suốt cả đời người. Vậy là những người trực tiếp hướng dẫn các em học
những kiến thức đầu tiên trong chương trình môn Toán lớp 1. Một bộ phận của
chương trình môn Toán ở tiểu học, chúng ta cần hiểu nó thế nào và dạy ra sao?
Xuất phát từ vị trí quan trọng của môn toán, qua thực tế giảng dạy và
nghiên cứu nhiều năm ở tiểu học. Để giúp các em tiếp thu bài tại lớp, nắm kiến
thức môn Toán một cách vững chắc, có hệ thống, có kỹ năng tính toán và giải
toán có lời văn nhanh và chính xác đạt hiệu quả cao, để áp dụng vào thực tiễn
trong cuộc sống hằng ngày. Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục phù hợp với
2
SKKN: Biện pháp giúp học sinh lớp một giải tốt các bài toán có lời văn
thời kì phát triển của đất nước. Chính vì những lí do trên tôi chọn sáng kiến
“Biện pháp giúp học sinh lớp Một giải tốt các bài toán có lời văn” để góp phần
giúp học sinh lớp 1 giải toán ngày càng tốt hơn.
2 – MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, vai trò, ý nghĩa việc dạy giải toán có lời văn
trong môn Toán lớp 1 ở trường Tiểu học, qua nghiên cứu thực trạng dạy dạy giải
toán có lời văn của nhà trường trong những năm gần đây. Nghiên cứu đề xuất

một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy giải toán có lời văn trong môn toán
cho học sinh lớp 1 của nhà trường.
Nghiên cứu đề xuất một số kinh nghiệm có hiệu quả khi dạy phần giải toán
có lời văn” trong môn toán cho học sinh lớp 1
3 - ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tập trung chủ yếu vào nội dung và các
biện pháp nâng cao chất lượng dạy giải toán có lời văn trong môn toán cho học
sinh lớp 1.
4 – NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
Trong phạm vi đề tài này tôi đặt ra những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Nghiên cứu những vấn đề về dạy giải toán có lời văn trong môn toán cho
học sinh lớp 1.
- Nghiên cứu thực trạng dạy giải toán có lời văn trong môn toán cho học
sinh lớp 1 của nhà trường trong những năm vừa qua.
- Đề xuất những biện pháp dạy giải toán có lời văn trong môn toán cho học
sinh lớp 1.
5 – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu các tài liệu có liên quan
đến dạy giải toán có lời văn trong môn toán cho học sinh lớp 1 trường Tiểu
học.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Nghiên cứu thực tế tại lớp 1
3
SKKN: Biện pháp giúp học sinh lớp một giải tốt các bài toán có lời văn
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tổng kết kinh nghiệm dạy giải toán
có lời văn trong môn toán cho học sinh lớp 1 của bản thân cũng như của bạn
bè đồng nghiệp.
- Phương pháp điều tra: Điều tra thực trạng việc dạy giải toán có lời văn
trong môn toán cho học sinh lớp 1 trong nhà trường trên cơ sở đó tổng hợp
phân tích, bổ xung kinh nghiệm cho bản thân.
- Phương pháp trò chuyện với giáo viên, với học sinh: Nắm thực trạng

việc dạy giải toán có lời văn trong môn toán cho học sinh lớp 1.
- Phương pháp thống kê toán học: Dùng để sử lý số liệu điều tra, phân
tích số liệu thu được.
6 – GIỚI HẠN, PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
* Giới hạn nghiên cứu: Việc dạy giải toán có lời văn trong môn toán cho
học sinh lớp 1 trong nhà trường Tiểu học.
* Phạm vi nghiên cứu: Việc dạy giải toán có lời văn trong môn toán cho
học sinh lớp 1 năm học 2014 – 2015.
PHẦN NỘI DUNG
A. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Dạy học Toán 1 nhằm giúp học sinh :
1. Bước đầu có một số kiến thức cơ bản, đơn giản, thiết thực về phép đếm;
về các số tự nhiên trong phạm vi 100 và phép cộng, phép trừ không nhớ trong
phạm vi 100 : về độ dài và đo độ dài trong phạm vi 20cm; về tuần lễ và ngày
trong tuần; về đọc giờ đúng trên mặt đồng hồ; về một số hình hình học (đoạn
thẳng, điểm, hình vuông, hình tam giác, hình tròn); về bài toán có lời văn,
2. Hình thành các kĩ năng thực hành : đọc, viết, đếm, so sánh các số trong
phạm vi 100; đo và ước lượng độ dài đoạn thẳng (với các số đo là số tự nhiên
trong phạm vi 20cm); nhận biết hình vuông, hình tam giác, hình tròn, đoạn
thẳng, điểm; vẽ đoạn thẳng có độ dài đến 10cm; giải một số dạng toán đơn về
cộng, trừ : bước đầu biết diễn đạt bằng lời, bằng kí hiệu một số nội dung đơn
giản của bài học và bài thực hành; tập dượt so sánh, phân tích tổng hợp, trừu
tượng hoá, khái quát hoá trong phạm vi của những nội dung có nhiều quan hệ
với đời sống thực tế của học sinh;
4
SKKN: Biện pháp giúp học sinh lớp một giải tốt các bài toán có lời văn
3. Chăm chỉ, tự tin, cẩn thận, ham hiểu biết và hứng thú trong học tập
Toán là cơ sở để học tập các môn học khác.
Đối với mạch kiến thức : “Giải toán có lời văn” là 1 trong 5 mạch kiến
thức cơ bản xuyên suốt chương trình Toán bậc tiểu học. Thông qua giải toán có

lời văn, các em phát huy được trí tuệ, được rèn luyện kĩ năng tổng hợp: đọc,
viết, diễn đạt, trình bày, tính toán. Toán có lời văn là mạch kiến thức tổng hợp
của các mạch kiến thức toán học, giải toán có lời văn các em sẽ được giải các
bài toán về số học, các yếu tố đại số, các yếu tố hình học và đại lượng. Toán có
lời văn là chiếc cầu nối giữa toán học và thực tế đời sống, giữa toán học với các
môn học khác.
B. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Trong quá trình giảng dạy ở Tiểu học, đặc biệt dạy lớp Một, tôi nhận thấy
hầu như giáo viên nào cũng nhận thấy khó khăn khi dạy đến phần giải toán có
lời văn ở lớp Một. HS rất lúng túng khi nêu câu lời giải, thậm chí nêu sai câu lời
giải, viết sai phép tính, viết sai đáp số. Những tiết đầu tiên của giải toán có lời
văn mỗi lớp chỉ có khoảng 20% số HS biết nêu lời giải, viết đúng phép tính và
đáp số. Số còn lại là rất mơ hồ, các em chỉ nêu theo quán tính hoặc nêu miệng
thì được nhưng khi viết các em lại rất lúng túng, làm sai, một số em làm đúng
nhưng khi cô hỏi lại lại không biết để trả lời. Chứng tỏ các em chưa nắm được
một cách chắc chắn cách giải bài toán có lời văn. Giáo viên (GV) phải mất rất
nhiều công sức khi dạy đến phần này.
Kết quả điều tra năm học 2013-2014

