Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tiểu luận môn Đầu tư Tăng cường quản lý hoạt động đầu tư nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.73 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA
ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
1.1 Khái niệm đầu tư và đầu tư phát triển
Đầu tư là hoạt động kinh tế rất phổ biến và có tính chất liên ngành. Có nhiều
khái niệm khác nhau về đầu tư nhưng suy cho cùng có thể hiểu đầu tư trên hai góc độ
khác nhau:
Theo nghĩa rộng: Đầu tư là sự hi sinh nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt
động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn
hơn các nguồn lực (tài lực, vật lực, nhân lực, trí lực ) đã bỏ ra để đạt được các kết
quả đó. Kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật
chất (nhà máy, đường sá, các của cải vật chất khác) và gia tăng năng suất lao động
trong nền sản xuất xã hội.
Theo nghĩa hẹp: Đầu tư chỉ bao gồm các hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện
tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các
nguồn lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Vậy, xét theo bản chất có thể phân chia hoạt động đầu tư trong nền kinh tế ra
thành 3 loại: đầu tư tài chính (là hình thức đầu tư mang lại lợi nhuận trực tiếp cho
người bỏ tiền ra để cho vay hoặc mua bán các chứng chỉ có giá mà không tạo ra tài
sản mới cho nền kinh tế), đầu tư thương mại (đây là hình thức mà nhà đầu tư bỏ tiền
ra để mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá
khi mua và khi bán), đầu tư tài sản vật chất và sức lao động (còn gọi là đầu tư phát
triển). Khác với hai hình thức trên, đầu tư phát triển tạo ra tài sản mới cho nền kinh
1
tế, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, góp phần tích cực tạo việc làm, nâng cao
đời sống của mọi thành viên trong xã hội. Hoạt động đầu tư phát triển bao gồm 3 yếu
cơ bản:
- Đầu tư phát triển là một chuỗi các hoạt động chi tiêu, hao phí các nguồn lực:
nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất (đất đai, máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật
liệu ), nguồn lực lao động và trí tuệ.
- Phương thức tiến hành các hoạt động đầu tư: xây dựng mới, sửa chữa nhà cửa


và cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng
đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của
các tài sản này
- Kết quả đầu tư, lợi ích đầu tư: Hoạt động đầu tư mang lại lợi ích cho chủ đầu
tư nói riêng (doanh thu, lợi nhuận ) và đem lại lợi ích cho nền kinh tế- xã hội nói
chung. Đầu tư được tiến hành trong hiện tại và kết quả của nó được thu về trong
tương lai.
Như vậy, đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là hoạt động sử dụng
vốn trong hiện tại, nhằm tạo ra những tài sản vật chất và trí tuệ mới, năng lực sản
xuất mới và duy trì những tài sản hiện có, nhằm tạo thêm việc làm và vì mục tiêu
phát triển.
1.2 Đặc điểm của đầu tư phát triển
Hoạt động đầu tư phát triển có những đặc điểm khác với các hoạt động đầu tư
khác, cần phải nắm bắt để quản lý đầu tư sao cho có hiệu quả, phát huy được tối đa
các nguồn lực.
− Đầu tư phát triển luôn đòi hỏi một lượng vốn lớn và nằm khê đọng trong suốt
quá trình thực hiện đầu tư. Vòng quay của vốn rất dài, chi phí sử dụng vốn lớn là cái
giá phải trả cho hoạt động đầu tư phát triển. Vì vậy, việc ra quyết định đầu tư có ý
nghĩa quan trọng. Nếu quyết định sai sẽ làm lãng phí khối lượng vốn lớn và không
phát huy hiệu quả đối với nền kinh tế xã hội. Trong quá trình thực hiện đầu tư và vận
hành kết quả đầu tư cần phải quản lý vốn sao cho có hiệu quả, tránh thất thoát, dàn
trải và ứ đọng vốn. Có thể chia dự án lớn thành các hạng mục công trình, sau khi xây
dựng xong sẽ đưa ngay vào khai thác sử dụng để tạo vốn cho các hạng mục công
trình khác nhằm tăng tốc độ chu chuyển vốn.
2
− Hoạt động đầu tư phát triển có tính dài hạn thể hiện ở: thời gian thực hiện đầu
tư kéo dài nhiều năm tháng và thời gian vận hành kết quả đầu tư để thu hồi vốn rất
dài. Để tiến hành một công cuộc đầu tư cần phải hao phí một khoảng thời gian rất lớn
để nghiên cứu cơ hội đầu tư, lập dự án đầu tư, tiến hành hoạt động đầu tư trên thực
địa cho đến khi các thành quả của nó phát huy tác dụng. Thời gian kéo dài đồng nghĩa

với rủi ro càng cao do ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố bất định và biến động về tự nhiên-
kinh tế- chính trị- xã hội. Vì vậy, để đảm bảo cho công cuộc đầu tư đem lại hiệu quả
kinh tế xã hội cao đòi hỏi phải làm tốt công tác chuẩn bị. Khi lập dự án đầu tư cần
phải tính toán kỹ lưỡng các rủi ro có thể xảy ra và dự trù các phương án khắc phục.
− Thành quả của hoạt động đầu tư phát triển là rất to lớn, có giá trị lớn lao về
kinh tế- văn hoá- xã hội cả về không gian và thời gian. Một công trình đầu tư phát
triển có thể tồn tại hàng trăm năm, hàng ngàn năm thậm chí tồn tại vĩnh viễn như các
công trình kiến trúc, các kỳ quan nổi tiếng thế giới như: Kim Tự Tháp Ai Cập, Vạn
Lý Trường Thành ở Trung Quốc, Ăngco Vát của Campuchia
− Tất cả các công trình đầu tư phát triển sẽ hoạt động ở ngay tại nơi nó được tạo
dựng nên. Do đó, các điều kiện về địa lý- xã hội có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực
hiện đầu tư cũng như tác dụng sau này của các kết quả đầu tư. Ví dụ như khi xây
dựng các dự án khai thác nguồn nguyên nhiên liệu (than, dầu mỏ, khí đốt ) cần phải
quan tâm đến vị trí địa lý (xem có gần nguồn nguyên nhiên liệu và thuận tiện trong
việc vận chuyển không) và quy mô, trữ lượng để xác định công suất dự án. Đối với
các nhà máy thuỷ điện, công suất phát điện tuỳ thuộc vào nguồn nước nơi xây dựng
công trình. Không thể di chuyển nhà máy thuỷ điện như di chuyển những chiếc máy
tháo dời do các nhà máy sản xuất ra từ điạ điểm này đến địa điểm khác. Để đảm bảo
an toàn trong quá trình xây dựng và hoạt động của kết quả đầu tư đòi hỏi các nhà đầu
tư phải quan tâm đến địa điểm đầu tư, các ngoại ứng tích cực và tiêu cực ảnh hưởng
trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc triển khai dự án.
1.3 Phân loại đầu tư phát triển
Trong quản lý và kế hoạch hoá hoạt động đầu tư các nhà kinh tế thường phân
loại hoạt động đầu tư theo các tiêu thức khác nhau. Mỗi tiêu thức phân loại phục vụ
cho một mục đích quản lý và nghiên cứu kinh tế khác nhau. Một số tiêu thức phân
loại đầu tư thường sử dụng là:
− Phân theo nguồn vốn
3
Vốn trong nước: bao gồm vốn từ khu vực nhà nước (vốn ngân sách nhà nước,
vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và vốn của doanh nghiệp nhà nước), vốn

