Tải bản đầy đủ (.doc) (129 trang)

Nghiên cứu kinh nghiệm của hàn quốc trong việc sử dụng chính sách tín dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.41 KB, 129 trang )

Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ một nớc có cơ sở kinh tế yếu kém, tích luỹ t bản và trình độ kỹ thuật
rất thấp, trải qua vài thập niên bằng con đờng công nghiệp hoá, Hàn Quốc đã
trở thành một trong những quốc gia mạnh, có trình độ phát triển cao ở vùng
Đông á. Hàn Quốc có thể đạt đợc những thành tựu to lớn trong sự phát triển
kinh tế chính một phần lớn là nhờ những thành công của chính sách công
nghiệp hoá
Để thực hiện chiến lợc tăng trởng dựa vào công nghiệp và hớng ngoại,
chính phủ Hàn Quốc đã sử dụng các công cụ chính sách nh chính sách tín dụng,
chính sách thuế, chính sách tỷ giá hối đoái, v.v... Các chính sách này, đặc biệt
là chính sách tín dụng, đã có những tác dụng tích cực đến sự tăng trởng kinh tế,
nhng đồng thời cũng gây những ảnh hởng xấu đến nền kinh tế đa Hàn Quốc đến
cuộc khủng hoảng tài chính và sau đó là khủng hoảng kinh tế cuối năm 1997.
Vì vậy, nghiên cứu chính sách tín dụng của Hàn Quốc và tác dụng của
nó đến việc xúc tiến công nghiệp hoá và sự tăng trởng kinh tế trong giai đoạn
đầu của sự phát triển kinh tế của Hàn Quốc là vấn đề có ý nghĩa trên cả hai ph-
ơng diện lý luận và thực tiễn không chỉ đối với Hàn Quốc mà còn đối với tất cả
các nớc kém phát triển cần phải tiến hành công nghiệp hoá để phát triển kinh tế
trong đó có Việt Nam.Việt Nam bắt đầu tiến hành công nghiệp hoá trong những
điều kiện có nhiều điểm tơng đồng với Hàn Quốc nh cùng một điểm xuất phát,
sự thiếu hụt về nguồn vốn. Việt nam đang rất cần học hỏi các kinh nghiệm từ
bên ngoài đặc biệt là từ những nớc có hoàn cảnh giống mình nh Hàn Quốc để
phục vụ cho việc thực hiện công nghiệp hoá thành công ở Việt Nam. Nghiên
cứu kinh nghiệm của Hàn Quốc trong việc sử dụng chính sách tín dụng phục vụ
cho sự nghiệp công nghiệp hoá nhằm rút ra những bài học có ý nghĩa đối với
1
Việt Nam trong tiến trình công nghiệp hoá là cần thiết. Do vậy, chúng tôi chọn
đề tài này để làm luận án thạc sỹ kinh tế .
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
ở Việt Nam, trong vài năm trở lại đây, cùng với việc thành lập Ban


nghiên cứu Hàn Quốc thuộc Trung tâm Khoa học và Nhân văn Quốc gia, một
số vấn đề về kinh tế Hàn Quốc nh chính sách xuất khẩu, chính sách công
nghiệp hoá, chơng trình cải tổ nền kinh tế Hàn Quốc sau khủng hoảng kinh tế
1997 đã đợc một số tác giả quan tâm nghiên cứu.
Vấn đề chính sách tín dụng của Hàn Quốc trong thời kỳ công nghiệp hoá
cũng đã đợc một số học giả của Viện Kinh tế thế giới nghiên cứu và công bố
trên một số tạp chí kinh tế. Nhng cho đến nay, ở Việt Nam, cha có một công
trình nào đề cập một cách có hệ thống về chính sách tín dụng của chính phủ
Hàn Quốc trong những giai đoạn cụ thể của tiến trình công nghiệp hoá và
những tác dụng tích cực cũng nh những hạn chế của nó đối với sự nghiệp công
nghiệp hoá và tăng trởng kinh tế của Hàn Quốc để từ đó rút ra những bài học
kinh nghiệm có giá trị tham khảo tốt cho Việt Nam.
Tại Hàn Quốc, chính sách tín dụng và sự nghiệp công nghiệp hoá của Hàn
Quốc đã đợc một số học giả thuộc Viện phát triển Hàn Quốc nh Yoon Je Cho
và Joon Kyung Kim nghiên cứu. Đặc biệt, từ sau khủng hoảng kinh tế năm
1997, khi sự can thiệp sâu của chính phủ vào lĩnh vực tài chính và công ty đợc
xem là những nguyên nhân của khủng hoảng thì vấn đề này cũng đợc nhiều học
giả bàn đến trên những góc độ khác nhau trong những công trình nghiên cứu về
nguyên nhân của khủng hoảng và các chính sách cải tổ kinh tế của chính phủ
Hàn Quốc. Tuy nhiên, nghiên cứu chính sách tín dụng của Hàn Quốc trong sự
nghiệp công nghiệp hoá để từ đó rút ra những bài học cụ thể vai trò của nhà nớc
trong việc huy động và sử dụng nguồn lực cho tiến trình công nghiệp hoá ở Việt
nam thì cũng cha cũng đợc các tác giả Hàn Quốc quan tâm nghiên cứu.
2
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài.
- Luận giải trên phơng diện lý luận và thực tiễn về sự cần thiết khách quan của
những can thiệp của chính phủ thông qua chính sách tín dụng đối với quá
trình thực hiện chiến lợc công nghiệp hoá ở Hàn Quốc
- Nghiên cứu thực chất của chính sách tín dụng của chính phủ Hàn Quốc
trong thời kỳ công nghiệp hoá và phân tích các tác động của nó đối với việc

xúc tiến công nghiệp hoá và tăng trởng kinh tế của Hàn Quốc.
- Trên cơ sở đánh giá chung về chính sách tín dụng của chính phủ Hàn Quốc
trong thời kỳ công nghiệp hoá rút ra những bài học cho Việt Nam trong tiến
trình công nghiệp hoá .
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu.
Luận văn nghiên cứu chính sách tín dụng của chính phủ Hàn Quốc đối với
các tổ chức kinh doanh thuộc khu vực t nhân của Hàn Quốc đặc biệt là đối với
các tập đoàn kinh doanh có quy mô lớn đợc lựa chọn là các công ty trọng điểm
thực hiện chơng trình phát triển các ngành công nghiệp mục tiêu trong tiến trình
công nghiệp hoá
5. Phơng pháp nghiên cứu.
Sử dụng phơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, xem xét chính
sách tín dụng của chính phủ Hàn Quốc trong trạng thái phát triển qua các thời
kỳ và đặt nó trong mối quan hệ với các giải pháp kinh tế vĩ mô khác.
Các phơng pháp khác nh phơng pháp so sánh, phơng pháp thống kê cũng đợc sử
dụng phục vụ cho mục đích của đề tài.
3
6.Những đóng góp chính của luận án
- Khẳng định sự cần thiết khách quan và vai trò quan trọng của chính phủ đối
với việc tạo nguồn lực và thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá trong giai đoạn
đầu của sự phát triển kinh tế của Hàn Quốc.
- Luận giải vai trò của chính sách tín dụng nh là một công cụ có hiệu quả mà
chính phủ có thể sử dụng phục vụ cho việc thực hiện mục tiêu công nghiệp
hoá và tăng trởng kinh tế.
- Làm rõ thực chất của chính sách tín dụng của Hàn Quốc trong thời kỳ công
nghiệp hoá và những tác động tích cực cũng nh những hậu quả xấu của nó
đôí với quá trình phát triển kinh tế của Hàn Quốc.
- Tổng kết những bài học mà Việt Nam có thể học hỏi đợc từ kinh nghiệm
của Hàn Quốc nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện
đại hoá.