Phân tích những nguyên nhân
1. Nguyên nhân từ phía giáo viên:
- GV chưa chuẩn bị tốt cho các em khi dạy những bài trước. Những bài nhìn
hình vẽ viết phép tính thích hợp, đối với những bài này hầu như HS đều làm
5
TT
Lớp Sĩ
số
HS viết
đúng câu
lời giải

HS viết
đúng phép
tính
HS viết đúng
đáp số
HS giải
đúng cả 3
bước
1 1A 32 17 53,2% 24 75% 27 85% 18 56,3%
2 1B 30 13 43,4% 17 56,7% 20 66,6% 13 43,4%
SKKN: Biện pháp giúp học sinh lớp một giải tốt các bài toán có lời văn
được nên GV tỏ ra chủ quan, ít nhấn mạnh hoặc không chú ý lắm mà chỉ tập
trung vào dạy kĩ năng đặt tính, tính toán của HS mà quên mất rằng đó là những
bài toán làm bước đệm, bước khởi đầu của dạng toán có lời văn sau này. Đối với
GV dạy lớp Một khi dạy dạng bài nhìn hình vẽ viết phép tính thích hợp, cần cho
HS quan sát tranh, tập nêu bài toán và thường xuyên rèn cho HS thói quen nhìn
hình vẽ nêu bài toán. Có thể cho những em HS giỏi tập nêu câu trả lời, cứ như
vậy trong một khoảng thời gian chuẩn bị như thế thì lúc học đến phần bài toán
có lời văn, HS sẽ không ngỡ ngàng và các em sẽ dễ dàng tiếp thu, hiểu và giải
đúng.
2. Nguyên nhân từ phía học sinh:
Do HS mới bắt đầu làm quen với dạng toán này lần đầu, tư duy của các em
còn mang tính trực quan là chủ yếu. Mặt khác, ở giai đoạn này, các em chưa đọc
thông viết thạo, các em đọc còn đánh vần nên khi đọc xong bài toán rồi nhưng
các em không hiểu bài toán nói gì, thậm chí có những em đọc đi đọc lại nhiều
lần nhưng vẫn chưa hiểu bài toán. Chính vì thế, HS không làm đúng cũng là
điều dễ hiểu;
Vậy làm thế nào để HS nắm được cách giải một cách chắc chắn chính xác,
tôi tiến hành nghiên cứu thực nghiệm đề tài bằng các biện pháp ở phần nội dung
nghiên cứu sẽ trình bày cụ thể.

C. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Biện pháp 1 : Rèn kĩ năng nhìn tranh, nêu phép tính
Tôi thấy việc dạy học sinh “Giải toán có lời văn” đối với học sinh lớp 1 là
vô cùng khó. Mặc dù đến tận tuần 23, học sinh mới chính thức học cách giải
toán có lời văn, song tôi đã phải có ý thức chuẩn bị từ xa cho việc làm ngay từ
bài : Phép cộng trong phạm vi 3 - tiết luyện tập ở tuần 7. Ở thời điểm này, học
sinh lớp tôi chỉ có vài em đọc thông viết thạo, nhưng tôi đã rèn luyện cho học
sinh kĩ năng làm các bài tập: “Nhìn tranh nêu phép tính”
- Xem tranh vẽ;
- Nêu bài toán bằng lời;
- Nêu câu trả lời;
- Điền phép tính thích hợp với tình huống trong tranh.
Mục đích cho học sinh hiểu bài toán qua hình vẽ, suy nghĩ chọn phép tính
thích hợp.
6
SKKN: Biện pháp giúp học sinh lớp một giải tốt các bài toán có lời văn
Thông thường sau mỗi phép tính ở phần luyện tập có một hình vẽ gồm 5 ô
vuông cho học sinh chọn ghi phép tính và kết quả phù hợp với hình vẽ. Ban đầu
để giúp học sinh dễ thực hiện sách giáo khoa ghi sẵn các số và kết quả :
VD: Bài 5 trang 46
a)





Sau khi cho học sinh xem tranh. Tôi cho học sinh nêu bằng lời: “Có 1 quả
bóng vàng và 2 quả bóng . Hỏi có tất cả mấy quả bóng ?”
Sau khi cho học sinh xem tranh. Tôi cho học nêu bằng lời : “Có tất cả
mấy quả bóng”

Từ đó học sinh viết vào dãy 5 ô trống để có phép tính.
Chỉ yêu cầu học sinh viết dấu cộng vào ô trống để có: 1 + 2 = 3
b) Đến câu này nâng dần mức độ, học sinh phải viết cả phép tính và kết quả

7
1 2 = 3
1 + 1 = 2
SKKN: Biện pháp giúp học sinh lớp một giải tốt các bài toán có lời văn
Và yêu cầu tăng dần, học sinh có thể nhìn từ một tranh vẽ bài 4 trang 77 diễn
đạt theo 2 cách .

Cách 1: Có 8 hộp thêm 1 hộp, tất cả là 9 hộp.
8 + 1 = 9

Cách 2: Có 1 hộp đưa vào chỗ 8 hộp, tất cả là 9 hộp.

1 + 8 = 9
Tương tự câu b: Có 7 bạn và 2 bạn đang đi tới. Tất cả là 9 bạn.
Cách 1:

7 + 2 = 9
Cách 2:
2 + 7 = 9

Đến bài 3 trang 85
Học sinh quan sát và cần hiểu được:
Lúc đầu trên cành có 10 quả. Sau đó rụng 2 quả. Còn lại trên cành 8 quả.
10 - 2 = 8