từ khu vực tư nhân (tiền tiết kiệm của dân cư, vốn tích luỹ của các doanh nghiệp tư
nhân và các hợp tác xã)
Vốn nước ngoài: bao gồm vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), Vốn đầu tư
gián tiếp (vốn tài trợ phát triển chính thức- ODF trong đó viện trợ phát triển chính
thức - ODA chiếm tỷ trọng chủ yếu, nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại và
nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế).
Cách phân loại này cho thấy vai trò của từng nguồn vốn đối với sự phát triển
kinh tế xã hội và tình hình huy động vốn từ các nguồn cho đầu tư phát triển, từ đó
đưa ra giải pháp nhằm tăng cường huy động nguồn vốn cho đầu tư phát triển.
− Phân theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư
Đầu tư cơ bản nhằm tái sản xuất các tài sản cố định như nhà xưởng, máy móc
thiết bị Đây là loại đầu tư dài hạn, đòi hỏi vốn lớn, thu hồi lâu, có tính chất kỹ thuật
phức tạp.
Đầu tư vận hành nhằm tạo ra các tài sản lưu động cho các cơ sở sản xuất kinh
doanh dịch vụ mới hình thành, tăng thêm tài sản lưu động cho các cơ sở hiện có, duy
trì sự hoạt động của các cơ sở vật chất không thuộc các doanh nghiệp như: đầu tư vào
nguyên nhiên vật liệu, lao động Đầu tư vận hành chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn
đầu tư, có thể thu hồi vốn nhanh sau khi các kết quả đầu tư được đưa vào hoạt động.
Đầu tư cơ bản là cơ sở nền tảng quyết định đầu tư vận hành, đầu tư vận hành tạo
điều kiện cho các kết quả đầu tư cơ bản phát huy tác động. Hai hình thức đầu tư này
tương hỗ nhau cùng giúp cho các cơ sở sản xuất kinh doanh tồn tại và phát triển.
− Phân theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả đầu tư
Đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh: bao gồm đầu tư vào tài sản cố định và
đầu tư vào tài sản lưu động, ngoài ra còn đầu tư vào tài sản vô hình (quảng cáo,
thương hiệu ) nhằm mục đích thức đẩy hoạt động tiêu thụ, nâng cao thị phần, tăng
doanh thu, tăng lợi nhuận.
Đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật: là hình thức đầu tư nghiên cứu các công
nghệ tiên tiến và triển khai các ứng dụng khoa học kỹ thuật phục vụ cho hoạt động
sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội.
4

Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng: bao gồm cơ sở hạ tầng kỹ thuật (giao thông vận
tải, bưu chính viễn thông, năng lượng ) và hạ tầng xã hội (giáo dục, ytế, cấp thoát
nước )
Các hoạt động đầu tư này có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau: Đầu tư phát triển
khoa học kỹ thuật và cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho đầu tư phát triển sản xuất kinh
doanh đạt hiệu quả cao; còn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh tạo tiềm lực vật
chất cho phát triển khoa học kỹ thuật, xây dựng cơ sở hạ tầng.
− Phân theo cấp quản lý
Các dự án đầu tư phát triển được phân ra thành 3 nhóm A, B và C tuỳ theo tính
chất và quy mô của dự án. Trong đó nhóm A do Thủ Tướng Chính Phủ quyết định;
nhóm B và C do Bộ Trưởng, Thủ Trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
Phủ, UBND Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định.
− Phân theo thời gian thực hiện đầu tư
Theo tiêu thức này có thể phân chia hoạt động đầu tư phát triển thành đầu tư
ngắn hạn (đầu tư vận hành nhằm tạo ra tài sản lưu động cho cơ sở sản xuất kinh
doanh) và đầu tư dài hạn thường từ 5 năm trở lên (đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất
kinh doanh, phát triển khoa học kỹ thuật và xây dựng cơ sở hạ tầng).
− Phân theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư
Đầu tư gián tiếp: đây là hình thức đầu tư mà trong đó người bỏ vốn không trực
tiếp tham gia điều hành quản lý quá trình thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư.
Đó là việc các chính phủ thông qua các chương trình tài trợ (không hoàn lại hoặc có
hoàn lại với lãi suất thấp) cho chính phủ của các nước khác vay để phát triển kinh tế
xã hội; hoặc việc đầu tư thông qua thị trường tài chính (thị trường vốn và thị trường
tiền tệ).
Đầu tư trực tiếp: là loại hình đầu tư mà người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý,
điều hành quá trình thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư.
− Phân theo cơ cấu tái sản xuất
Đầu tư chiều rộng: đầu tư để thành lập mới hoặc mở rộng cơ sở sản xuất kinh
doanh hiện có dựa trên công nghệ kỹ thuật cũ hoặc công nghệ hiện có trên thị trường.
Đầu tư chiều rộng đòi hỏi lượng vốn lớn để khê đọng lâu, thời gian thực hiện đầu tư

