Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

Nghiên cứu chế tạo bột huỳnh quang phát xạ ánh sáng đỏ (RED) ứng dụng trong chế tạo đèn huỳnh quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.43 MB, 45 trang )


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC







BÁO CÁO TỔNG KẾT

ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP ĐẠI HỌC





NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO BỘT HUỲNH QUANG PHÁT
XẠ ÁNH SÁNG ĐỎ (RED) ỨNG DỤNG TRONG CHẾ TẠO
ĐÈN HUỲNH QUANG


Mã số: ĐH2011-07-08




Chủ nhiệm đề tài: Th.S. Lê Tiến Hà






THÁI NGUYÊN, NĂM 2013
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC



BÁO CÁO TỔNG KẾT

ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP ĐẠI HỌC




NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO BỘT HUỲNH QUANG PHÁT XẠ
ÁNH SÁNG ĐỎ (RED) ỨNG DỤNG TRONG CHẾ TẠO ĐÈN
HUỲNH QUANG


Mã số: ĐH2011-07-08

Chủ nhiệm đề tài: Th. S. Lê Tiến Hà
Người tham gia thực hiện: PGS. TS. Phạm Thành Huy
PGS. TS. Vũ Thị Kim Liên
TS. Chu Việt Hà




Xác nhận của cơ quan chủ trì đề tài
(ký, họ tên, đóng dấu)




THÁI NGUYÊN, NĂM 2013

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, vấn đề năng lượng, tiết kiệm năng lượng và năng lượng sạch bảo vệ môi
trường đang được quan tâm, đầu tư, nghiên cứu trên toàn thế giới. Đối với năng lượng
chiếu sáng, theo báo cáo mới nhất của IEA (Policies for Energy efficient lighting [22]) chỉ
tính riêng các đèn chiếu sáng dây tóc đã tiêu thụ khoảng 7% tổng lượng điện năng tiêu thụ
(bằng ½ tổng công suất của tất cả các nhà máy điện hạt nhân). Trong năm 2005, tổng
lượng điện năng tiêu thụ của các loại đèn dây tóc là ~ 970 TWh, việc chế tạo và sử dụng
các bóng đèn này thải ra môi trường một khối lượng lớn ~ 560 Mt (CO
2
), và thủy ngân. Vì
vậy việc thay thế các thiết bị chiếu sáng nói chung và các đèn chiếu sáng bằng dây tóc nói
riêng bằng các bóng đèn huỳnh quang và huỳnh quang compac là nhu cầu cấp thiết của
nhiều quốc gia trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam.
Ở nước ta hiện nay, nguyên liệu bột huỳnh quang dùng trong các bóng đèn huỳnh
quang và bóng đèn huỳnh quang ba phổ đa số là nhập từ nước ngoài. Việc chế tạo bột
huỳnh quang ứng dụng để phủ trong các đèn huỳnh quang là nhu cầu cấp thiết và sống
còn của các nhà máy sản xuất thiết bị chiếu sáng, vì khi chủ động được nguyên vật liệu
mới chủ động được công nghệ chế tạo và hạ được giá thàng sản phẩm. Trong các thiết bị
chiếu sáng phát ánh sáng trắng dùng vật liệu ba phổ thì bột huỳnh quang phát ra bức xạ

màu đỏ chiếm gần 80%. Vì vậy việc nghiên cứu và chế tạo bột huỳnh quang phát bức xạ
màu đỏ là cần thiết. Đề tài “Nghiên cứu chế tạo bột huỳnh quang phát xạ ánh sáng đỏ
(Red) ứng dụng trong chế tạo đèn huỳnh quang” được thực hiện nhằm ứng dụng trực
tiếp các kết quả vào việc chế tạo các đèn huỳnh quang ánh sáng đỏ dùng trong nông
nghiệp và đèn huỳnh quang compact hiệu suất cao.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Chế tạo bột huỳnh quang phát xạ ánh sáng đỏ (Red), nghiên cứu các cơ chế ảnh
hưởng đến cấu trúc và tính chất quang của bột huỳnh quang, phủ thử bột lên bóng đèn
huỳnh quang.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Các bột huỳnh quang có pha tạp Eu với các vật liệu nền khác nhau, ứng dụng trong
chế tạo đèn huỳnh quang ba phổ.
2

4. Nội dung nghiên cứu
1. Tổng hợp bột huỳnh quang phát ra bức xạ màu đỏ, ứng dụng trong chế tạo đèn
huỳnh quang ba phổ.
2. Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến cấu trúc và tính chất quang của vật liệu
tổng hợp được.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Thực nghiệm tổng hợp bột huỳnh quang.
- Thực nghiệm chụp ảnh SEM, đo phổ nhiễu xạ tia X, phổ kích thích huỳnh
quang, phổ quang huỳnh quang.
- Tập hợp và xử lý số liệu
