Ở đây giáo viên cần động viên các em diễn dạt- trình bày miệng ghi đúng

phép tính.
Tư duy toán học được hình thành trên cơ sở tư duy ngôn ngữ của học sinh.
8
SKKN: Biện pháp giúp học sinh lớp một giải tốt các bài toán có lời văn
Khi dạy bài này cần hướng dẫn học sinh diễn đạt trình bày động viên các em
viết được nhiều phép tính để tăng cường khả năng diễn đạt cho học sinh.
Cứ như thế đến tuần 17, học sinh lớp tôi đã có được khoảng 17 em quen
với việc đọc, tóm tắt, rồi nêu bài toán bằng lời, sau đó nêu bài giải và tự điền số
vào phép tính thích hợp theo mẫu trên. Nhưng ở đây, mức độ nâng dần lên,
không còn dựa vào các ô nữa mà học sinh tự ghi được phép tính và kết quả phép
tính.
Ví dụ 2 : Ở tiết : Bảng cộng và bảng trừ trong phạm vi 10. Tôi đã cho học
sinh tiếp cận với giải toán ở học kì II.
Bài 3b trang 87
Có : 10 quả bóng
Cho : 3 quả bóng
Còn lại…. quả bóng ?
Ở bài toán này không có tranh vẽ, tôi cho học sinh đọc kĩ tóm tắt. Dựa vào
tóm tắt, học sinh có thể nêu đề toán bằng lời : “Hoa có 10 quả bóng, Hoa cho
bạn 3 quả bóng. Hỏi Hoa còn lại mấy quả bóng ?” Học sinh nêu được câu trả lời
bằng lời : “Hoa còn lại 7 quả bóng”
10 - 3 = 7

Ngoài ra, tôi còn cho học sinh làm các bài tập mở có rất nhiều cách giải
quyết dẫn đến nhiều đáp số hoặc câu trả lời khác nhau.
Ví dụ : Ở bài 5 (b) trang 50
Viết phép tính thích hợp :
Nhìn tranh : Có 4 con chim đang đậu. 1 con nữa bay đến. Hỏi có tất cả mấy
con chim ?
Học sinh có thể nêu bài toán bằng nhiều cách khác nhau

* Cách 1: Có 4 con chim đang đậu, 1 con nữa bay đến. Hỏi có tất cả mấy con
chim ?
4 + 1 = 5
* Cách 2 : Có 1 con chim đang bay đến và 4 con chim đậu trên cành. Hỏi trên
cành có tất cả mấy con chim ?
9
SKKN: Biện pháp giúp học sinh lớp một giải tốt các bài toán có lời văn
1 + 4 = 5
Cách 3 : Có 5 con chim, bay đi mất 1 con. Hỏi còn lại mấy con chim ?
5 - 1 = 4
Cách 4 : Có tất cả 5 con chim, trong đó có 4 con chim đậu trên cành. Hỏi có mấy
con chim đã bay đến ?
5 - 4 = 1
Qua bài tập này, học sinh có rất nhiều cách giải nên tôi không áp đặt cho
học sinh chỉ có một cách giải mà khuyến khích học sinh nêu nội dung bài toán,
bài toán có nhiều cách tìm ra đáp số đúng nhưng tôi hướng cho học sinh thực
hiện cách 1 là cách giải hợp lí nhất.
Từ bài này, tôi cứ làm như vậy, học sinh quen dần với cách nêu bài toán
bằng miệng, các em sẽ dễ dàng viết câu lời giải sau này.
Như vậy, ở học kì 1, chủ yếu giúp học sinh thực hiện thao tác đọc đề toán,
khâu này sẽ có hai tác dụng đó là : Học sinh rèn kĩ năng đọc hiểu và thao tác
xem tranh vẽ, tập phát biểu bài toán bằng lời, tập nêu câu trả lời và điền phép
tính thích hợp (với tình huống trong tranh).
Sang học kì 2, chính thức học giải toán có lời văn từ tuần 23. Lúc này,
học sinh được học về cấu tạo của bài toán có lời văn gồm hai phần chính :
Những cái đã cho (đã biết) và cái phải tìm (chưa biết), nhưng khó có thể giải
thích cho học sinh bài toán là gì nên tôi chỉ giới thiệu 2 bộ phận của bài toán cụ
thể : Những cái đã cho (dữ kiện) cái cần tìm (câu hỏi)
Ví dụ 1 : Bài 1- trang 115 có yêu cầu : Viết số thích hợp vào chỗ chấm để
có bài toán

Bài toán : Có….bạn, có thêm….bạn đang đi tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu bạn ?
Trước tiên, tôi yêu cầu học sinh đọc thầm, tự nêu nhiệm vụ cần thực hiện
(Viết số thích hợp vào chỗ chấm). Sau đó, tôi cho học sinh quan sát mô hình, tôi
đính trên bảng lớp, học sinh nhìn và nêu miệng các số liệu vào chỗ các dữ kiện
để được bài toán ;
10
SKKN: Biện pháp giúp học sinh lớp một giải tốt các bài toán có lời văn


=

Học sinh có thể nêu nhiều ý kiến, đây là cơ hội để tôi rèn kĩ năng nói cho
học sinh. Chắc chắn sẽ có nhiều học sinh nêu.
Ví dụ như “Có 3 bạn, có thêm 2 bạn nữa. Hỏi có tất cả bao nhiêu bạn ?”
Tôi hỏi, học sinh trả lời :
+ Bài toán cho biết gì ? (Có 3 bạn, thêm 2 bạn nữa)
Tôi yêu cầu học sinh nêu câu hỏi của bài toán (hỏi có tất cả bao nhiêu bạn ?).
Tôi hỏi tiếp : Theo câu hỏi này em phải làm gì ? (Tìm xem có tất cả bao nhiêu
bạn ?)
Ví dụ 2 : Bài 4- trang 116 lại thiếu cả dữ kiện và câu hỏi
Bài 4 : Nhìn tranh vẽ tiếp vào chỗ chấm để có bài toán.
Có con chim đậu trên cành, có thêm con chim bay đến. Hỏi ?
Ở bài này, tôi cũng cho học sinh quan sát tranh, gọi học sinh nêu
miệng đề toán và cho học sinh điền số vào dữ kiện và điền từ vào chỗ chấm của
câu hỏi. Sau đó, tôi tập cho học sinh nhận xét;