và thời gian cần hoạt động để thu hồi vốn đủ lâu, tính chất kỹ thuật phức tạp, độ mạo
hiểm cao.
5
Đầu tư chiều sâu: đầu tư vào nghiên cứu triển khai các công nghệ hiện đại tiên
tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến quy trình sản xuất, tăng sức cạnh
tranh. Đầu tư theo chiều sâu đòi hỏi lượng vốn ít hơn, thời gian thực hiện đầu tư
không lâu, độ mạo hiểm thấp hơn so với đầu tư chiều rộng.
− Phân theo vùng lãnh thổ:
Đây là cách phân loại hoạt động đầu tư theo tỉnh, địa phương và theo vùng kinh
tế để phản ánh tình hình đầu tư và tác động của đầu tư đến sự phát triển kinh tế- xã
hội ở từng địa phương và vùng lãnh thổ.
1.4 Vai trò của đầu tư phát triển với toàn bộ nền kinh tế quốc dân
− Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu
Đứng trên quan điểm tổng cầu thì đầu tư là một nhân tố quan trọng chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng cầu của nền kinh tế.
AD = GDP = C + I + G + (X – M)
Đầu tư thường chiếm tỷ trọng khoảng 24- 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả
các nước trên thế giới. Khi đầu tư tăng lên, trong ngắn hạn sẽ làm cho tổng cầu của
nền kinh tế tăng lên, kéo theo đường cầu dịch chuyển lên trên về bên phải. Nền kinh
tế sẽ thiết lập nên điểm cân bằng mới ở mức sản lượng và giá cả cao hơn (E1)
Trong dài hạn, khi các thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới
đi vào hoạt động tức là vốn đầu tư (I) lúc này chuyển hoá thành vốn sản xuất (K).
Tổng cung của nền kinh tế được xác định bởi các yếu tố đầu vào của sản xuất, đó là
nguồn lao động, vốn sản xuất, tài nguyên thiên nhiên và khoa học công nghệ:
AS = GDP = f (L, K, R, T)
Khi I chuyển hoá thành K làm cho tổng cung tăng lên đặc biệt là tổng cung dài
hạn, kéo theo đường cung dịch chuyển về bên phải, sản lượng cân bằng mới được
thiết lập ở mức cao hơn (E2) và do đó giá cả giảm xuống. Sản lượng tăng, giá cả
giảm là nhân tố kích thích tiêu dùng; tiêu dùng tăng kích thích sản xuất phát triển hơn
nữa. Quá trình này lặp đi lặp lại tạo ra của cải vật chất dồi dào cho xã hội, tăng thu

nhập cho người lao động, tăng tích luỹ, từ đó tăng vốn đầu tư phát triển xã hội. Mà
vốn đầu tư là nhân tố quan trọng phá vỡ vòng luẩn quẩn của đói nghèo.
6
− Đầu tư tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế
Nền kinh tế được duy trì ở trạng thái cân bằng nhờ hai yếu tố cung và cầu. Mà
đầu tư là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến cả tổng cung lẫn tổng cầu. Vì vậy mỗi sự
thay đổi về đầu tư đều dẫn đến những tác động làm duy trì hoặc phá vỡ sự ổn định
kinh tế của mọi quốc gia. Khi tăng đầu tư, cầu của các yếu tố đầu vào tăng làm cho
giá cả của chúng cũng leo thang theo (giá nguyên nhiên vật liệu, giá lao động, chi phí
vốn ), dẫn đến tình trạng lạm phát. Lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, thu nhập của
người lao động ngày càng thấp, kinh tế phát triển chậm lại. Ở một khía cạnh khác,
tăng đầu tư làm cho nhu cầu của các yếu tố có liên quan tăng, từ đó kích thích sản
xuất phát triển, mở rộng quy mô, thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp,
nâng cao đời sống cho người lao động. Vì vậy trong qúa trình quản lý và điều hành
hoạt động kinh tế vi mô, các nhà hoạch định chính sách cần thấy hết được các tác
động hai mặt này để hạn chế các tác động tiêu cực, phát huy được khía cạnh tích cực,
duy trì được sử ổn định của toàn bộ nền kinh tế.
− Đầu tư tác động đến tăng trưởng và phát triển kinh tế
Đầu tư là động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế. Theo Harrod- Domar chính
đầu tư phát sinh ra lợi nhuận và làm gia tăng khả năng sản xuất cuả nền kinh tế. Dựa
trên quan điểm tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư (S= I) và đầu tư chính là cơ sở để
tạo ra vốn sản xuất (I= ΔK) ta có công thức tính tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế:
g=1/ICOR×I/GDP
Trong đó: ICOR=I/ΔGDP
Từ đó suy ra công thức tính mức tăng GDP:ΔGDP = I/ICOR
7
Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. Hệ
số ICOR (tỷ lệ gia tăng vốn sản lượng) được coi là cơ sở để xác định tỷ lệ đầu tư cần
thiết phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tỷ lệ đầu tư cao thường dẫn đến tốc độ
tăng trưởng cao. Kinh nghiệm của các nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR của mỗi nước

phụ thuộc vào nhiều nhân tố đặc biệt là cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các
ngành, các vùng lãnh thổ, ICOR thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế và cơ chế
chính sách trong nước. Các nước phát triển thì hệ số ICOR thường lớn (từ 5-7) do
thừa vốn, thiếu lao động và do sử dụng công nghệ hiện đại có giá cao. Còn ở các
nước chậm phát triển ICOR thường thấp (từ 2-3) do thiếu vốn, thừa lao động, công
nghệ sử dụng kém hiện đại, giá rẻ. ICOR trong nông nghiệp thường thấp hơn trong
công nghiệp.
− Đầu tư là nhân tố quyết định đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Đầu tư có vai trò rất lớn làm gia tăng giá trị sản xuất của các ngành kinh tế từ đó
thúc đẩy kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao. Nhìn chung đầu tư vào các ngành công
nghiệp, dịch vụ thì đem lại hiệu quả cao hơn đầu tư vào nông, lâm, ngư nghiệp do
những hạn chế về đất đai và khả năng sinh học (một đồng vốn đầu tư bỏ vào ngành
công nghiệp sẽ làm gia tăng giá trị sản xuất hơn là ngành nông nghiệp). Hoạt động
đầu tư luôn tìm kiếm những lĩnh vực cho lợi nhuận cao nhất vì vậy đã tạo nên quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp- dịch vụ nhằm đạt
được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.
Đầu tư không những làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành mà còn có tác
dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những
vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so
sánh về tài nguyên - địa lý - kinh tế - chính trị - xã hội của các vùng, tạo cơ chế lan
truyền thúc đẩy các vùng khác cùng phát triển.
− Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước
Khoa học công nghệ có vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế-
xã hội, là điều kiện tiên quyết để các nước đang phát triển có thể thực hiện công
nghiệp hoá - hiện đại hoá thành công, đi tắt đón đầu để tránh tụt hậu về kinh tế. Hiện
nay, Việt Nam là một trong 90 nước kém nhất về công nghệ, máy móc công nghệ lạc
hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Trước nay đầu tư cho khoa học công
nghệ ít được quan tâm chú ý bằng các hình thức đầu tư khác do thiếu vốn, do chưa
8
nhận thức được vai trò của công nghệ. Điều đó làm hạn chế tốc độ cũng như chất