7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chơng:
- Chơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn chính sách tín dụng của Hàn Quốc
trong thời kỳ công nghiệp hoá
- Chơng 2: Phân tích thực trạng chính sách tín dụng của Hàn Quốc trong
thời kỳ công nghiệp hoá
- Chơng 3: Chính sách tín dụng của Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp
hoá và khả năng áp dụng kinh nghiệm của Hàn Quốc
4
Chơng 1
Cơ sở lý luận và thực tiễn chính sách tín
dụng của hàn quốc trong thời kỳ công
nghiệp hoá
1.1. Khái niệm và vai trò của chính sách tín
dụng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc
gia.
1.1.1. Khái niệm tín dụng và chính sách tín dụng.
Tín dụng là quan hệ chuyển nhợng tạm thời một lợng giá trị (dới hình
thức tiền tệ hay hiện vật) từ ngời sở hữu sang ngời sử dụng để sau một thời gian
nhất định ngời sở hữu thu hồi về một lợng giá trị lớn hơn lợng giá trị ban đầu.
Thực chất, tín dụng là quan hệ vay mợn vốn lẫn nhau dựa trên sự tin tởng rằng
lợng vốn cho vay sẽ đợc hoàn trả lại trong tơng lai cùng với chi phí của khoản
tín dụng đó. Tín dụng theo nghĩa rộng bao gồm hai mặt là huy động vốn và cho
vay vốn.
Nguyên nhân khách quan của sự tồn tại và phát triển quan hệ tín dụng là
mâu thuẫn vốn có của quá trình tuần hoàn vốn trong quá trình tái sản xuất xã
hội. Đó là, tại cùng một thời điểm, có chủ thể kinh tế tạm thời d thừa một khoản
vốn tiền tệ trong khi các chủ thể kinh tế khác lại có nhu cầu cần bổ sung vốn.
Nếu tình trạng này không đợc giải quyết thì quá trình sản xuất có thể bị ngng
trệ ở chủ thể này trong khi vốn lại đang nằm im không đợc sử dụng ở một chủ

thể khác. Kết quả là nguồn lực của xã hội không đợc sử dụng một cách có hiệu
5
quả nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất diễn ra liên tục. Tín dụng thực
chất là chiếc cầu nối liền nhu cầu tiết kiệm với nhu cầu đầu t của xã hội.
Tín dụng tồn tại và phát triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của
những quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Mục đích và tính chất của tín dụng do mục
đích và tính chất của nền sản xuất hàng hoá quyết định. Sự vận động của tín
dụng luôn luôn chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế của phơng thức sản
xuất trong xã hội đó.
Cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hoá, tín dụng đã trải qua một quá
trình phát triển từ phạm vi hẹp đến phạm vi rộng, từ đơn giản đến phức tạp về
kĩ thuật và nghiệp vụ. Các hình thức tín dụng cũng ngày càng phong phú hơn.
Căn cứ vào thời hạn tín dụng, ngời ta chia tín dụng ra thành ba loại, đó là: tín
dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn và tín dụng dài hạn. Căn cứ vào tính chất
luân chuyển vốn, tín dụng gồm hai loại là tín dụng trực tiếp và tín dụng gián
tiếp. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn tín dụng, ta có tín dụng sản xuất và lu
thông hàng hóa, tín dụng tiêu dùng, v.v
Trong nền kinh tế thị trờng hiện đại, nguồn cung cấp tín dụng chính là
các tổ chức kinh doanh và các cá nhân trong đó tín dụng do các ngân hàng cung
cấp là phổ biến.
Khái niệm chính sách tín dụng
Thực chất chính sách tín dụng là cung ứng vốn và phơng tiện thanh toán
cho các tổ chức kinh doanh trong nền kinh tế thông qua các nghiệp vụ tín dụng
ngân hàng, dựa trên các quỹ cho vay đợc tạo lập từ các nguồn tiền gửi của xã
hội và một hệ thống lãi suất mềm dẻo, linh hoạt, phù hợp với sự vận động của
cơ chế thị trờng.
Nội dung cơ bản của chính sách tín dụng bao gồm các vấn đề có liên
quan đến việc cấp tín dụng nh: quy mô của các khoản cho vay, mức lãi xuất
và, kỳ hạn cho vay, các yêu cầu đảm bảo cho các khoản vay, phạm vi cho vay,
và một số nội dung khác.

6
Chính sách tín dụng đợc xây dựng trên những cơ sở sau:
- Nhu cầu tín dụng của khách hàng, khả năng sinh lời và rủi ro tiềm
năng của hoạt động kinh doanh của họ.
- Kết quả phân tích những xu hớng trong quá khứ và dự đoán tơng lai
của các rủi ro tín dụng.
- Các chính sách khác của chính phủ nh chính sách tỷ giá, chính sách
phát triển hệ thống tài chính v.v cũng là những yếu tố ảnh hởng đến chính sách
tín dụng.
1.1.2. Vai trò của chính sách tín dụng
* Chính sách tín dụng đóng vai trò to lớn trong tiến trình thực
hiện công nghiệp hoá thông qua tạo nguồn vốn đầu t cho công nghiệp hoá.
Công cuộc công nghiệp hoá đòi hỏi phải đầu t một khối lợng vốn lớn
cho việc phát triển nguồn nhân lực, phát triển các ngành công nghiệp mới . Nếu
chỉ dựa trên nguồn vốn tự có mà không sử dụng tín dụng, các tổ chức kinh
doanh sẽ không có khả năng đáp ứng yêu cầu về quy mô vốn để tham gia vào
các ngành công nghiệp mới, mở rộng quy mô của hoạt động kinh doanh, đáp
ứng những yêu cầu của công nghiệp hoá. Nhờ sử dụng các nguồn cung cấp tín
dụng các tổ chức kinh doanh có đủ vốn để đầu t vào các ngành đòi hỏi quy mô
vốn lớn theo yêu cầu của công nghiệp hoá, tạo ra khả năng cạnh tranh cao.
* Chính sách tín dụng là công cụ đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy sự tăng
trởng kinh tế.
Một quốc gia không thể tăng trởng kinh tế nếu hệ số mức đầu t (hệ số
ICOR) cần có không đạt mức hợp lý. Nguồn vốn đầu t gắn liền với hệ số ICOR
bao gồm nguồn tích luỹ trong nớc, nguốn vốn từ nớc ngoài với các hình thức
viện trợ, tín dụng và đầu t trực tiếp. Việc huy động các nguồn vốn này gắn liền
với chính sách tín dụng của chính phủ.
7
* Chính sách tín dụng góp phần giảm hệ số tiền nhàn rỗi và nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn trong tất cả các thành phần kinh tế thông qua đi