=
11
SKKN: Biện pháp giúp học sinh lớp một giải tốt các bài toán có lời văn
Tôi gợi ý câu hỏi : Bài toán thường có những gì ? (Bài toán có các số liệu)

và có câu hỏi. Nếu trường hợp học sinh không trả lời được tôi hướng dẫn học
sinh trả lời, học sinh trả lời đúng rồi, tôi cho học sinh khác nhắc lại, kết hợp tôi
sửa lỗi diễn đạt bằng lời cho học sinh;
Qua các thao tác này, bước đầu, tôi đã dẫn dắt học sinh tìm được hai phần
chính của bài toán có lời văn. Đây là điểm tựa cơ bản để tôi tập cho học sinh làm
quen với việc tóm tắt bài toán. Học sinh làm tốt yêu cầu nhìn tranh nêu các dữ
liệu bài toán thành thạo, tôi tiến hành biện pháp 2.
2. Biện pháp 2 : Hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề toán
Đến giai đoạn này, tiết học tiếp theo về giải toán có lời văn, đã có đầy đủ
dữ kiện và câu hỏi, tôi đi sâu vào hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán. Tôi cho
học sinh đọc to, rõ nội dung bài toán, hướng dẫn học sinh đọc và hiểu một số từ
khóa quan trọng có trong đề toán như : thêm, tất cả; bớt hay bớt đi; ăn mất, còn
lại; bay đến, bay đi,…. kết hợp hình minh họa để học sinh hiểu thêm.
Vấn đề quan trọng ở đây là làm như thế nào để giúp học sinh hiểu được
bài toán thông qua việc giúp học sinh tóm tắt được bài toán. Tôi luôn trăn trở,
đắn đo và tôi đã đưa ra cách làm như sau :
+ Đàm thoại : bài toán cho biết gì ? bài toán hỏi gì;
+ Bút đàm : dùng bút chì gạch chân dữ kiện bài toán, sau đó xóa
bằng bút chì;
+ Dựa vào câu trả lời của học sinh tôi viết tóm tắt ở bảng lớp;
+ Dựa vào tóm tắt, tôi cho học sinh nêu lại nội dung bài toán; Đây
cũng là cách tốt nhất để giúp học sinh biết phân tích đề toán.
Học sinh xác định rõ được cái đã cho và cái phải tìm, học sinh viết thẳng
cột và có thể lựa chọn phép tính giải nhưng dòng cuối phần tóm tắt là một câu
hỏi (viết gọn lại) cần phải đặt dấu chấm hỏi (?) ở cuối.
Ví dụ 1 : Tuấn có 4 viên bi, Nam có 3 viên bi. Hỏi cả hai bạn có bao
nhiêu viên bi ?
Tuấn có : 4 viên bi
Nam có : 3 viên bi
Cả hai bạn :… viên bi ?

Sau khi giúp học sinh tìm hiểu đề toán để xác định rõ cái đã cho và cái
phải tìm.
12
SKKN: Biện pháp giúp học sinh lớp một giải tốt các bài toán có lời văn
Ví dụ 2: Nhà An có 5 con gà,mẹ mua thêm 4 con gà.Hỏi nhà An có
tất cả mấy con gà?
- Bài toán cho gì? (Nhà An có 5 con gà)
- Còn cho gì nữa? (Mẹ mua thêm 4 con gà)
- Bài toán hỏi gì? (Nhà An có tất cả mấy con gà?)
Giáo viên nêu tiếp: Muốn biết nhà An có tất cả mấy con gà em làm
tính gì? (tính cộng) Mấy cộng mấy? (5 + 4) ; 5 + 4 bằng mấy? (5 + 4 = 9);
Hoặc: Muốn biết nhà An có tất cả mấy con gà em tính thế nào? (5 + 4 = 9);
Hoặc: Nhà An có tất cả mấy con gà? Em tính thế nào để được 9? (5 + 4 = 9).
Tới đây giáo viên gợi ý để học sinh nêu tiếp "9 này là 9 con gà", nên ta
viết "con gà" vào trong dấu ngoặc đơn: 5 + 4 = 9 (con gà).
Sau khi học sinh đã xác định được phép tính, nhiều khi việc hướng
dẫn học sinh đặt câu lời giải còn khó hơn việc chọn phép tính và tính ra đáp
số. Với học sinh lớp 1, lần đầu tiên được làm quen với cách giải loại toán
này nên các em rất lúng túng.Có thể dùng một trong các cách sau:
Cách 1

: Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ đầu (Hỏi) và cuối
(mấy con gà ?)để có câu lời giải:"Nhà An có tất cả:" hoặc thêm từ "là" để có
câu lời giải:Nhà An có tất cả là:
Cách 2

: Đưa từ "con gà" ở cuối câu hỏi lên đầu thay thế cho từ "Hỏi"
và thêm từ Số (ở đầu câu), là ở cuối câu để có: "Số con gà nhà An có tất cả
là:”
Cách 3


: Dựa vào dòng cuối cùng của tóm tắt, coi đó là "từ khoá" của
câu lời giải rồi thêm thắt chút ít.
Ví dụ: Từ dòng cuối của tóm tắt: "Có tất cả: con gà ?". Học sinh
viết câu lời giải: "Nhà An có tất cả:"
Cách 4

: Giáo viên nêu miệng câu hỏi: "Hỏi nhà An có tất cả mấy con
gà?" để học sinh trả lời miệng: "Nhà An có tất cả 9 con gà" rồi chèn phép
tính vào để có cả bước giải (gồm câu lời giải và phép tính):
Nhà An có tất cả:
5 + 4 = 9 (con gà)
13
SKKN: Biện pháp giúp học sinh lớp một giải tốt các bài toán có lời văn
Cách 5

: Sau khi học sinh tính xong: 5 + 4 = 9 (con gà), giáo viên chỉ
vào 9 và hỏi: "9 con gà ở đây là số gà của nhà ai?" (là số gà nhà An có tất
cả). Từ câu trả lời của học sinh ta giúp các em chỉnh sửa thành câu lời giải:
"Số gà nhà An có tất cả là" v.v
Ở đây giáo viên cần tạo điều kiện cho các em tự nêu nhiều câu lời giải
khác nhau, sau đó bàn bạc để chọn câu thích hợp nhất. Không nên bắt buộc
học sinh nhất nhất phải viết theo một kiểu.
3. Biện pháp 3 : Hướng dẫn học sinh lựa chọn lời giải và phép tính
Sau khi học sinh đã biết tóm tắt bài toán một cách chắc chắn, thành thạo,
tôi hướng dẫn học sinh thao tác viết lời giải và phép tính dựa vào câu hỏi bài
toán để trả lời. Ví dụ bài toán trên, tôi gợi ý, hướng dẫn để học sinh lồng cốt câu
lời giải vào trong tóm tắt để dựa vào đó học sinh dễ viết câu lời giải hơn. Chẳng
hạn, học sinh dựa vào dòng cuối của phần tóm tắt có thể viết lại ngay câu lời
giải với nhiều cách khác nhau chứ không phải gò ép học sinh phải trả lời theo