lượng tăng trưởng của nền kinh tế. Vì vậy muốn cải thiện tình hình này không còn
cách nào khác là phải đầu tư phát triển công nghệ nhanh và vững trắc, có thể bằng
con đường tự nghiên cứu phát minh hoặc nhập công nghệ mới từ nước ngoài. Nhật
bản là một minh chứng hết sức cụ thể, tốc độ tăng trưởng thần kỳ cùng với những
bước nhảy vọt về kinh tế để trở thành một cường quốc như ngày hôm nay có sự đóng
góp không nhỏ của quá trình tìm tòi sáng tạo, nghiên cứu triển khai công nghệ trong
và ngoài nước của toàn thể nhân dân Nhật.
9
PHẦN II: QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA NHÀ NƯỚC
VÀ CÁC BỘ, NGÀNH, ĐỊA PHƯƠNG
2.1 Khái niệm quản lý nhà nước về đầu tư
Quản lý, theo nghĩa chung: là sự tác động có múc đích của chủ thể vào các đối tượng
quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý đã đề ra.
Quản lý đầu tư: là sự tác động liên tục, có tổ chức, có định hướng mục tiêu vào quá
trình đầu tư (bao gồm công tác chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành kết quả
đầu tư) và các yếu tố đầu tư, bằng một hệ thống đồng bộ các biện pháp kinh tế-xã hội,
tổ chức kỹ thuật và các biện pháp khác nhằm đạt được kết quả và hiệu quả đầu tư cao
nhất, trong điều kiện cụ thể xác định và trên cơ sở vận dụng sáng tạo những quy luật
khách quan và quy luật đặc thù của đầu tư.
2.2 Mục tiêu của quản lý đầu tư
− Trên giác độ vĩ mô:
+ Thực hiện thành công các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong
từng thời kỳ của quốc gia, từng ngành và từng địa phương.
+ Huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả cao nguồn vốn đầu tư, các nguồn tài lực, vật
lực của ngành, địa phương và toàn xã hội.
+ Thực hiện đúng những quy định của pháp luật và yêu cầu kinh tế - kỹ thuật trong lĩnh
vực đầu tư.
− Đối với từng cơ sở:
+ Thực hiện thắng lợi mục tiêu hoạt động, chiến lược phát triển của đơn vị, mục tiêu
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả tài chính.

+ Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, nâng cao năng
suất lao động, đổi mới công nghệ và tiết kiệm chi phí…
− Đối với từng dự án:
Thực hiện đúng mục tiêu của dự án, nâng cao hiệu quả kinh tế-xã hội của đầu tư trên
cơ sở thực hiện đúng tiến độ thời gian đã định, trong phạm vi chi phí được duyệt và
với tiêu chuẩn hoàn thiện cao nhất.
2.3 Các nguyên tắc cần tuân thủ khi quản lý hoạt động đầu tư
− Thống nhất giữa chính trị và kinh tế, kết hợp hài hòa giữa hai mặt kinh tế và xã hội:
10
+ Thống nhất giữa chính trị và kinh tế, kết hợp giữa kinh tế và xã hội là một đòi hỏi
khách quan vì kinh tế quyết định chính trị và chính trị là sự biểu hiện tập trung của
kinh tế, có tác dụng trở lại với sự phát triển của kinh tế.
+ Trên giác độ quản lý vĩ mô hoạt động đầu tư, nguyên tắc này thể hiện ở vai trò quản
lý của nhà nước, thể hiện trong các cơ chế quản lý hoạt động đầu tư.
+ Đối với các cơ sở nguyên tắc đòi hỏi phải đảm bảo quyền lợi cho người lao động,
doanh lợi cho cơ sở, đồng thời phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với nhà nước
và xã hội.
+ Kết hợp giữa kinh tế và xã hội là điều kiện cần và là động lực cho sự phát triển của
toàn bộ nền kinh tế xã hội nói chung và thực hiện mục tiêu đầu tư nói riêng.
− Tập trung dân chủ:
+ Nguyên tắc đòi hỏi công tác quản lý đầu tư phải tuân theo sự lãnh đạo thống nhất từ
một trung tâm, đồng thời lại phát huy cao tính chủ động sáng tạo của địa phương, các
ngành và của cơ sở.
+ Phải xác định rõ nội dung, mức độ và hình thức của tập trung và phân cấp quản lý.
+ Trong hoạt động đầu tư, nguyên tắc tập trung dân chủ được vận dụng ở hầu hết các
khâu công việc, từ lập kế hoạch đến thực hiện kế hoạch, ở việc phân cấp quản lý và
phân công trách nhiệm, ở cơ cấu bộ máy tổ chức với chế độ một thủ trưởng chịu trách
nhiệm và sự lãnh đạo tập thể ở quá trình ra quyết định đầu tư…
− Quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ:
+ Chuyên môn hóa theo ngành và phân bố sản xuất theo vùng lãnh thổ là yêu cầu khách

quan của nguyên tắc quản lý kết hợp theo ngành và vùng lãnh thổ…
+ Đầu tư của một cơ sở chịu sự quản lý kinh tế - kỹ thuật của cả cơ quan chủ quản
(ngành) và địa phương…
+ Các hình thức phối hợp: tham quản, hiệp quản và đồng quản.
+ Trong hoạt động đầu tư, để thực hiện nguyên tắc trên phải giải quyết hàng loạt vấn đề
như: xây dựng các kế hoạch, quy hoạch định hướng, xác định cơ cấu đầu tư hợp lý
theo ngành và vùng lãnh thổ, giữa các hoạt động đầu tư của các Bộ, ngành và địa
phương…
− Kết hợp hài hòa các loại lợi ích trong đầu tư:
+ Đầu tư tạo ra lợi ích. Có nhiều loại lợi ích như: lợi ích kinh tế và xã hội, lợi ích nhà
nước, tập thể và cá nhân, lợi ích trực tiếp và gián tiếp, lợi ích trước mắt và lâu dài…
11
Lợi ích kinh tế của các đối tượng khác nhau, vừa có tính thống nhất, vừa có tính mâu
thuẫn.
+ Trong hoạt động đầu tư, kết hợp hài hòa các lợi ích thể hiện sự kết hợp giữa lợi ích
của xã hội mà đại diện là Nhà nước với lợi ích của các cá nhân, tập thể người lao
động, giữa lợi ích của chủ đầu tư, nhà thầu, các cơ quan thiết kế, tư vấn, dịch vụ đầu
tư và người hưởng lợi.
+ Trong một số hoạt động đầu tư và trong những môi trường nhất định, giữa lợi ích của
nhà nước và các thành viên tham gia có thể mâu thuẫn nhau. Lợi ích của Nhà nước và
xã hội bị xâm phạm… Do vậy, quản lý nhà nước cần có những quy chế, biện pháp để
ngăn chặn mặt tiêu cực.
− Tiết kiệm và hiệu quả:
+ Trong đầu tư, tiết kiệm và hiệu quả thể hiện là với một lượng vốn đầu tư nhất định
thì phải đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất hoặc phải đạt được hiệu quả kinh tế
xã hội đã dự kiến với chi phí đầu tư thấp nhất.
+ Những nguyên nhân và khâu đoạn chủ yếu gây thất thoát, lãng phí:
• Đầu tư không có quy hoạch, có quy hoạch nhưng chất lượng thấp.
• Do xác định chủ trương đầu tư không đúng.
• Xác định, lập kế hoạch hóa đầu tư dàn trải, đầu tư không trọng điểm.