vay để cho vay.
* Chính sách tín dụng còn là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy
quá trình mở rộng giao lu kinh tế quốc tế.
Hoạt động tín dụng sẽ cung cấp vốn cho các nhà đầu t kinh doanh xuất
nhập khẩu, từ đó, tạo điều kiện để các tổ chức kinh doanh tham gia vào thị tr-
ờng quốc tế.
* Chính sách tín dụng đợc sử dụng nh là một công cụ điều chỉnh nền
kinh tế thị trờng ở tầm vĩ mô của nhà nớc.
Thông qua hoạt động tín dụng làm biến đổi nhiều hoạt động sản xuất
kinh doanh phục vụ của các chủ thể kinh tế theo hớng tối u, góp phần làm cho
chu kì hoạt động của tiền tệ rút ngắn về thời gian, nâng cao vòng quay của tiền
tệ. Bằng cách đó tín dụng tác động có hiệu quả đến nhịp độ phát triển sôi động
và cạnh tranh của kinh tế thị trờng.
* Chính sách tín dụng có tác dụng chống lạm phát.
Thông qua tín dụng chính phủ có thể điều chỉnh sự chuyển động của nền
kinh tế thị trờng khi quá nóng hoặc quá lạnh, tức là khi tăng trởng quá mức
hoặc khi suy thoái. Thông qua hoạt động nhận gửi và cho vay; huy động tiết
kiệm dài hạn, huy động tiết kiệm đảm bảo giá trị bằng vàng, phát hành công
trái, kì phiếu , chính sách tín dụng có tác dụng điều chỉnh trong cả hai trờng hợp
trên.
1.2. Quan điểm về công nghiệp hoá của chính
phủ Hàn Quốc và vai trò của chính sách tín dụng
đối với công nghiệp hoá
8
1.2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội của Hàn Quốc thời điểm
sau chiến tranh.
Triều Tiên đã bị Nhật Bản xâm chiếm từ năm 1910 đến 1945 và đã bị
chia cắt thành miền Nam và miền Bắc từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Phía
Bắc Triều Tiên cũ trở thành Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và phiá
Nam trở thành Hàn Quốc.

Sau cuộc chiến tranh Triều Tiên (năm 1950-1953), nền kinh tế Hàn
Quốc ở mức độ phát triển thấp và Hàn Quốc là một trong những quốc gia
nghèo nhất trên thế giới. Các cơ sở công nghiệp của đất nớc đợc xây dựng
trong thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng đã bị phá hủy gần hết. Là nớc nông nghiệp
với 2/3 dân số trong độ tuổi lao động sống bằng nghề nông nên trình độ kỹ
thuật của Hàn Quốc là rất thấp. Mặc dù vậy, so với một số quốc gia khác nh
Malaixia và Indônêxia thì Hàn Quốc đã tích luỹ đợc nhiều kinh nghiệm hơn
trong một số ngành công nghiệp nh công nghiệp chế tạo do đã trải qua thời kỳ
phát triển công nghiệp khi còn là thuộc địa của Nhật Bản.
Nền kinh tế nằm trong tình trạng lạm phát kinh niên và không có khả
năng đáp ứng những nhu cầu cơ bản của ngời tiêu dùng. Quy mô của thị trờng
nội địa là nhỏ bé. Dân số tăng nhanh chóng, tốc độ đô thị hoá ồ ạt và nạn thất
nghiệp càng làm trầm trọng thêm các vấn đề kinh tế - xã hội sau chiến tranh.
Ra khỏi cuộc chiến tranh, Hàn Quốc hoàn toàn không có tích luỹ nên đã
rơi vào tình trạng khan hiếm vốn nghiêm trọng. Nền kinh tế ở giai đoạn này
phụ thuộc hoàn toàn vào viện trợ kinh tế của Mỹ và các khoản vay tín dụng nớc
ngoài chủ yếu là của Mỹ và Nhật Bản. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, Hàn
Quốc có ý nghĩa quan trọng về mặt chiến lợc đối với Mỹ trong cuộc đối đầu với
các lực lợng cộng sản nên Hàn Quốc đã nhận đợc những khoản hỗ trợ không lồ
của Mỹ. Sau cuộc cải cách ruộng đất đầu những năm 50 và việc quy tụ tầng lớp
nông dân có đất, đã xuất hiện thêm các doanh gia mới. Do thiếu nguồn vốn ,
9
các tổ chức kinh doanh ở Hàn Quốc trong thời kỳ này tài trợ cho các hoạt động
của mình chủ yếu bằng các khoản vay từ nớc ngoài và từ các ngân hàng của nhà
nớc.
Mức thu nhập đầu ngời rất thấp, sự thay đổi giá cả bất thờng, mức độ
lạm phát cao của Hàn Quốc khiến cho hầu hết các nhà nghiên cứu về kinh tế
Hàn Quốc đều cho rằng giai đoạn này là thời kỳ ảm đạm nhất của nền kinh tế
Hàn Quốc. Trong thời kỳ những năm 50, chính phủ Hàn Quốc - dới sự lãnh đạo
của tổng thống đầu tiên Rhee Syng Man - đã không có một chiến lợc phát triển

kinh tế toàn diện và chính sách kinh tế trong thời gian này đợc đặc trng bởi
hàng loạt các giải pháp điều tiết thiếu mục đích rõ ràng của chính phủ. Thời kỳ
này, chính phủ Hàn Quốc không có một ý tởng rõ ràng về phát triển kinh tế và
mục tiêu phát triển bị ảnh hởng bởi ý thức chính trị về việc xây dựng một quốc
gia đợc bảo đảm bởi lực lợng quân sự Mỹ với những lời hứa bảo vệ an toàn cho
Hàn Quốc, ổn định lạm phát sau chiến tranh và tìm kiếm những hỗ trợ của Mỹ
cho nền kinh tế bị phá huỷ sau chiến tranh .
1.2.2. Quan điểm về công nghiệp hoá của chính phủ Hàn
Quốc và các công cụ phát triển công nghiệp hoá
1.2.1.1. Quan điểm về công nghiệp hoá của chính phủ Hàn Quốc
* Công nghiệp hoá là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để phát
triển kinh tế.
Sau khi Park Chung Hee trở thành tổng thống đầu tiên do dân bầu,
Hàn Quốc đã có những thay đổi lớn trong việc lựa chọn chiến lợc phát triển
kinh tế của quốc gia. Đợc đào tạo tại Học viện quân sự của Nhật Bản, ông Park
Chung Hee đã chịu ảnh hởng rất lớn của Nhật Bản, coi Nhật Bản nh một khuôn
mẫu về sự phát triển kinh tế và mơ tởng đến việc xây dựng các ngành công
nghiệp, đặc biệt là các ngành công nghiệp nặng ở Hàn Quốc.
10
Chính phủ Park Chung Hee cho rằng sự giàu có của một quốc gia là một
nền công nghiệp vững mạnh và an ninh quốc gia. Hàn Quốc là quốc gia nghèo
về tài nguyên, nền kinh tế dựa trên nông nghiệp là chủ yếu nên nếu muốn trở
thành quốc gia giàu có thì cần thiết phải phát triển công nghiệp, đặt công
nghiệp hoá là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Sự phát triển kinh tế, là phải
gắn với công nghiệp hoá, thực hiện công nghiệp hoá để thoát khỏi sự nghèo
đói.
Theo quan điểm của Park Chung Hee, an ninh quốc gia và phúc lợi
của xã hội tuỳ thuộc vào sự giàu có của quốc gia và sức mạnh của quân đội.
Nếu sự phát triển của công nghiệp tạo ra sự giàu có của quốc gia thì đến lợt
mình, sự giàu có của quốc gia sẽ là yếu tố đảm bảo cho an ninh của quốc gia.