một kiểu;
+ Cả hai bạn có số viên bi là;
+ Số viên bi của hai bạn có tất cả là;
+ Cả hai bạn có là. (nên hạn chế câu trả lời này)
Đây là dịp để học sinh phát huy khả năng sáng tạo của mình, các em được
trình bày ý kiến của bản thân;
Việc dạy cho trẻ đặt câu lời giải còn vất vả hơn dạy trẻ lựa chọn các phép
tính và thực hiện các phép tính ấy để tìm ra đáp số. Vì vậy từ tuần 23, học sinh
lớp tôi đã đọc thông, viết thạo, tôi chỉ chọn câu hỏi trong đề toán sao cho chỉ cần
chỉnh sửa một chút thôi là được ngay câu lời giải. Còn khi viết phép tính, tôi bắt
buộc học sinh viết bằng chữ số (kèm theo tên đơn vị đặt trong dấu ngoặc sau kết
quả) mà thôi;
Ví dụ : Từ bài toán trên, tôi hỏi : Cả hai bạn có mấy viên bi ? Em làm
phép tính gì ? (Tính cộng) mấy cộng mấy ? (3+4); 3+ 4 bằng mấy ? (7) hoặc
muốn biết cả hai bạn có mấy viên bi ? (7) Em tính thế nào để được 7 ? (3+4=7);
Tới đây, tôi để học sinh nêu tiếp 7 là 7 viên bi. Ta viết “viên bi” vào trong
dấu ngoặc đơn 3 + 4 = 7 (viên bi), còn đối với đáp số thì không cần viết tên đơn
vị trong dấu ngoặc đơn nữa (Đáp số : 7 viên bi); Khâu này tôi làm chậm và ghi
14
SKKN: Biện pháp giúp học sinh lớp một giải tốt các bài toán có lời văn
bảng rõ ràng để học sinh nhìn mẫu trình bày bài toán hoàn chỉnh, khoa học
nhằm giáo dục tính cẩn thận, thẩm mĩ cho học sinh;
Sau đây, tôi hệ thống hóa lại nội dung các bài toán giải có lời văn để
hướng dẫn học sinh một cách hiệu quả. Trong phạm vi 17 tiết dạy từ tiết 81 đến
tiết 108 tôi đặc biệt chú ý vào 1 số tiết chính sau đây :
Tiết 81: Bài toán có lời văn
Có bạn, có thêm bạn đang đi tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu bạn ?
HS quan sát tranh và trả lời câu hỏi
Điền vào chỗ chấm số 1 và số 3.
- Bài 2 tương tự.

Qua tìm hiểu bài toán giúp cho học sinh xác định được bài có lời văn gồm 2
phần :
- Thông tin đã biết gồm 2 yếu tố.
- Câu hỏi (thông tin cần tìm)
Từ đó, học sinh xác định được phần còn thiếu trong bài tập ở trang 116 :
Có 1 con gà mẹ và 7 con gà con. Hỏi có tất cả bao nhiêu con gà ?
Kết hợp giữa việc quan sát tranh và trả lời câu hỏi gợi ý của giáo viên, học sinh
hoàn thành bài toán 4 trang 116 :
Có 4 con chim đậu trên cành, có thêm 2 con chim bay đến. Hỏi có tất cả bao
nhiêu con chim ?
Tiết 82: Giải toán có lời văn.
- Giáo viên nêu bài toán. Học sinh đọc bài toán
- Đây là bài toán gì ? Bài toán có lời văn.
-Thông tin cho biết là gì ? Có 5 con gà, mua thêm 4 con gà.
- Câu hỏi là gì ? Hỏi nhà An có tất cả mấy con gà ?
Dựa vào tranh vẽ và tóm tắt mẫu, GV đưa ra cách giải bài toán mẫu :
Bài giải
Nhà An có tất cả là :
5 + 4 = 9 (con gà)
Đáp số: 9 con gà
Bài 1 trang117: Học sinh đọc bài toán - phân tích đề bài- điền vào tóm tắt
Và giải bài toán.
15
SKKN: Biện pháp giúp học sinh lớp một giải tốt các bài toán có lời văn
Tóm tắt :
An có: 4 quả bóng
Bình có: 3 quả bóng
Cả hai bạn có : quả bóng ?
Bài giải
Cả hai bạn có là :

4 + 3 = 7 (quả bóng)
Đáp số : 7 quả bóng
Bài 2 trang 118 :
Tóm tắt :
Có : 6 bạn
Thêm: 3 bạn
Có tất cả : bạn ?
Bài giải
Có tất cả số bạn là :
6+3= 9 (bạn)
Đáp số: 9 bạn
Qua 2 bài toán trên tôi rút ra cách viết câu lời giải như sau : Lấy dòng thứ 3
của phần tóm tắt và thêm chữ là :
VD - Cả hai bạn có là :
- Có tất cả là :
Tương tự bài 3 trang118 câu lời giải sẽ là :
- Có tất cả là :
Tiết 84 Luyện tập
Bài 1 và bài 2 trang 121 tương tự bài 1, 2, 3 trang 117. Nhưng câu lời giải được
mở rộng hơn bằng cách thêm cụm từ chỉ vị trí vào trước cụm từ có tất cả là
Cụ thể là
- Bài 1 trang 121 : Trong vườn có tất cả là :
- Bài 2 trang 121 : Trên tường có tất cả là :
Tiết 85 Luyện tập
Bài 1 trang 122 : HS đọc đề toán – phân tích bài toán (như trên)
Điền số vào tóm tắt
Vài ba học sinh nêu câu lời giải khác nhau
16
SKKN: Biện pháp giúp học sinh lớp một giải tốt các bài toán có lời văn
GV chốt lại một cách trả lời mẫu : -Số quả bóng của An có tất cả là :

Tương tự : Bài 2 trang 122 - Số bạn của tổ em có là :
Bài 3 trang 122: - Số gà có tất cả là :
Vậy qua 3 bài tập trên học sinh đã mở rộng được nhiều cách viết câu lời giải
khác nhau, song GV chốt lại cách viết lời giải như sau :
Thêm chữ Số + đơn vị tính của bài toán trước cụm từ có tất cả là như ở tiết
82 đã làm.
Riêng với loại bài mà đơn vị tính là đơn vị đo độ dài (cm) cần thêm chữ dài
vào trước chữ là
VD cụ thể : Tóm tắt
Đoạn thẳng AB : 5cm
Đoạn thẳng BC : 3cm
Cả hai đoạn thẳng : cm ?
Bài giải
Cả hai đoạn thẳng dài là :
5+ 3 = 8 (cm)
Đáp số : 8 cm
Tiết 86 Tiết 104
Hầu hết đều có bài toán có lời văn vận dụng kiến thức toán được cung cấp
theo phân phối chương trình. Tuy nhiên, việc phân tích đề - tóm tắt - giải bài
toán phải luôn luôn được củng cố duy trì và nâng dần mức độ. Song cơ bản vẫn
là các mẫu lời giải cho các bài toán thêm là :
- Có tất cả là :
- Số (đơn vị tính) + có tất cả là :
- Vị trí (trong, ngoài, trên, dưới, ) + có tất cả là :
- đoạn thẳng + dài là :
Tiết 105 : Giải toán có lời văn (tiếp theo)
Bài toán : Nhà An có 9 con gà, mẹ đem bán 3 con gà. Hỏi nhà An còn lại
mấy con gà ?
HS đọc – phân tích bài toán :
+Thông tin cho biết là gì ? Có 9 con gà. Bán 3 con gà.