• Thẩm định, phê duyệt thiết kế kĩ thuật và tổng dự toán.
• Khâu đấu thầu xây dựng.
• Công tác chuẩn bị xây dựng.
• Tổ chức thực hiện.
• Cơ chế quản lý giá, thanh quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành.
2.4 Các phương pháp quản lý hoạt động đầu tư
− Phương pháp hành chính:
+ Đặc điểm: là cách tác động trực tiếp bằng các quyết định dựt khoát mang tính bắt
buộc của Nhà nước lên đối tượng bị quản lý để nhằm đạt được mục tiêu đặt ra trong
những tình huống nhất định. Phương pháp có hai đặc trưng là: tính bắt buộc (nếu vi
phạm sẽ bị xử lý kịp thời thích đáng) và tính quyền lực (các cơ quan quản lý Nhà
nước chỉ đưa ra những tác động hành chính đúng với thẩm quyền).
+ Ưu và nhược điểm: với phương pháp này, người đưa ra quyết định phải hiểu rõ tình
hình thực tế, nắm vững tình huống cụ thể và dự đoán được hướng phát triển chính,
12
những mặt tích cực và tiêu cực khi lệnh được ban hành. Phương pháp trên giải quyết
vấn đề đặt ra trong quản lý một cách nhanh chóng và có thể giấu được ý đồ hoạt
động. Tuy nhiên lại dễ dẫn đến quan liêu độc đoán, bộ máy quản lý cồng kềnh.
− Phương pháp kinh tế:
+ Đặc điểm: là cách tác động vào đối tượng bị quản lý thông qua các lợi ích kinh tế
(miễn giảm tiền thuê đất, miễn giảm thuế, cho vay với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ lãi suất
sau đầu tư, hỗ trợ kỹ thuật…) nhằm để cho các đối tượng bị quản lý tự lựa chọn mục
tiêu và phương án hoạt động có hiệu quả nhất. Khi sử dụng phương pháp kinh tế thì
Nhà nước phải biết tạo ra những tình huống, những điều kiện để lợi ích cá nhân và lợi
ích của doanh nghiệp phù hợp với lợi ích của Nhà nước.
+ Các phương pháp kinh tế tạo ra sự quan tâm vật chất thiết thân cho đối tượng bị quản
lý cho nên nó tác động rất nhạy bén, linh hoạt và phát huy được tính chủ động, linh
hoạt của nhà đầu tư. Và khi các nhà đầu tư triển khai nhanh chóng các dự án để có lợi
nhuận thì nhiệm vụ chung của đất nước được giải quyết. Đây là phương án tiết kiệm
nhất vì nó làm tăng tính tự giác của các nhà đầu tư, giúp giảm rất nhiều trong điều

hành, đôn đốc các hoạt động mang tính sự vụ hành chính.
− Phương pháp giáo dục:
Đặc điểm: trên cơ sở vận dụng các quy luật tâm lý và đặc trưng là tính thuyết phục
(làm cho người lao động phân biệt được phải trái, đúng sai để từ đó nâng cao tính tự
giác của họ). Do hoạt động đầu tư là sử dụng vốn lớn, kỹ thuật phức tạp, nó liên quan
đến nhiều ngành, nghề, lao động vất vả luôn di động nên trong hoạt động đầu tư rất
khó kiểm tra, kiểm soát. Vì vậy, cần áp dụng phương pháp giáo dục để đảm bảo chất
lượng công trình, để tránh tham nhũng, thất thoát.
2.5 Các công cụ quản lý hoạt động đầu tư
− Bộ máy quản lý hoạt động đầu tư từ trung ương đến địa phương.
− Quy hoạch tổng thể, chi tiết.
− Hệ thống luật pháp liên quan đến đầu tư.
− Danh mục các dự án kêu gọi đầu tư
− Các định mức, tiêu chuẩn liên quan đến hoạt động đầu tư
− Các chính sách và đòn bẩy kinh tế
− Các thông tin thị trường
− Các hợp đồng kinh tế
13
2.6 Nội dung quản lý hoạt động đầu tư của Nhà nước và các Bộ, ngành, địa phương
− Nội dung quản lý hoạt động đầu tư của Nhà nước:
Chức năng quản lý của Nhà nước bao gồm: định hướng, bảo đảm, tổ chức thực hiện
và kiểm tra, giám sát.
+ Xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống luật pháp.
+ Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đầu tư.
+ Ban hành chủ trương, chính sách, định mức kinh tế, kỹ thuật.
+ Xây dựng chính sách cán bộ.
+ Chủ trương, chính sách hợp tác đầu tư với nước ngoài.
+ Quản lý nguồn vốn của nhà nước.
+ Kiểm tra, giám sát nhằm kịp thời phát hiện những sai lệch để điều chỉnh.
− Nội dung quản lý hoạt động đầu tư của Bộ, ngành và địa phương:

+ Ban hành các văn bản quản lý thuộc ngành, địa phương liên quan đến đầu tư.
+ Xây dựng quy hoạch, chiến lược đầu tư của ngành, địa phương mình.
+ Xây dựng danh mục dự án kêu gọi đầu tư.
+ Hướng dẫn các nhà đầu tư thuộc ngành, địa phương lập dự án và triển khai thực hiện
các dự án. Đồng thời, hỗ trợ và trực tiếp xử lý những vấn đề phát sinh trong quá trình
đầu tư (cấp đất, giải phóng mặt bằng, xây dựng công trình)
+ Trực tiếp kiểm tra, giám sát quá trình hoạt động của các dự án đầu tư.
+ Kiến nghị với cấp trên điều chỉnh, sửa đổi những quy định, chính sách chưa phù hợp.
2.7 Quy trình pháp lý của một dự án đầu tư
− Quy trình pháp lý của giai đoạn chuẩn bị đầu tư
− Quy trình pháp lý của giai đoạn thực hiện đầu tư
− Quy trình pháp lý của giai đoạn kết thúc đầu tư, đưa dự án vào hoạt động
PHẦN III: TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ
Từ những đặc điểm của hoạt động đầu tư và trong thực tiễn hoạt động đầu tư ở
nước ta, chúng ta cần rút ra được những giải pháp trong tăng cường quản lý đầu tư để
nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư
Một là, quy mô vốn và lao động cho hoạt động đầu tư thường rất lớn,vì vậy ta phải
huy động qua các kênh khác nhau, và dùng các biện pháp thích hợp
14
Chúng ta cần phải huy động, thu hút tối đa mọi nguồn lực tài chính với phương châm
"vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng". Gắn công tác huy
động vốn thông qua việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu của DN các thành phần kinh
tế, nhất là các DNNN cổ phần hóa với việc phát triển thị trường chứng khoán, đồng
thời phải chú trọng tính hiệu quả an toàn và tác động tích cực của thị trường đến các
chỉ tiêu kinh tế vĩ mô.
Đối với vốn trong nước ta tạo điều kiện huy động vốn hợp lý bằng cơ chế lãi suất và
những chính sách khuyến khích cổ phần hóa làm tăng nguồn vốn cho đầu tư phát
triển, thực hiện đầu tư có trọng điểm, quản lý vốn đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả của
nguổn vốn sử dụng.