* Nguồn vốn để phát triển công nghiệp đợc huy động chủ yếu từ các
khoản vay nớc ngoài.
Trong suy nghĩ của ông Park, hình ảnh biên giới quốc gia và quan niệm
chúng ta đối lập với họ đã ăn sâu vào tâm khảm và điều này làm nảy sinh
thái độ baì ngoại và t tởng độc lập, không phụ thuộc của ngời Hàn Quốc. Tổng
thống Park Chung Hee cũng cho rằng đầu t trực tiếp nớc ngoài không có tác
dụng gì đối với sự phát triển kinh tế của Hàn Quốc. ông ta cũng lo ngại rằng
một khi đầu t nớc ngoài đợc khuyến khích thì sự kiểm soát của nớc ngoài sẽ sâu
hơn và tài sản của quốc gia sẽ bị di chuyển ra nớc ngoài. Do đó, để tạo nguồn
tài chính cho sự phát triển kinh tế, chính quyền Park chủ trơng huy động vốn
chủ yếu là từ các khoản viện trợ của Mỹ và Nhật Bản và các khoản vay nợ n-
ớc ngoài chứ không cho phép đầu t nớc ngoài trực tiếp.
* Lựa chọn các doanh nghiệp có quy mô lớn thuộc khu vực kinh tế t
nhân là ngời thực hiện chính sách phát triển công nghiệp.
Theo quan điểm của Park, sự cạnh tranh quá mức sẽ xâm hại đến phúc
lợi quốc gia, vì vậy, chính quyền Park đã lựa chọn trớc ngời chiến thắng trong
11
những ngành công nghiệp đặc biệt. Đó chính là những tổ chức kinh doanh
thuộc khu vực kinh tế t nhân có quy mô lớn.
Để thực hiện công nghiệp hoá thành công, chính quyền Park cho rằng
cần có các chính sách để khuyến khích khu vực kinh tế t nhân tham gia tích
cực vào sự nghiệp công nghiệp hoá. Nếu không có sự tham gia của khu vực này
thì mục tiêu của công nghiệp hoá và mục tiêu tăng trởng kinh tế sẽ khó thành
công. Các nhà chính trị và các nhà hoạch định chính sách kinh tế của Hàn Quốc
đã lựa chọn công cụ tài chính nh là một công cụ chủ yếu để quản lý các nhà
công nghiệp thuộc lĩnh vực kinh tế t nhân. Thông qua kiểm soát tài chính mà
bắt buộc họ phải phục vụ cho lợi ích của quốc gia.
* Hy sinh tiêu dùng và phúc lợi xã hội để dành nguồn vốn cho công
ngiệp hoá
Có thể nói rằng chính sách kinh tế của chính quyền Park Chung Hee

nhằm bảo vệ ngời sản xuất chứ không bảo vệ cho lợi ích của ngời tiêu dùng.
Trong điều kiện Hàn Quốc phải tập trung vốn để đầu t cho phát cho phát triển
triển công nghiệp và trả nợ các khoản vay nớc ngoài, tiết kiệm tiêu dùng đợc
xem là quốc sách. Các phúc lợi xã hội cũng bị thu hẹp lại để tập trung nguồn
vốn vào phát triển công nghiệp.
Các t tởng này về chính sách công nghiệp của tổng thống Park Chung
Hee đợc các tổng thống nh Chun Doo Whan, Roh Woo Tae, tiếp tục thực hiện
trong những nhiệm kỳ tiếp theo.
1.2.2.2. Quá trình tiến hoá của chính sách công nghiệp hoá của Hàn
Quốc.
+ Công nghiệp hoá trên cơ sở định hớng xuất khẩu (thời
kỳ những năm 60)
Giai đoạn đầu của chính sách công nghiệp hoá của Hàn Quốc đợc
đặc trng bởi định hớng khuyến khích xuất khẩu từ năm 1962 đến 1971 khi
12
chính quyền Park thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất và kế hoạh 5 năm lần
thứ 2.
Thời kỳ đầu những năm 60, sau khi Tổng thống Park Chung Hee lên
nắm quyền điều hành đất nớc, chính quyền Park đã nhấn mạnh rằng phát triển
kinh tế là u tiên hàng đầu để hiện đại hoá đất nớc. Mục tiêu của giai đoạn này là
tạo ra sự tăng trởng kinh tế nhanh về số lợng trên cơ sở xây dựng và phát triển
các ngành công nghiệp cơ bản, xây dựng cơ sở cho các ngành công nghiệp tự
lực cánh sinh, thay thế nhập khẩu thiết bị và xuất khẩu các sản phẩm công
nghiệp nhẹ. Lý do khiến chính quyền của Tổng thống Park lựa chọn định hớng
đẩy mạnh xuất khẩu đó là quan điểm cho rằng một nớc đang phát triển trong
điều kiện thiếu nguồn lực nội tại, không có tích luỹ vốn ngoài lao động, sức
mua trên thị trờng trong nớc rất nhỏ bé thì chỉ có thể tạo ra sản phẩm giá trị
gia tăng bằng cách nhằm vào thị trờng ngời tiêu dùng ở các nớc phát triển hay
thực hiện định hớng hớng ngoại. Tổng thống Park Chung Hee đã lập ra 2 kế
hoạch phát triển kinh tế 5 năm nhằm thực hiện công nghiệp hoá, góp phần đa

Hàn Quốc trở thành một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới.
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, với chủ trơng thay thế nhập
khẩu, chính phủ tập trung phát triển cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hệ thống đờng
giao thông, thuỷ điện. Đồng thời, các ngành công nghiệp nhẹ hớng về xuất
khẩu nh dệt , may, da, giầy v v .. cũng đợc chú trọng phát triển mạnh nhằm tận
dụng tối đa u thế lao động rẻ, chuẩn bị các cơ sở cho quá trình đẩy mạnh xuất
khẩu. Bắt đầu thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất cũng là quá trình công
nghiệp hoá đợc thực hiện từ công nghiệp nhẹ. Các lĩnh vực phát triển chủ yếu
trong công nghiệp là điện phân bón, sợi hoá học, sợi ny lông, lọc dầu và
ximăng, trong đó sợi hoá học, lọc dầu phát triển thông qua liên doanh chủ yếu
là dựa vào vốn của Mỹ. Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã đợc những thành tựu
đáng kể. Tốc độ tăng trởng GNP bình quân năm 1962-1967 là 8,5% ( kế hoạch
đề ra là 7,1%) trong đó tốc độ ngành khai khoáng và ngành công nghiệp chế tạo
13
tăng 14,2%. Vào năm 1965, cơ cấu nông, lâm, ng nghiệp trong GNP chiếm
38,4%, ngành khai khoáng và chế tạo chiếm 19,8%.
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1967-1971), chính phủ đặt ra mục tiêu
chủ yếu là hiện đại hoá cơ cấu công nghiệp hớng ngoại. Chính sách thay thế
nhập khẩu trong kế hoạch 5 năm đầu đợc thay bằng chủ trơng đẩy mạnh xuất
khẩu trên cơ sở sử dụng nhiều lao động, có lợi thế cạnh tranh với nớc ngoài. Các
ngành sợi nhân tạo, hoá dầu, thiết bị điện và các ngành công nghiệp nhẹ nh vải,
cao su, gỗ dán đợc coi là những ngành xuất khẩu chủ yếu.
Trong giai đoạn này, chính phủ lấy mục tiêu tăng trởng xuất khẩu làm
thớc đo cho mọi hoạt động kinh doanh. Tốc độ tăng GNP bình quân năm thời
kỳ 1966-1971 là 9,7% trong đó tốc độ của của nghành chế tác 19,8%, tốc độ
xuất khẩu đạt cao trên 40%. Kết thúc 2 kế hoạch 5 năm nền kinh tế Hàn Quốc
đã đạt đợc những kết quả đáng khích lệ. Do biết tận dụng nguồn lao động d
thừa, có kỹ năng và chi phí rẻ cho quá trình sản xuất các sản phẩm hớng về xuất
khẩu, Hàn quốc trong những năm 1960 đã khắc phục đợc sự thiếu thốn nghiêm
trọng về mặt tài nguyên, vợt qua đợc những sức ép về giới hạn thị trờng nhỏ bé