+Câu hỏi là gì ? Còn lại mấy con gà ?
17
SKKN: Biện pháp giúp học sinh lớp một giải tốt các bài toán có lời văn
GV hướng dẫn HS đọc tóm tắt - bài giải mẫu. GV giúp HS nhận thấy câu lời
giải ở loại toán bớt này cũng như cách viết của loại toán thêm đã nêu ở trên chỉ
khác ở chỗ cụm từ có tất cả được thay thế bằng cụm từ còn lại mà thôi. Cụ thể
là : Bài giải
Số gà còn lại là :
9-3= 6 (con gà)
Đáp số: 6 con gà.
Bài 1 trang 148 : Tóm tắt
Có : 8 con chim
Bay đi : 2 con chim
Còn lại : con chim ?
Bài giải
Số chim còn lại là :
8 - 2 = 6 (con chim)
Đáp số : 6 con chim.
Bài 2 trang 149
Tóm tắt
Có : 8 quả bóng
Đã thả : 3 quả bóng
Còn lại : quả bóng ?
Bài giải
Số bóng còn lại là :
8 - 3 = 5 (quả bóng)
Đáp số: 5 quả bóng
Bài 3 trang 149
Tóm tắt
Đàn vịt có : 8 con

ở dưới ao : 5 con
Trên bờ : con ?
Bài giải
Trên bờ có số con vịt là :
8 -5= 3 (con vịt)
Đáp số: 3 con vịt
Tiết 106 Luyện tập Bài 1, 2 (tương tự tiết 105)
18
SKKN: Biện pháp giúp học sinh lớp một giải tốt các bài toán có lời văn
Tiết 107 Luyện tập Bài 1, 2 (tương tự như trên)
Nhưng bài 4 trang 150 và bài 4 trang151 thì lời giải dựa vào dòng thứ 3 của
phần tóm tắt bài toán:
Số hình tam giác không tô màu là : Số hình tròn không tô màu là:
8 - 4 = 4 (hình) 15 - 4 = 11 (hình)
Đáp số: 4 hình tam giác Đáp số: 11 hình tròn
Bài 3 trang 151 Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng

? cm 2cm

13cm
Bài giải
Sợi dây còn lại dài là :
13 – 2 = 11 (cm)
Đáp số : 11cm
Tiết 108 Luyện tập chung
Đây là phần tổng hợp chốt kiến thức của cả 2 dạng toán đơn thêm và bớt ở
lớp 1
Bài 1 trang 152
a) Bài toán : Trong bến có ô tô, có thêm ô tô vào bến. Hỏi ?
HS quan sát tranh và hoàn thiện bài toán thêm rồi giải bài toán với câu lời

giải có cụm từ có tất cả
b) Bài toán : Lúc đầu trên cành có 6 con chim, có con bay đi. Hỏi ?
HS quan sát tranh rồi hoàn thiện bài toán bớt và giải bài toán với câu lời giải
có cụm từ còn lại
Lúc này, HS đã quá quen với giải bài toán có lời văn nên hướng dẫn cho HS
chọn cách viết câu lời giải gần với câu hỏi nhất đó là :
- Đọc kĩ câu hỏi.
19
SKKN: Biện pháp giúp học sinh lớp một giải tốt các bài toán có lời văn
- Bỏ chữ Hỏi đầu câu hỏi.
- Thay chữ bao nhiêu bằng chữ số.
- Thêm vào cuối câu chữ là và dấu hai chấm
Cụ thể Bài 1 trang 152
a) Câu hỏi là : Hỏi có tất cả bao nhiêu ô tô ?
Câu lời giải là : Có tất cả số ô tô là :
b) Câu hỏi là: Hỏi trên cành còn lại bao nhiêu con chim ?
Câu lời giải là : Trên cành còn lại số con chim là :
VD khác :
a) Câu hỏi là : Hỏi hai lớp trồng được tất cả bao nhiêu cây ?
Câu lời giải là : Hai lớp trồng được tất cả số cây là :
b) Câu hỏi là : Hỏi con sên bò được tất cả bao nhiêu xăng-ti-mét ?
Câu lời giải là : Con sên bò được tất cả số xăng-ti-mét là ?
c) Câu hỏi là:Hỏi Lan còn phải đọc bao nhiêu trang nữa thì hết quyển sách ?
Câu lời giải là: Lan còn phải đọc số trang nữa là :
Trên đây là 2 mẫu toán đơn điển hình của phần giải toán có lời văn ở lớp 1.
Tôi đã đưa ra phương pháp dạy từ dễ đến khó để HS có thể giải toán mà không
gặp khó khăn ở bước viết câu lời giải. Tối thiểu HS có lực học trung bình yếu
cũng có thể chọn cho mình 1 cách viết đơn giản nhất bằng cụm từ:Có tất cả là: ;
Hoặc: Còn lại là:
Còn HS khá giỏi các em có thể chọn cho mình được nhiều câu lời giải khác

nhau nâng dần độ khó thì lời giải càng hay và sát với câu hỏi hơn. Có thể coi
việc trình bày bài giải là trình bày một sản phẩm của tư duy. Thực tế hiện
nay các em học sinh lớp 1 trình bày bài giải còn rất hạn chế, kể cả học sinh
khá giỏi. Cần rèn cho học sinh nề nếp và thói quen trình bày bài giải một
cách chính xác, khoa học, sạch đẹp dù trong giấy nháp, bảng lớp, bảng con
hay vở, giấy kiểm tra.Trước khi trình bày bài giải giáo viên cho học sinh
nhắc lại bằng câu hỏi:
- Muốn trình bày bài giải qua mấy bước?( Qua 3 bước)
- Đó là những bước nào?
+ Bước 1: Viết lời giải.
+ Bước 2: Viết phép tính.
20
SKKN: Biện pháp giúp học sinh lớp một giải tốt các bài toán có lời văn
+ Bước 3: Viết đáp số.
Từ đó học sinh trình bày bài giải một bài toán có lời văn như sau:
Bài giải
Nhà An có tất cả là:
5 + 4 = 9 ( con gà )
Đáp số : 9 con gà
Nếu lời giải ghi:"Số gà nhà An là:" thì phép tính có thể ghi: “5 + 4 = 9
(con)”. (Lời giải đã có sẵn danh từ "gà").
Giáo viên cần hiểu rõ lý do tại sao từ "con gà" lại được đặt trong dấu
ngoặc đơn?Đúng ra thì 5 + 4 chỉ bằng 9 thôi (5 + 4 = 9) chứ 5 + 4 không thể
bằng 9 con gà được. Do đó, nếu viết:"5 + 4 = 9 con gà"là sai. Nói cách khác,
nếu vẫn muốn được kết quả là 9 con gà thì ta phải viết như sau mới đúng:
"5 con gà + 4 con gà = 9 con gà". Song cách viết phép tính với các đơn vị
đầy đủ như vậy khá phiền phức và dài dòng, gây khó khăn và tốn nhiều thời
gian đối với học sinh lớp 1.Ngoài ra học sinh cũng hay viết thiếu và sai như
sau:
5 con gà + 4 = 9 con gà