Đối với những nguồn vốn nước ngoài ta nên thực hiện chủ trương mở cửa, giảm các
thủ tục rườm rà, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn cho các nhà đầu tư. điều chỉnh quy
hoạch ngành, nhằm dỡ bỏ các hạn chế đối với nhà đầu tư nước ngoài, phù hợp với các
cam kết quốc tế song phương và đa phương; ban hành các quy hoạch ngành còn thiếu
như quy hoạch mạng lưới các trường đại học, dạy nghề cùng các điều kiện, tiêu
chuẩn cấp phép cho các dự án thuộc lĩnh vực này; đồng thời tăng cường đầu tư nâng
cấp các công trình cơ sở hạ tầng, rà soát các dự án đã được cấp phép
Để đảm bảo tiến độ thực hiện đầu tư của dự án, vừa để tránh ứ đọng vốn nên các
nguồn tài trợ không chỉ xem xét về mặt số lượng mà về cả thời điểm nhận được tài
trợ. Các nguồn vốn dự kiến này phải đảm bảo chắc chắn. Sự đảm bảo này thể hiện ở
tính pháp lí và cơ sở thực tế của các nguồn vốn huy động.
Những nguồn vốn sau khi được huy động ta phải quản lý chặt chẽ, tránh thất thoát
nguồn vốn cũng như sử dụng nguồn vốn không hiệu quả
Đầu tư phát triển cần rất số lượng lớn về lao đông, đặc biệt là công nhân kĩ thuật,
những lao động có kiến thức về kĩ năng quản lí, những sinh viên tốt nghiệp đại học,
cao đẳng. Hiện nay nhu cầu về những lao động này của tất cả các nước trên thế giới
nói chung và nước ta nói riêng là rất lớn nhưng khả năng đáp ứng là chưa đủ, lượng
lao động trong nước chủ yếu là nông dân và lao động trình độ thấp. Hiện tượng "thiếu
về lượng, yếu về chất" đang là thực tế ở nước ta. Vấn đề trước mắt là đào tạo nguồn
nhân lực, giải quyết tình trạng "thừa thầy thiếu thợ". Đối với trường đại học, cần củng
cố chất lượng đào tạo, đội ngũ giảng viên; trường có chương trình đào tạo chất lượng
cao theo nhu cầu doanh nghiệp đã được ký kết có thể đề xuất ngay mức học phí mới.
15
Đối với doanh nghiệp, cần có thông tin về nhu cầu nhân lực của mình, hỗ trợ tài
chính và tham gia vào quá trình đào tạo, xây dựng chương trình, cho sinh viên thực
tập. Bên cạnh đó cần phải chú trọng hơn trong việc sử dụng nguồn nhân lực, nhiều
sinh viên ra trường không có việc làm ngay, những công nhân sau dự án thường nhàn
rỗi.Việc đãi ngộ công nhân viên chức cũng như đội ngũ giáo viên cũng là một việc
hết sức quan trọng để cho việc đào tạo diễn ra một cách hiệu quả
Hai là, do thời kì đầu tư kéo dài nên thời gian thực hiện đầu tư cũng kéo dài, vốn khê

động càng nhiều tổn thất càng lớn, hơn nữa, nó còn ảnh hưởng đến khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp. Do vậy chúng ta cần thực hiện quản lý sử dụng có hiệu quả
vốn đầu tư, rút ngắn thời gian đầu tư, đảm bảo đúng tiến độ thi công công trình
+ Do ở giai đoạn này vốn nằm khê đọng trong thời gian dài nên để nâng cao hiệu quả
vốn đầu tư, cần tiến hành phân kỳ đầu tư, bố trí vốn và các nguồn lực tập trung hoàn
thành dứt điểm từng hạng mục công trình, quản lý chặt chẽ tiến độ kế hoạch đầu tư,
khắc phục tình trạng thiếu vốn, nhất là trong xâu dựng cơ bản.
+ Thời gian hoàn thành dự án càng ngắn thì chi phí và rủi ro càng ít. Hoạt động đầu
tư luôn luôn gắn liền với yếu tố rủi ro, điều quan trọng là nhận biết và khắc phục
được chúng trong quá trình thực hiện đầu tư. Kéo dài thời gian thực hiện là kéo thêm
một khoản chi phí (chi phí vốn, chi phí nguyên vật liệu, chi phí trả lương công nhân,
chi phí tăng do lạm phát ), tăng thêm những rủi ro, bất trắc, mất đi cơ hội cạnh tranh
trên thị trường, hiệu quả đầu tư vì thế cũng giảm sút.Bên cạnh đó cần quản lý chặt
chẽ việc sử dụng nguyên vật liệu, tránh lãng phí, nâng cao hiệu suất sử dụng. Mặt
khác cũng cần có sự đầu tư về mặt công nghệ, lắp đặt các dây chuyền thiết bị hiện
đại, phù hợp với trình độ quản lý và sử dụng giúp cho chủ đầu tư nâng cao được chất
lưọng sản phẩm, mặt khác lại tiết kiệm được đáng kể chi phí về vận hành, về nhân
công, nguyên vật liệu và năng lượng, góp phần nâng cao hiệu quả trong thực hiện đầu
tư.
Ba là, do thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài, đây là giai đoạn quyết định
tới việc dự án có thực hiện được các mục tiêu đề ra hay không, là quá trình thu hồi
vốn, hiệu quả việc khai thác các nguồn lực được biểu hiện rõ nhất. Do đó, chúng ta
cần phải xác định cơ chế và phương pháp dự báo khoa học ở cấp độ vĩ mô và vi mô
về nhu cầu thị trường của sản phẩm dự án trong tương lai, khả năng cung của dự án
trong từng năm, và cả đời dự án. Đối với mọi dự án thì điểm mấu chốt đó là sản phẩm
16
của dự án phải được chấp nhận trên thị trường, sản phẩm có tiêu thụ được thì dự án
mới có thể thu hồi vốn và sinh lời. Vì vậy, công tác dự báo là vô cùng quan trọng,
công việc này phải được thực hiện nghiêm túc và tỉ mỉ ngay từ khi lập báo cáo nghiên
cứu khả thi, đồng thời cũng phải được thực hiện thường xuyên trong quá trình vận