trong nớc để hớng ra xuất khẩu, tạo động lực cho tăng trởng kinh tế. Giai đoạn
từ 1962 đến 1971 đợc coi là một giai đoạn quan trọng nhất trong phát triển kinh
tế hiện đại của Hàn Quốc bởi vì nó đạt đợc những tiến bộ quan trọng trong xây
dựng và phát triển cơ sở công nghiệp, đạt đợc những thay đổi cơ bản trong các
chiến lợc phát triển của quốc gia thông qua cải cách chính sách và thay đổi thể
chế. Tỷ lệ xuất khẩu trong GNP đã tăng từ 2,4% năm 1961 lên 6,8% vào năm
1966 và 11,2% vào năm 1971. Tốc độ tăng trởng xuất khẩu giai đoạn này đạt
trên 40%. Sự phát triển của các nhành công nghiệp phục vụ xuất khẩu kéo theo
tỷ lệ việc làm tăng nhanh. Quá trình đô thị hoá đất nớc diễn ra nhanh chóng.
GNP đầu ngời đã tăng hơn gấp ba trong giai đoạn 1962-1971( từ 87 USD lên
289 USD).
14
* Công nghiệp hoá trên cơ sở u tiên phát triển các ngành
công nghiệp hoá chất và công nghiệp nặng (thời kỳ những năm 70)
Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, khi những hỗ trợ
của chính phủ đợc thực hiện trên cơ sở quy mô sản lợng xuất khẩu của các
ngành công nghiệp thì hai ngành công nghiệp nặng và công nghiệp hoá chất
cũng đã nhận đợc những hố trợ của chính phủ trong khuôn khổ đóng góp của
chúng vào sản lợng xuất khẩu. Điều này có nghĩa là ở giai đoạn đầu của quá
trình công nghiệp hoá, công nghiệp nặng và công nghiệp hoá chất (HCI) chỉ có
thể nhận đợc những hỗ trợ của chính phủ nếu chúng có đóng góp vào xuất
khẩu. Sự tập trung tạo động lực khuyến khích một số ít doanh nghiệp có quy
mô lớn của chính phủ tạo ra sự phát triển mạnh mẽ của một số ngành nh sản
xuất thép, hoá dầu, đóng tàu, công nghiệp ôtô.
Sự thay đổi căn bản trong chính sách công nghiệp của Hàn Quốc từ khuyến
khích xuất khẩu sang phát triển các ngành công nghiệp đợc xem là những
ngành công nghiệp chiến lợc nh công nghiệp nặng và công nghiệp hoá chất đợc
công bố vào tháng 1 năm 1972. Chính sách mới này đợc thực hiện trong thời kỳ
1972-1979. Đây là sự thay đổi căn bản từ định hớng tăng trởng bằng xuất khẩu
sang tập trung u tiên phát triển chỉ hai ngành công nghiệp nặng và công nghiệp

hoá chất. Có thể nói đây bớc thay đổi của cơ cấu công nghiệp.
Sự thay đổi về chính sách này đợc giải thích bởi nhiều lý do khác nhau.
Đó là:
Thứ nhất nó liên quan đến những tác động từ phía bên ngoài nh
cuộc khủng hoảng dầu lửa năm 1973. Cú sốc dầu mỏ năm 1973-1974 đã tác
động mạnh và làm nền kinh tế Hàn Quốc bị khủng hoảng nghiêm trọng. Kinh tế
Hàn Quốc phụ thuộc hoàn toàn vào dầu mỏ nhập khẩu từ thị trờng bên ngoài.
Do vậy chính phủ Hàn Quốc đã quyết định chuyển hớng chiến lợc cải thiện cơ
cấu ngành công nghiệp tập trung vào phát triển công nghiệp nặng và hoá chất
15
nhằm cung cấp nguyên vật liệu và thiết bị cho các ngành công nghiệp mới, loại
dần sự phụ thuộc vào nớc ngoài đối với ngành công nghiệp mới. Tại thời điểm
này, tình hình cạnh tranh trên thị trờng xuất khẩu quốc tế giữa các nớc phát
triển cũng trở nên ngày càng gay gắt.
Khi Mỹ rút ra khỏi Đông Nam á, Hàn Quốc không còn đợc viện trợ u
đãi của Mỹ, công nghiệp Hàn Quốc lệ thuộc nhiều vào Nhật Bản. Hàn Quốc
đang mất dần lợi thế cạnh tranh trong các ngành công nghiệp cần nhiều lao
động không kỹ năng nh giầy da, dệt, gỗ dán, do đó, cần phát triển chuyên sâu
các ngành công nghiệp cần sự tinh xảo hơn, có giá trị gia tăng và lợi thế cạnh
tranh cao hơn.
Với những điều kiện ngày càng xấu đi của thị trờng quốc tế, Hàn Quốc
cần phải giảm bớt sự phụ thuộc của nó vào nguyên liệu và máy móc nhập khẩu
để duy trì đợc sự ổn định của các lợi thế cạnh tranh. Nếu Hàn Quốc tiếp tục
phải nhập nhiều máy móc thiết bị và nguyên liệu trên thị trờng quốc tế nh ở
giai đoạn trớc thì sản phẩm của Hàn Quốc sẽ khó có khả năng đạt đợc lợi thế
cạnh tranh trên thị trờng quốc tế.
Mặt khác những thành tích của Nhật Bản trong các ngành nh sản xuất
thép, chế tạo ôtô, công nghiệp điện tử đã khuyến khích Hàn Quốc chú ý hơn
đến sự phát triển của các ngành công nghiệp chiến lợc.
Thứ hai, sự rút bớt một phần lực lợng quân đội Mỹ đặt ra yêu cầu là