5 + 4 con gà = 9 con gà
5 con gà + 4 con gà = 9 con gà
Về mặt toán học thì ta phải dừng lại ở 9, nghĩa là chỉ được viết 5 + 4 = 9
thôi.Song vì các đơn vị cũng đóng vai trò rất quan trọng trong các phép tính
giải nên vẫn phải tìm cách để đưa chúng vào phép tính. Do đó, ta mới ghi
thêm đơn vị "con gà" ở trong dấu ngoặc đơn để chú thích cho số 9 đó. Có
thể hiểu rằng chữ "con gà” viết trong dấu ngoặc đơn ở đây chỉ có một sự
ràng buộc về mặt ngữ nghĩa với số 9, chứ không có sự ràng buộc chặt chẽ về
toán học với số 9. Như vậy cách viết 5 + 4 = 9 (con gà) là một cách viết phù
hợp.
4. Biện pháp 4: Vận dụng phương pháp dạy học thực hành luyện tập trong
dạygiải toán .
*Đối với dạy bài mới:
* Giáo viên cần giúp học sinh tự phát hiện và tự giải quyết vấn đề của
bài học.
21
SKKN: Biện pháp giúp học sinh lớp một giải tốt các bài toán có lời văn
Phần bài học thường được nêu thành cùng một loại tình huống có vấn đề.
Chẳng hạn, cùng nêu về hiện tượng có một số ( một, hai ) con ong bay khỏi chỗ
đậu của ba con ong.
Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát hình vẽ ( tranh, ảnh …) hoặc sử
dụng đồ dùng thích hợp để tự học sinh nêu ra vấn đề cần giải quyết.
Ví dụ: Có ba con ong đậu trên bông hoa, một con ong bay ra khỏi bông
hoa, còn mấy con ong đậu trên bông hoa ?
Học sinh tham gia giải quyết vấn đề: ( Ba con ong bớt một con ong còn
hai con ong ).
Thời gian đầu giáo viên hướng dẫn học sinh nêu và giải quyết vấn đề, dần
dần khuyến khích học sinh tự nêu và tự giải quyết vấn đề.
Có loại bài học giáo viên phải giúp học sinh tự nêu, tự giải quyết vấn đề,
dần dần khuyến khích học sinh tự nêu và tự giải quyết vấn đề, tự xây dựng kiến

thức mới. Giáo viên phải giúp học sinh ghi nhớ kiến thức mới, phải qua thực
hành vận dụng kiến thức đó để giải quyết các vấn đề nêu trong phần bài tập thì
mới có thể khẳng định học sinh đã tự chiếm lĩnh kiến thức mới đến mức độ nào,
vì vậy sau khi đã nắm được cách giải các bài toán có lời văn , học sinh phải làm
được các bài tập trong phiếu bài tập.
Xây dựng rồi ghi nhớ và vận dụng kiến thức mới vào các tình huống khác
nhau trong thực hành sẽ chiếm lĩnh được kiến thức mới đó.
* Hướng dẫn học sinh thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức mới và kiến
thức đã học.
Như vậy giáo viên đã giúp học sinh huy động kiến thức đã học và vốn
sống để phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức mới. Đặt kiến thức mới trong mối
quan hệ với kiến thức đã có.
* Giúp học sinh thực hành rèn luyện cách diễn đạt thông minh bằng lời,
bằng trình bày bài giải .
5. Biện pháp thứ 5: Giúp học sinh tự thực hành luyện tập giải toán theo
khả năng của học sinh:
- Bao giờ cũng yêu cầu học sinh phải làm các bài tập theo thứ tự sắp xếp
trong phiếu (hoặc do giáo viên sắp xếp), không tự ý lướt qua hoặc bỏ qua bài tập
nào, kể cả bài tập học sinh cho là dễ.
22
SKKN: Biện pháp giúp học sinh lớp một giải tốt các bài toán có lời văn
- Không nên bắt học sinh chờ đợi nhau trong quá trình làm bài. Học sinh
nào đã làm xong và tự kiểm tra (hoặc nhờ giáo viên kiểm tra) được bài 1 thì nên
chuyển sang bài tiếp sau.
Trong một tiết học phải chấp nhận có học sinh làm được nhiều bài tập hơn
học sinh khác. Giáo viên hãy giúp những học sinh làm bài chậm về cách làm
bài, hãy giúp học sinh khá giỏi làm các bài tập của tiết học và khai thác hết nội
dung của từng bài tập.
6. Biện pháp thứ 6: Tạo ra sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các đối
tượng học sinh:

- Khi cần thiết có thể cho học sinh trao đổi ý kiến trong nhóm nhỏ hoặc
trong toàn lớp về cách giải hoặc các cách giải một bài tập. Nên khuyến khích
học sinh bình luận về cách giải của bạn, tự rút kinh nghiệm trong quá trình trao
đổi ý kiến ở nhóm, ở lớp.
- Sự hỗ trợ giữa các học sinh trong nhóm phải giúp học sinh tự tin vào khả
năng của bản thân, tự rút kinh nghiệm về cách học của bản thân.
8. Biện pháp thứ 7: Kết hợp với phụ huynh hướng dẫn cách học toán cho
học sinh .
- Ngay từ đầu năm học họp phụ huynh tôi đưa ra kế hoạch thực hiện năm học và
các quy định chuẩn bị cho học sinh học tập, nhất là môn toán phải đủ: ( Sách,
bút, thước… ) vở ghi như các môn học khác, nhưng cần có thêm khuyến khích
phụ huynh học sinh tạo điều kiện cho con cái học tốt.
- Nêu tầm quan trọng của việc thực hiện đổi mới nội dung chương trình
phương pháp giảng dạy lớp 1 để phụ huynh thấy được và có trách nhiệm quan
tâm đôn đốc con em học tập.
- Tổ chức kí kết thi đua thực hiện tốt các quy định và chỉ tiêu phấn đấu
của lớp đồng thời quy định hàng tháng có sự trao đổi giữa nhà trường và gia
đình để cùng kết hợp giáo dục học sinh.
9. Biện pháp thứ 8: Thiết kế bài giảng điện tử dạy trình chiếu PowerPoint .
Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy và học (bằng bài giảng điện tử)
là cải tiến đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực, chủ động sáng
tạo của học sinh, lúc bấy giờ giáo viên chỉ là người tổ chức, hướng dẫn các hoạt
động thông qua hình ảnh trực quan sinh động, học sinh tư duy và tự phát hiện,
23
SKKN: Biện pháp giúp học sinh lớp một giải tốt các bài toán có lời văn
tìm ra kiến thức mới của bài học và thực hành, việc ứng dụng công nghệ thông
tin vào giảng dạy, có những ưu điểm so với phương pháp truyền thống như:
- Nội dung, hình thức tiết dạy phong phú, đưa được nhiều hình ảnh động, từ
đó, tạo được sự kích thích hứng thú học tập của học sinh, tạo được không khí
vui tươi và thi đua trong học tập qua hoạt động thi đua giữa các nhóm hiệu quả

cao.
- Do tính trực quan cao, nên giúp HS yếu kém dễ tham gia và chủ động
chiếm lĩnh tri thức tạo cảm hứng ham mê môn học.
- Gv tiết kiệm được thời gian dán, treo đồ dùng trực quan và một số thao tác
khác để giành thời gian cho việc rèn luyện kĩ năng, theo dõi và quản lí lớp, chú ý
nhiều đối tượng yếu, học sinh khuyết tật hòa nhập.
- Giáo viên chỉ cần những thao tác rất đơn giản: đưa chuột, kích chuột là đã
có những hình ảnh đẹp, sinh động và có những nội dung kiến thức của bài rất
đầy đủ. Nó sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian( viết bảng, đưa tranh, treo bảng
phụ ) Thời gian đó giáo viên có thể giành để giúp cho học sinh được thực hành
luyện tập nhiều hơn.
VD: Khi dạy bài toán có lời văn môn toán lớp 1.
• Phần hình thành kiến thức mới:
Để giới thiệu đề bài thì giáo viên phải chep đầu bài lên bảng , … Nhưng với
bài giảng điện tử thì tất cả những thao tác này của giáo viên chỉ là những cú kích
chuột nhẹ nhàng không những thế giáo viên lại có nhiều thời gian hơn để quan
sát học sinh và có điều kiện nhiều để hướng dẫn học yếu kém thực hiện.
• Với phần thực hành luyện tập:
Với bài giảng thông thường giáo viên phải tự vẽ những hình tượng trưng chỉ
có thể là hình tam giác hay hình vuông. Với mỗi bài tập giáo viên phải chuẩn bị
rất nhiều bảng phụ cồng kềnh nếu không giáo viên sẽ mất rất nhiều thời gian vào
việc viết đề bài tập, với những loại bài tập về đếm số lượng con vật, hay nối
hình ảnh số lượng con vật theo mẫu thì với bàn tay của giáo viên không phải là
hoạ sĩ thì không thể có được những hình ảnh đẹp sinh động thu hút sự chú ý học
sinh khi làm bài. Ngược lại, với bài giảng điện tử giáo viên chỉ mất thời gian
chuẩn bị, thì khi lên lớp sự tiếp thu bài hứng thú học tập của học sinh sẽ làm
giáo viên thực sự hài lòng. Với bài giảng bình thường không thể làm được. Ví
dụ khi dạy với bài giảng điện tử PowerPoint thì hình ảnh có thể là con vật có thể
di chuyển được.
Với loại bài tập: Điền số thích hợp vào ô trống:

24
SKKN: Biện pháp giúp học sinh lớp một giải tốt các bài toán có lời văn
+Học sinh số 1 “ đếm số lượng thỏ chạy ra và viết số mà con đếm được vào
bảng con”
+Học sinh số 2 “đếm số lượng táo rơi xuống và viết số mà con đếm được vào
bảng con”
Ngoài ra khi sử dụng bài giảng điện tử trình chiếu PowerPoint giáo viên còn có
thể tổ chức nhiều trò chơi học tập hấp dẫn, bổ ích cho học sinh.
10. Biện pháp thứ 9: Kiểm tra lại bài giải và khắc sâu loại “Giải bài
toán có lời văn"
- Tập cho học sinh thói Học sinh Tiểu học đặc biệt là học sinh lớp Một
thường có thói quen khi làm bài xong không hay xem, kiểm tra lại bài đã
làm. Giáo viên cần giúp học sinh xây dựng thói quen học tập này.Cần kiểm
tra về lời giải, về phép tính, về đáp số hoặc tìm cách giải hoặc câu trả lời
khác.
- Nên hướng dẫn học sinh tự đánh giá bài làm của mình, của bạn.
- Khuyến khích học sinh tự nói ra những hạn chế của mình, của bạn khi tự
kiểm tra, tự đánh giá…
* Tập cho học sinh thói quen không thỏa mãn với bài làm của mình, với các
cách giải đã có:
- Sau mỗi tiết học, tiết luyện tập nên tạo cho học sinh niềm vui vì đã hoàn
thành công việc được giao, niềm tin vào sự tiến bộ của bản thân (bằng khuyến
khích, nêu gương…)
- Tạo cho học sinh mong muốn tìm được giải pháp tốt nhất cho bài làm của
mình. Vì vậy cho dù đã hoàn thành bài học hoặc bài làm, học sinh cũng vẫn
không thỏa mãn những gì đã đạt được. Cần tự kiểm tra, tự đánh giá và luôn luôn
tìm cách hoàn thiện việc đã làm.
Các “bài tập mở” trong Toán 1 là phương tiện để giáo viên động viên học
sinh tìm nhiều phương án giải quyết một số vấn đề và biết tự lựa chọn phương
án hợp lý nhất. Đừng bao giờ “áp đặt” học sinh theo phương án có sẵn, hãy động

viên các em tìm và lựa chọn phương án tốt nhất.
Ngoài việc dạy cho học sinh hiểu và giải tốt "Bài toán có lời văn" giáo
viên cần giúp các em hiểu chắc, hiểu sâu loại toán này. Ở mỗi bài, mỗi tiết
về "Giải toán có lời văn" giáo viên cần phát huy tư duy, trí tuệ, phát huy tính
tích cực chủ động của học sinh bằng việc hướng cho học sinh tự tóm tắt đề
25

×