hành dự án vì nhu cầu của thị trường thường xuyên có sự thay đổi. Sau khi tiến hành
dự báo cầu về sản phẩm, phải tiến hành dự báo tới khả năng cung ứng của dự án từ đó
mới có các quyết định thu hẹp hay mở rộng sản xuất cho phù hợp. Việc phân tích,
đánh giá tiềm năng và quy mô của dự án cần dựa trên cơ sở phân tích các tác động
của môi trường vĩ mô như pháp luật, chính sách, kinh tế, văn hóa xã hội, ảnh
hưởng tới triển vọng ra đời của dự án và quá trình vận hành kết quả đầu tư. Do đó dự
báo nhu cầu thị trường về sản phẩm của dự án và khả năng cung ứng của dự án cần
dựa trên các dự báo vĩ mô về nền kinh tế như tốc độ tăng trưởng, tỉ lệ lạm phát, lãi
suất, Đồng thời, phải quản lí tốt quá trình vận hành, nhanh chóng đưa thành quả
đầu tư vào sử dụng hoạt động tối đa công suất của dự án. Quá trình vận hành thực
chất là quá trình sản xuất kinh doanh cho nên vai trò của công tác quản trị là hết sức
quan trọng. Việc bố trí bộ máy quản trị phải đảm bảo các nguyên tắc: thực hiện được
các mục tiêu, chương trình kế hoạch đã vạch ra; phải thống nhất lãnh đạo, chỉ đạo
quản lí; tổ chức bộ máy phải tinh gọn nhưng hiệu quả; quan hệ giữa các bộ phận lãnh
đạo, điều hành, quản lí phải rõ ràng; quyền hạn đi đôi với trách nhiệm; hợp tác nhằm
thực hiện mục tiêu chung.
Trước sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ thì xảy ra hiên tượng hao
mòn vô hình. Đó là hiên tượng suy giảm thuần túy về giá trị của các tài sản cố định.
Sự hao mòn vô hình ngày càng diễn ra mạnh mẽ, các máy móc thiết bị có thể bị lỗi
thời nhanh chóng. Khoa học công nghệ cũng tác động làm rút ngắn vòng đời của sản
phẩm. Vì vậy mà sau khi hoàn thành giai đoạn thực hiện đầu tư phải nhanh chóng đưa
thành quả đầu tư vào sử dụng, phát huy tối đa công suất nhằm tránh hao mòn vô hình.
Một nguyên nhân khác dẫn đến yêu cầu này đó là do nguồn vốn của dự án thường là
vốn đi vay.nguồn vốn bị khê đọng không sinh lời trong suốt quá trình thực hiện đầu
tư nhưng vẫn phải chịu chi phí lãi suất, do đó đưa thành quả đầu tư vào sử dụng càng
sớm thì càng nhanh chóng thu hồi vốn, tiết kiệm được chi phí vốn.
Để nhanh chóng đưa vào sử dụng và phát huy tối đa công suất thì yêu cầu đặt ra là
chủ đầu tư phải chuẩn bị một lượng vốn nhất định phục vụ chu kì đầu của sản xuất,
17
tránh tình trạng sau khi xây xong dự án lại phải nằm chờ vì không có tiền cho sản

xuất. Mặt khác phải đảm bảo nguồn cung nguyên liệu lâu dài và ổn định cho dự án.
Bên cạnh đó, phải chú ý đúng mức tới độ trễ thời gian trong đầu tư. Đầu tư năm nay
nhưng thành quả đầu tư chưa chắc phát huy tác dụng ngay trong năm đó. Đây là đặc
điểm rất riêng của lĩnh vực đầu tư, ảnh hưởng lớn tới công tác quản lí hoạt động đầu
tư.
Bốn là, do các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển mà là các công trình xây
dựng thường phát huy tác dụng ở ngay tại nơi nó được tạo dựng nên, do đó, quá trình
thực hiện đầu tư cũng như thời kỳ vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng lớn
của các nhân tố về tự nhiên, kinh tế xã hội vùng. Vì vậy, trước hết cần phải có chủ
trương đầu tư và quyết định đầu tư đúng. Để đưa ra được chủ trương, quyết định đầu
tư thì cần phải xác định rõ ràng quy mô, tính chất, đặc điểm của dự án mà mình chuẩn
bị đầu tư vào. Điều đó dẫn đến việc cần trả lời câu hỏi: đầu tư cái gì? - để xác định
sản phẩm sản xuất ra là sản phẩm nào, mục đích tìm kiếm lợi nhuận của nhà đầu tư
trên lĩnh vực nào; công suất dự kiến là bao nhiêu? - để xác định quy mô nhà máy, xí
nghiệp; công nghệ được sử dụng là công nghệ nào? Như vậy công tác nghiên cứu
cơ hội đầu tư là lập dự án đầu tư là vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định tới
thành công của dự án. Đối với cấp quản lí vĩ mô thì công tác quan trọng đó là quy
hoạch hợp lí
Từ việc xác định rõ được các yêu cầu này thì đưa ra được sự lựa chọn một địa điểm
đầu tư cho phù hợp. Việc lựa chọn địa điểm đầu tư phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, có
ảnh hưởng lớn đến quá trình sản xuất sau này, khi mà dự án đi vào vận hành. Để lựa
chọn địa điểm đầu tư hợp lý cần chú ý các điểm sau:
+ Các công trình được xây dựng lên không thể dễ dàng di chuyển từ nơi này sang nơi
khác, nên cần phải có hướng tiếp cận lâu dài, không phải chỉ tính đến việc xây dựng
là cho hoạt động trong năm, mười năm mà phải tính đến những phương án mở rộng
hay thu hẹp trong tương lai xa, trong sự quy hoạch chung của vùng, miền nói riêng và
của toàn bộ đất nước nói chung.
+ Địa điểm nên có điều kiện thuận lợi trong hợp tác với các cơ sở sản xuất trong
vùng, đồng thời đảm bảo ưu thế cạnh tranh so với các địa điểm của các doanh nghiệp
cùng loại