chính phủ cần phải thiết lập một cơ sở công nghiệp cho việc bảo vệ quyền tự
chủ và an ninh quốc gia của mình. Và vì thế, chính phủ xác định rằng cần sử
dụng các công cụ tài chính và thuế để hớng việc sử dụng nguồn lực tập trung
vào các ngành công nghiệp trọng tâm nh hoá dầu, sắt, thép, điện tử.
Thứ ba, sự phát triển nhanh chóng của kỹ thuật, sự tăng trởng mức
tiền lơng trong nớc, nhu cầu đối với các sản phẩm của HCI cùng với sự tăng tr-
ởng dần dần mức thu nhập của ngời tiêu dùng và sự cạnh tranh mãnh liệt trên
16
thị trờng quốc tế đã bắt buộc Hàn Quốc phải sắp xếp lại cơ cấu công nghiệp của
mình để có thể mở rộng phát triển kinh tế.
Đối mặt với những biến đổi kinh tế và chính trị này, chính phủ Hàn
Quốc đã đặt ra mục tiêu mới cho chính sách công nghiệp cho thời kỳ kế hoạch
5 năm lần thứ ba và lần thứ t ( 1972-1981). Đó là tiếp tục duy trì phát triển công
nghiệp tốc độ cao, thay đổi cơ cấu công nghiệp, xây dựng các ngành công
nghiệp nặng và công nghiệp hoá chất có khả năng cạnh tranh cao, nhằm cung
cấp nguyên vật liệu và thiết bị cho các ngành công nghiệp mới, loại dần sự phụ
thuộc vào nớc ngoài đối với ngành công nghiệp mới, thực hiện tự cung cấp về
lơng thực, cân đối thanh toán. Các ngành công nghiệp mới chủ yếu trong kế
hoạch 5 năm lần thứ 3 (1972-1976) gồm: thép, hoá dầu, đóng tầu , thiết bị vận
tải, đồ dùng điện dân dụng.
Xét về mặt kinh tế, sự chuyển đổi cơ cấu công nghiệp ở Hàn Quốc làm
tăng năng xuất lao động, bù đắp tiền lơng ngày càng tăng ở Hàn Quốc và đáp
ứng những thách thức cạnh tranh toàn cầu.
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ 4 (1976-1981) chính phủ tiếp tục theo đuổi
các mục tiêu tăng trởng kinh tế, tạo cơ cấu kinh tế tự lực, cải thiện công nghệ và
tăng cờng hiệu quả. Chính phủ hỗ trợ mạnh mẽ các ngành chế tạo máy móc,
thiết bị điện tử, đóng tàu, luyện kim màu, coi đây là ngành công nghiệp mới có
công nghệ sử dụng nhiều lao động.
Để hỗ trợ cho công nghiệp nặng, chính phủ đã ban sắc lệnh phát triển
các ngành công nghiệp nặng và hoá chất vào tháng 1-1973, với mục tiêu đạt

50% xuất khẩu sản phẩm công nghiệp nặng và hoá chất trong tổng kim ngạch
xuất khẩu công nghiệp năm 1980. Luật thúc đẩy phát triển công nghệ cũng đợc
đa vào thực hiện năm 1972 và các biện pháp tự do hoá bớc một về nhập khẩu
công nghệ nớc ngoài đợc chính phủ thực hiện năm 1978 đã đem lại sự phát triển
công nghệ vợt bậc cho ngành công nghiệp.
17
Quá trình công nghiệp hoá của Hàn Quốc đợc xem là kết thúc sau
khi hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ 4. Những kết qủa đạt đợc của 4 kế
hoạch năm 5 là rất đáng kể, tuy nhiên chúng cũng để lại một số vấn đề nh lạm
phát tăng ( tỷ lệ lạm phát vào cuối những năm 1970 là 28,7%), đặc biệt là thâm
hụt cán cân thanh toán quốc tế, sự phát triển thiếu cân đối, giảm khả năng cạnh
tranh của sản phẩm Hàn Quốc trên thị trờng quốc tế.
Do vậy, sau khi kết thúc giai đoạn công nghiệp hoá, từ 1980, chính phủ
đã có những thay đổi cơ bản trong chính sách công nghiệp của mình. Trong
phạm vi có giới hạn của luận văn, những thay đổi trong chính sách công nghiệp
của chính phủ từ sau 1980 nh chính sách tự do hoá và mở cửa (giai đoạn 80-89),
chính sách toàn cầu hoá ( giai đoạn 90-96) không đợc đề cập.
1.2.2.3. Các công cụ công nghiệp hoá
* Kiểm soát tín dụng.
Kiểm soát hoạt động của các nhà công nghiệp bằng tín dụng đợc xem là
công cụ có hiệu lực nhất và là công cụ chủ yếu nhất của các công cụ nhằm thực
hiện chính sách công nghiệp hoá. Sự kiểm soát tín dụng đợc thực hiện thông
qua kiểm soát lãi xuất vay vốn u đãi, thực hiện các khoản cho vay hỗ trợ theo
chỉ định và kiểm soát các khoản vốn vay nớc ngoài.
Do tiết kiệm trong nớc có giới hạn, sự thiếu vắng thị trờng vốn nên các
chủ doanh nghiệp ở Hàn Quốc đã buộc phải dựa vào các khoản vay ngân hàng
để đầu t mở rộng các công ty của mình. Khi chính phủ nắm quyền sở hữu hoặc
quản lý các ngân hàng thì thực ra đã đặt các chủ doanh nghiệp dới sự quản lý
chặt chẽ của chính phủ. Và nh vậy, việc quản lý tín dụng ngân hàng trở thành
một công cụ chính sách rất quan trọng mà chính phủ có thể sử dụng . David

Cole và Yung Chul Park đã nói rằng: sự quản lý của Chính phủ đối với các tổ
chức ngân hàng là biện pháp chủ yếu để hớng dẫn và chỉnh đốn xí nghiệp t
nhân. Tỷ lệ lãi suất thực quá thấp đối với các khoản vay ngân hàng do nhà nớc
18
quản lý đảm bảo rằng luôn luôn có d cầu về tín dụng ngân hàng. Điều này đã
tạo ra nhu cầu phân phối tín dụng và tạo điều kiện để chính phủ thực thi các ph-
ơng thức chỉ huy thông qua sự kiểm soát của mình đối với các khoản vay, tỷ lệ
lãi suất và thời hạn vay. Một tình trạng tơng tự cũng xuất hiện trong việc phân
phối tín dụng nớc ngoài, đặt chính phủ vào vị trí thuận lợi để kiểm soát các
công ty theo ý mình.
* Chính sách thuế.
Đối với phần lớn các quốc gia, chính sách thuế có lẽ là một công cụ có
tính thực tiễn nhất của chính sách công nghiệp. Các điều khoản về thuế phân
biệt giữa các khu vực hay việc miễn giảm thuế tạo ra những công cụ có tác
dụng ngay lập tức cho việc khuyến khích các lĩnh vực công nghiệp u tiên. Đồng
thời với việc miễn thuế, quyền thực hiện các vụ thanh tra thuế cần thiết để thực
thi các chỉ thị của chính phủ cũng đợc xem là công cụ quan trọng bằng hoặc
hơn công cụ miễn thuế. Trên quan điểm chính trị, hiệu lực của thuế là ở chỗ nó
không đòi hỏi sự rút bớt trực tiếp hoặc gián tiếp ngân sách quốc gia. Điều này
có nghĩa là nó có thể đợc che đậy khỏi sự giám sát của công chúng và đợc tách
biệt một cách có hiệu quả hơn khỏi những áp lực chính trị.
* Chính sách tỷ giá hối đoái
Bên cạnh chính sách tín dụng đợc xem là công cụ chính sách vĩ mô chủ
yếu để thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá thì chính sách tỷ giá hối đoái cũng
đợc sử dụng nh là một công cụ phổ biển. ảnh hởng của chính sách tỷ giá hối
đoái đợc thực hiện thông qua việc tăng giá và phá gía đồng Won. Nếu chính
phủ phá giá đồng tiền dới mức cân bằng hợp lý thì xuất khẩu của quốc gia sẽ
gia tăng và dẫn đến kết quả là sản xuất và việc làm trong các ngành công nghiệp
xuất khẩu sẽ gia tăng. Mặt khác, khi giá bán các mặt hàng nhập khẩu gia tăng
do kết quả của việc phá gía đồng tiền, hoạt động nhập khẩu sẽ giảm sút và mức