18
+ Tính đến các yếu tố tác động đến các công trình như: môi trường tự nhiên, chính trị,
kinh tế, xã hội, văn hóa, để từ đó khai thác được tối đa lợi thế vùng và có những
biện pháp phòng ngừa những tác động xấu một cách kịp thời, tạo điều kiện cho các
công trình phát huy được hiệu quả sử dụng tối đa.
+ Ngoài ra, địa điểm phải gần nguồn cung cấp nguyên liệu hay thị trường tiêu thụ của
dự án, hoặc gần nguồn cung cấp nguồn lao động để giải quyết được vấn đề chi phí
nguyên, nhiên, vật liệu, nhân lưc cũng như thị trường tiêu thụ. Khi đặt công trình xây
dựng ở một địa điểm còn phải tính đến các cơ sở hạ tầng sao cho thuận lợi nhất như
về điện, nước, giao thông vận tải, thông tin liên lạc
+ Bộ máy tổ chức quản lý hành chính kinh tế - xã hội của địa phương cũng sẽ ảnh
hưởng rất nhiều đến sự thuận lợi hoặc trở ngại cho sự hoạt động của dự án.
Ở cấp độ vĩ mô thì việc lựa chọn địa điểm cũng gắn liền với vấn đề quy hoạch vùng.
Cần phải có tầm nhìn dài hạn để định hướng phát triển một cách bền vững, ổn định.
Trong công tác quy hoạch đòi hỏi phải có những bước đi vững chắc để đi đến mục
tiêu cuối cùng là từng bước ổn định đời sống dân cư, nâng cao đời sống.
Năm là, do mục tiêu quan trọng hàng đầu của bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh
nào đó là lợi nhuận. Nhưng lợi nhuận bao giờ cũng đi kèm với nguy cơ rủi ro. Lợi
nhuận càng lớn thì rủi ro cũng tăng theo, chính vì vậy cần:
+ Phải chú trọng đến công tác dự báo, phân tích tình hình kinh tế xã hội để đưa ra
nhận định một cách chuẩn xác về rủi ro. Việc nhận diện sai rủi ro có ảnh hưởng việc
xác định hướng đi cho dự án bị sai, điều đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả
đầu tư sau này. Nếu không lường trước được các rủi ro thì đến khi dự án thực hiện,
gặp phải rủi ro thì lúc ấy đã không còn kịp thời, làm thay đổi toàn bộ hướng đi tiếp
theo của dự án, tạo ra hiệu ứng dây chuyền (hiệu ứng domino) kéo theo nhiều rủi ro
khác xảy ra, dẫn đến chi phí cho việc thay đổi sẽ lớn hơn rất nhiều, gây lãng phí, hậu
quả nghiêm trọng có thể xảy ra là dự án phải dừng lại. Việc nhận diện rủi ro này là
không hề đơn giản, không phải chỉ có một người hay một nhóm ba, bốn người có thể
làm được mà cần phải có một tập thể người có sự phối hợp với các chuyên gia thuộc
nhiều lĩnh vực, cần phải xem xét vấn đề trên nhiều phương diện, nhiều khía cạnh

khác nhau. Có như vậy việc nhận định mới có thể lường hết được các khả năng có thể
xảy ra
19
+Khi nhận định được rủi ro có thể xảy ra thì việc đánh giá rủi ro cũng vô cùng quan
trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí kinh tế cho dự án. Khi đánh giá được đúng
mức độ rủi ro, dẫn đến hành động hợp lý, giải pháp sát thực tế sẽ giảm thiểu được chi
phí phát sinh.Có thể một dự án sẽ có nhiều rủi ro xảy ra, tuy nhiên cần phải xác định
được các mức độ của các loại rủi ro đó ra sao, rủi ro nào là nghiêm trọng, có khả năng
gây tổn thất nặng nhất. Hơn nữa xác suất xảy ra mỗi rủi ro nhiều hay ít. Dự án có
mức độ rủi ro cao cần tập trung giải quyết, dự án có mức độ rủi ro thấp thì chi phí để
xử lý cũng không lớn.
+ Cần phải có những phương pháp, mô hình định lượng để đánh giá mức độ rủi ro,
nghiên cứu tại các dự án có tính chất tương tự để có thể áp dụng vào trường hợp riêng
của mình.Từ hai công việc trên: nhận định rủi ro và đánh giá rủi ro sẽ đưa ra biện
pháp phòng chống cho phù hợp. Trong công tác phòng chống cần đề cao quản lý,
giám sát việc xử lý rủi ro không để tình trạng sau khi xử lý rủi ro lại để tái phát trở
lại, hoặc làm phát sinh những rủi ro khác.
Việc xử lý rủi ro phải được xem như là một yếu tố cơ bản trong hướng quản lý dự án.
Việc đối phó, xử lý rủi ro phải có hướng chủ động, ví dụ như là các biến cố bất lợi có
khả năng xảy ra được chuẩn bị trước thì tốt hơn là việc đối phó với các biến cố bất lợi
sau khi mà chúng xảy ra. Hướng chủ động này tạo ra thời gian cho các nhà quản lý
tìm ra được các hướng khác nhau và các kế hoạch hành động rồi từ đó lựa chọn cách
giải quyết thích hợp mà nó đúng với mục tiêu của dự án nhất
Cần có phương pháp tránh rủi ro, quá trình cần thiết để làm giảm bớt đi khả năng
xuất hiện đối với mỗi rủi ro đã lựa chọn để giải quyết. mỗi một phạm vi chuyên môn
xác định được những hành động nào nên được tiến hành để tránh hoặc để giàm khả
năng xuất hiện rủi ro được lựa chọn giải quyết. Ngoài ra cũng phải xét hiệu quả sinh
lợi cho hướng tránh rủi ro sắp tới.
20
KẾT LUẬN

Trong thực tiến 30 năm đổi mới ở nước ta, nguồn vốn đầu tư phát triển giữ
vai trò cực kỳ quan trọng trong bước tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam.
Tuy nhiên, trong quá trình đầu tư phát triển cũng xuất hiện nhiều tiêu cực trong vấn
đề quản lý và sử dụng vốn đầu tư thiếu hiệu quả, tham ô, tham nhũng, gây thất thoát,
lãng phí các nguồn lực đầu tư đồng thời ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của Chính phủ
trong mắt người dân và giảm sức hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài.
Bước vào thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, đòi hỏi chúng ta phải
không ngừng hoàn thiện và nâng cao hiệu quả quản lý đầu tư, hoàn thiện tổ chức và
nâng cao năng lực của bộ máy quản lý, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, văn bản
pháp luật, đặc biệt là hoàn thiện Luật Đầu tư 2003 sửa đổi. Có như vậy, Việt Nam
mới đón đầu được các làn sóng đầu tư từ các nhà đầu tư nước ngoài đồng thời huy
động được tối đa các nguồn lực trong nước vào công tác đầu tư, nâng cao hiệu quả
đầu tư.
21
22

×