độ lạm phát trên thị trờng nội địa sẽ gia tăng. Ngay cả khi việc phá giá đồng
19
tiền dẫn đến sự gia tăng xuất khẩu thì nó cũng làm cho các công ty nhập khẩu
nguyên liệu tự nhiên có mức doanh lợi thấp và chịu thêm gánh nặng về chi phí
tài chính. Hơn thế nữa, khi việc phá giá đồng tiền bảo vệ đợc khả năng cạnh
tranh về giá, thì chính sách này cũng làm trở ngại nhng cố gắng cải tổ cơ cấu
công nghiệp, sự sáng tạo kỹ thuật và tăng trởng năng xuất.
Không giống nh việc phá giá đồng tiền, sự tăng giá sẽ dẫn đến tăng trỏng
nhập khẩu và suy giảm xuất khẩu. Hơn nữa, chính sách này sẽ ảnh hởng đến sự
ổn định giá cả trên thị trờng quốc gia và khó khăn trong việc tạo nguồn trả các
món nợ.
Do chính sách tỷ giá hối đoái có những tác dụng khác nhau đối với các
ngành công nghiệp nên nó đợc sử dụng nh là một công cụ của chính sách công
nghiệp.
1.2.3. Quan điểm của chính phủ về vai trò của nhà nớc đối
với quá trình công nghiệp hoá và về việc sử dụng công cụ tín
dụng
1.2.3.1. Quan điểm của chính phủ Hàn Quốc về vai trò của nhà nớc
đối với quá trình công nghiệp hoá:
Khi xây dựng kế hoạch 5 năm lần thứ nhất ( năm 1962) chính quyền Park
đã đa ra một chơng trình 5 điểm.
Một là: chính sách kinh tế tập trung hớng vào ngời sản xuất chứ không
phải hớng vào ngơì tiêu dùng.
Hai là: Chính phủ có quyền lực tuyệt đối trong việc xây dựng các
chính sách kinh tế.
Ba là: Chính sách phát triển kinh tế hớng vào xuất khẩu đợc xây dựng
trên cơ sở hy sinh nhu cầu và sự tiêu dùng trong nớc.
Bốn là: Mọi yếu tố bất ngờ và không chắc chắn đợc loại bỏ khỏi thị tr-
ờng.
20

Năm là: Để cung cấp nguồn tài chính cho sự phát triển kinh tế và tránh
khỏi sự kiểm soát của nớc ngoài đối với những ngành công nghiệp then chốt
của quốc gia, chính phủ chủ trơng vay vốn nớc ngoài chứ không cho phép các
nhà đầu t nớc ngoài thực hiện đầu t trực tiếp.
Chơng trình này của chính quyền Park cho thấy mọi quyết định đều
đợc tập trung trong tay chính phủ chứ không phải do thị trờng điều khiển. Có
thể nói rằng không tin tởng vào thị trờng và thực hiện một chế độ độc tài để đa
đất nớc ra khỏi sự nghèo khó chính là nét đặc trng nổi bật của chính quyền
Park. Park Chung Hee đã thừa kế văn hoá của đạo Khổng và tập trung quyền
lực đợc ông đánh giá là một hành vi của cuộc sống. Tập trung quyền lực đợc
duy trì và phát triển phục vụ cho việc đạt đợc mục tiêu của quốc gia trong suốt
thời kỳ Park cầm quyền và sau này vẫn đợc duy trì dới thời tổng thống Chun
Doo Whan và tổng thống Roh Woo Tae. Chỉ khi Kim Yuong Sam và sau này
là Kim Dae Jung lên nắm chính quyền, chế độ độc quyền mới đợc chấm dứt.
Tin tởng rằng dân chủ và sự phát triển kinh tế có thể hoà hợp với nhau, chính
quyền Kim đã chuyển nền kinh tế Hàn Quốc sang một mô hình khác mô
hình Anh - Mỹ hoàn toàn đối lập với mô hình của chính quyền Park.
Chính phủ Hàn Quốc, trong thực tế, đã thể hiện thành công vai trò của
mình trong việc lựa chọn, hoạch định và chỉ đạo thực thi hiệu quả chiến lợc phát
triển kinh tế chung của đất nớc, trong đó chiến lợc công nghiệp hoá hớng về
xuất khẩu - đợc coi là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình phát triển đạt tới kỳ tích
hoá rồng của Hàn Quốc.
Chiến lợc công nghiệp hoá của Hàn Quốc đợc cụ thể hóa trong các kế
hoạch 5 năm. Trên cơ sở mục tiêu chung của sự phát triển công nghiệp trong
mỗi giai đoạn của quá trình công nghiệp hoá, tuỳ theo tình huống cụ thể, chính
phủ đã cụ thể hoá mục tiêu , địng hớng và nhiệm vụ cụ thể của các kế hoạch 5
năm. Trong suốt thời kỳ công nghiệp hoá, Hàn Quốc đã thực hiện 7 kế hoạch 5
năm và chính phủ luôn luôn có những điều chỉnh thích hợp các ngành công
21
nghiệp trọng điểm, cơ cấu ngành, cơ cấu sản phẩm đảm bảo cho công nghiệp

hoá mang lại kết quả tăng trởng kinh tế.
Nhằm tạo những điều kiện thuận lợi, tìm kiếm các động lực để các tổ
chức kinh doanh đợc lựa chọn tham gia vào các chơng trình phát triển các
ngành công nghiệp mũi nhọn trong từng giai đoạn công nghiệp hoá, chính phủ
đã sử dụng những công cụ chính sách khác nhau nh chính sách cụ thể nh thuế,
chính sách tín dụng. Các chính sách này có tác dụng định hớng phát triển các
ngành sản xuất, bảo hộ sản xuất, tìm kiếm nguồn vốn đầu t trong nớc và ngoài
nớc. Trong quá trình thực hiện các chính sách này chính phủ luôn có các giải
pháp kiểm tra giám sát và khuyến khích việc tuân thủ các chính sách của giới
kinh doanh. Sự mềm dẻo và linh hoạt trong hoạch định chính sách và kiểm soát
thực hiện chính sách một cách chặt chẽ chính là yếu tố đảm bảo thành công của
chính sách đối với quá trình công nghiệp hoá. Ví dụ nh khi cần bảo hộ công ty
trong nớc, chính phủ đã sử dụng chính sách thuế nhập khẩu, đồng thời trợ cấp
việc trả lãi ngân hàng cho các công ty. Nhng khi công ty đã đủ mạnh thì việc trợ
cấp này cũng bị bãi bỏ nếu không thì chính phủ phải phát hành tiền, dễ gây lạm
phát cao. Thuế nhập khẩu cũng bỏ từng phần từng thời kỳ. Khi cần phát triển
công nghiệp nặng với những công ty quy mô lớn, chính phủ đã chọn một vài
công ty mạnh để áp dụng những khuyến khích u đãi riêng. Nhng khi các công
ty này đã vững mạnh trong cạnh tranh thì chính phủ một mặt bãi bỏ các u đãi
đó, mặt khác chuyển sang việc chống các công ty này lũng đoạn , độc quyền
thậm chí phải bảo hộ các công ty vừa và nhỏ khi bị các công ty lớn thôn tính.
Chính phủ trực tiếp quản lý một số ngành công nghiệp có ảnh hởng quyết
định đến an ninh và lợi ích công cộng, đầu t vào các lĩnh vực kinh tế , xã hội có
ít hoặc không có lợi nhuận trực tiếp nh hạ tầng kinh tế, xã hội, giáo dục , y tế,
khoa học
Vai trò của chính phủ cũng đợc phản ánh qua các chính sách, biện pháp
trong việc thúc đẩy thu hút đầu t nớc ngoài, tạo lập nguồn vốn cho các doanh
22
nghiệp. Do chiến lợc phát triển hớng ra bên ngoài dựa trên đẩy mạnh xuất khẩu,
trong khi Hàn Quốc là quốc gia nghèo tài nguyên, vì vậy để phát triển Hàn

Quốc phải dựa vào nguồn vốn nớc ngoài. ở Hàn Quốc nhà nớc đứng ra vay
hoặc bảo lãnh trách nhiệm đối với nguồn vốn vay cho khu vực t nhân. Điều
đáng chú ý trong hoạt động điều chỉnh của Chính phủ Hàn Quốc là những biện
pháp, chính sách can thiệp vào thị trờng tài chính. Để thực hiện việc kiểm soát,
Chính phủ nắm toàn bộ các ngân hàng thơng mại (từ 1961). Việc quản lý, phân
bổ nguồn vốn đợc kiểm soát tới từng dự án , từng công ty. Chính vì vậy vai trò
và ảnh hởng của Chính phủ đến đờng hớng kinh doanh của khu vực t nhân là rất
lớn.
Tóm lại, sự thành công hay không thành công của Hàn Quốc hoàn toàn
tuỳ thuộc vào việc Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện vai trò của mình nh thế
nào đối với việc vợt qua đợc các nguy cơ, chớp đợc các thời cơ trong phát triển
đất nớc, lợi ích của dân tộc trong từng thời kỳ.
1.2.3.2. Vai trò của chính sách tín dụng đối với công nghiệp hoá
Chính sách tín dụng đợc chính phủ Hàn Quốc xem là một công cụ quan
ttrọng để thực hiện công nghiệp hoá vì những lý do sau:
+ Hàn Quốc bắt đầu sự phát triển kinh tế của mình với sự thiếu
hụt nguồn vốn và kỹ thuật ở trong nớc. ở Hàn Quốc, tỷ lệ đầu t / GNP luôn
luôn ở mức cao hơn tỷ lệ tiết kiệm. Do đó, quan điểm chỉ đạo là phải làm thế
nào để sử dụng chính phủ cho việc huy động vốn và hỗ trợ đầu t cho công
nghiệp hoá. Chính phủ phải sử dụng công cụ tín dụng một cách đắc lực để đáp
ứng nhu cầu về vốn của các tôt chức kinh doanh tham gia các chơng trình công
nghiệp của chính phủ. Các chính sách tín dụng của Hàn Quốc đã có tác dụng
rất hiệu quả đối các thay đổi trong chính sách công nghiệp. Chính phủ đã điều
chỉnh các chơng trình tín dụng có chỉ đạo của mình để đáp ứng các yêu cầu cấp
bách của lĩnh vực kinh doanh. Chính phủ đã tạo ra các chơng trình tín dụng mới
23
để hớng các nguồn tài chính vào các cơ hội công nghiệp nơi cần một lợng vốn
đầu t rất lớn.
+ Một nguyên nhân khác dẫn đến sự cần thiết phải sử dụng công cụ chính
sách tín dụng đó là nhu cầu kiểm soát hành vi của các nhà công nghiệp, bắt

buộc họ phải phục vụ cho lợi ích quốc gia. Trong quá trình công nghiệp hoá,
khi lựa chọn các doanh nghiệp thuộc khu vực t nhân là ngời tham gia thực hiện
chơng trình phát triển công nghiệp, chính phủ muốn kiểm soát hành vi của các
nhà công nghiệp, bắt buộc họ phải phục vụ cho lợi ích quốc gia vì thế chính phủ
cần một công cụ quản lý các nhà công nghiệp và công cụ tài chính đợc lựa
chọn là công cụ chủ yếu để thực hiện các ý tởng công nghiệp hoá của các nhà
làm chính sách Hàn Quốc. Về phía các nhà công nghiệp, họ cũng cần sự trợ
giúp tín dụng rẻ từ chính phủ để củng cố cấu trúc tài chính đòn bẩy cao của họ.
+ Hàn Quốc phải huy động vốn chủ yếu từ nguồn tài trợ và các
khoản vay tín dụng từ nớc ngoài (của Mỹ và Nhật Bản). Hàn Quốc là một trong
rất ít nớc trên thế giới nhận đợc một lợng vốn lớn từ nớc ngoài. Các khoản vay
t nhân nớc ngoài là các khoản then chốt cho phép Hàn Quốc theo đuổi sự phát
triển công nghiệp nặng và công nghiệp hóa chất của mình. Mặc dù mức độ tiết
kiệm nội địa đã tăng nhanh từ những năm 70 nó cũng không đủ chi cho các chi
phí khổng lồ cho sự phát triển của công nghiệp nặng và công nghiệp hóa chất.
Đầu t nh là một phần của GNP thờng giao động trong khoảng 30% trong những
năm 70 nhng tiết kiệm nội địa vẫn rất thấp. Vì vậy, chính phủ phải hỗ trợ các
doanh nghiệp khai thác nguồn vốn này thông qua thực hiện việc bảo lãnh cho
các khoản vay nớc ngoài và kiểm soát việc sử dụng nguồn vốn từ nớc ngoài.
Hầu hết việc vay mợn nỡc ngoài cả các khoản vay thơng mại và công cộng đợc
chính phủ bảo đảm và nhiều khoản vay đơn lẻ đã đợc chính phủ phê duyệt. Nh-
ng sau khi cung cấp các bảo đảm cho việc tái thanh toán chính phủ cũng phải
giám sát việc sử dụng vốn vay của các nhà đi vay .
24
+ Do các ngân hàng nằm dới sự kiểm soát của chính phủ nên
chính phủ có thể thực hiện đợc việc kiểm soát tài chính đối với các tổ chức kinh
doanh để buộc các tổ chức này thực hiện các kế hoạch của chính phủ trong suốt
qua trình công nghiệp hoá . Tổng thống Park Chung Hee đã tăng cờng việc
kiểm soát của chính phủ với việc sử dụng tài chính. Điều khiển các ngân hàng
trong một nền kinh tế dựa vào các khoản tín dụng nh Hàn Quốc là công cụ

quyền lực nhất để điều khiển các nhà công nghiệp.
25

×