3

Chương 1
TỔNG QUAN
Hiện nay, công nghệ chiếu sáng tiết kiệm điện năng và thân thiện với môi trường
đang được quan tâm nghiên cứu.
Thực tế cho thấy, xu hướng sử dụng các nguồn sáng nhân tạo là các loại đèn huỳnh
quang làm nguồn sáng chủ yếu ngày càng nhiều, khiến các nhà cung cấp nguồn sáng ngày
càng quan tâm nhiều đến công nghệ, nguyên vật liệu để tạo ra chất lượng ánh sáng tốt
hơn. Các loại bột huỳnh quang có dải sóng hẹp, có quang thông lớn và chỉ số truyền màu
cao đang hứa hẹn ứng dụng rất nhiều trong việc chế tạo các loại bóng đèn huỳnh quang
tiết kiệm năng lượng và chết tạo các loại điốt phát quang ở Việt Nam.
Như chúng ta đã biết, các loại bóng đèn huỳnh quang sản xuất tại Việt Nam hầu hết

là sử dụng bột ba màu ngoại nhập nên không chủ động trong sản xuất, mà giá thành sản
phẩm lại cao. Vì vậy, việc nghiên cứu công nghệ chế tạo bột huỳnh quang ba màu có hiệu
suất cao thay thế cho bột huỳnh quang ngoại nhập để giảm giá thành sản xuất là một trong
những nhu cầu cấp thiết, có ý nghĩa thực tiễn cao và rất cần thiết.
1.1. Tổng quan về bột huỳnh quang
Vật liệu huỳnh quang được nghiên cứu chế tạo đề tài là vật liệu có khả năng phát
ánh sáng trong vùng quang phổ mà mắt người cảm nhận được khi bị kích thích.
Hiện tượng khi các chất nhận năng lượng kích thích từ bên ngoài và phát ra ánh
sáng được gọi là sự phát quang. Tùy theo các loại năng lượng kích thích khác nhau
người ta phân thành các loại huỳnh quang khác nhau: năng lượng kích thích bằng ánh
sáng được gọi là quang phát quang; năng lượng kích thích bằng điện trường được gọi
là điện quang phát quang vv… Quá trình phát quang xảy ra ngay sau khi được kích
thích (ι
F
≈ ns) được gọi là huỳnh quang. Còn nếu quá trình phát quang xảy ra chậm (ι
F

≈ μs) thì được gọi là sự lân quang.
Khi hấp thụ năng lượng kích thích, nguyên tử, phân tử chuyển từ mức năng lượng
ban đầu lên các trạng thái năng lượng khác cao hơn. Nếu phân tử, nguyên tử hấp thụ
ánh sáng nằm trong vùng nhìn thấy hoặc vùng tử ngoại thì năng lượng hấp thụ sẽ ứng
với các mức điện tử, như vậy sẽ có sự chuyển dời của điện tử trong phân tử từ quỹ đạo
này sang quỹ đạo khác. Từ trạng thái kích thích, điện tử trong nguyên tử, phân tử có
4

thể trở về trạng thái cơ bản bằng các con đường khác nhau: hồi phục không bức xạ
hoặc hồi phục bức xạ.
1.1.1. Cơ chế phát quang của bột huỳnh quang
Cơ chế phát quang của vật liệu phụ thuộc vào cấu hình điện tử của các nguyên tố
đất hiếm pha tạp, có vai trò là các tâm phát xạ.

Đối với vật liệu huỳnh quang pha tạp gồm hai phần chính:
+ Chất nền (mạng chủ) là những chất có vùng cấm rộng do được cấu tạo từ các ion
có cấu hình điện tử lấp đầy nên thường không hấp thụ ánh sáng nhìn thấy.
+ Chất pha tạp (tâm kích hoạt) là những nguyên tử hay ion có cấu hình điện tử
với một số lớp chỉ lấp đầy một phần (ví dụ như các ion kim loại chuyển tiếp có lớp d
chưa bị lấp đầy, các ion đất hiếm có lớp f chưa bị lấp đầy) sẽ có những mức năng
lượng cách nhau bởi những khe không lớn lắm tương ứng với năng lượng ánh sáng
nhìn thấy, ta nói chúng nhạy quang học.
Khi kích thích vật liệu bằng bức xạ điện từ, các photon bị vật liệu hấp thụ. Sự hấp
thụ có thể xảy ra tại chính tâm kích hoạt hoặc tại chất nền.
Trường hợp thứ nhất: Tâm kích hoạt hấp thụ photon, nó sẽ chuyển từ trạng thái cơ
bản lên trạng thái kích thích, quá trình quay trở về sẽ bức xạ ánh sáng.
Trường hợp thứ hai: Chất nền hấp thụ photon, khi đó điện tử ở vùng hóa trị sẽ
nhảy lên vùng dẫn làm sinh ra một lỗ trống ở vùng hóa trị. Sự tái hợp giữa điện tử ở
vùng dẫn và lỗ trống ở vùng hóa trị thường không xảy ra mà điện tử và lỗ trống có
thể sẽ bị bẫy tại các bẫy, sự tái hợp giữa điện tử và lỗ trống lúc này sẽ không bức xạ
ánh sáng.
Một khả năng nữa có thể xẩy ra khi chất nền hấp thụ photon đó là điện tử không
nhảy hẳn từ vùng hóa trị lên vùng dẫn mà chỉ nhảy lên một mức năng lượng gần đáy
vùng dẫn, lúc này điện tử và lỗ trống không hoàn toàn độc lập với nhau mà giữa chúng
có một mối liên kết thông qua tương tác tĩnh điện Coulomb. Trạng thái này được gọi là
exciton, nó có năng lượng liên kết nhỏ hơn một chút so với năng lượng vùng cấm E
g
.
Bán kính Bohr exciton (a
B
) được tính theo công thức sau:

o
B

2 * *
o e h
4 1 1
a ( )
m e m m
 
 


Trong đó, ε
0
là hằng số điện, ε là hằng số điện môi của vật liệu, m
o
là khối lượng
nghỉ của điện tử, m
e
*
và m
h
*
là khối lượng hiệu dụng (là khối lượng đã tính đến những
5

tác động của trường tinh thể lên tính chất của các hạt tải) tương ứng của điện tử và lỗ
trống. Sự tái hợp exciton sẽ bức xạ ánh sáng.
1.1.2. Các đặc trưng của bột huỳnh quang
Hiệu suất huỳnh quang.
Hiệu suất huỳnh quang được tính bằng tổng hiệu suất hấp thụ và hiệu suất lượng tử.
Trong đó: Hiệu suất lượng tử được tính bằng công suất phát xạ chia cho công suất hấp
thụ.

Mỗi loại vật liệu huỳnh quang cần được tính toán sao cho hiệu suất huỳnh quang cao
nhất. Thông thường bóng đèn huỳnh quang có thể đạt hiệu suất huỳnh quang từ 0.55-0.95
Hấp thụ bức xạ kích thích.
Đối với vật liệu huỳnh quang nói chung vùng hấp thụ năng lượng không phải là một
dải đều mà thường là hấp thụ mạnh trong một vùng nhất định.Trong bóng đèn hơi thủy
ngân áp suất thấp bức xạ kích thích của đèn mạnh nhất ở bước sóng 254nm, vật liệu
huỳnh quang cho đèn cần có phổ hấp thụ mạnh trong dải này. Đối với bóng đèn huỳnh
quang hơi thủy ngân áp suất cao có hai vùng bức xạ là 220-290nm và 330-390nm do đó
loại vật liệu huỳnh quang hấp thụ ở dải bước sóng 380nm cũng cần được chú ý.
Độ ổn định màu
Một số loại vật liệu huỳnh quang có tính chất quang biến đổi theo nhiệt độ. VD
bột huỳnh quang halophosphats 3Ca(PO
4
)Ca(F,Cl) được hoạt hoá bởi Sb
3+
và Mn
2+
,
phổ bức xạ của Sb
3+
bị dịch về phía bước sóng ngắn khi nhiệt độ tăng, LaPO
4
:Ce,Tb
hiệu suất phát quang giảm đến 90% khi nhiệt độ tăng từ nhiệt độ phòng lên 150
0
C. Đối
với bóng đèn huỳnh quang hơi thủy ngân áp suất thấp, nhiệt độ hoạt động của đèn
khoảng 40
0
C, đối với đèn thủy ngân áp suất cao, nhiệt độ bên trong có thể tăng đến

350
0
C vì thế cần phải có những loại huỳnh quang phù hợp.
Độ bền
Có rất nhiều tác nhân gây ra sự suy giảm phẩm chất của vật liệu như tác động của
hóa, nhiệt, điện trường và cơ học xảy ra bên trong. Đối với bóng đèn huỳnh quang hơi
thủy ngân áp suất thấp, vật liệu huỳnh quang cần có tính trơ với hơi thủy ngân, không
bị phân hủy bởi các bức xạ năng lượng cao. Không tương tác với các ion tạp chất của
vật liệu làm thành ống.
Độ đồng đều về hình dạng và kích thước hạt
Trong khối vật liệu huỳnh quang, sau khi sự phát quang diễn ra các tia bức xạ sẽ
bị tán xạ, khúc xạ và tương tác với các hạt vật liệu. Thông thường quá trình này sẽ làm
6

mất đi một phần năng lượng bức xạ do tán xạ và hấp thụ của khối vật liệu. Do vậy, sự
phân bố về hình dạng cũng như kích thước của các hạt cũng có vai trò quan trọng ảnh
hưởng tới hiệu suất phát quang.
1.2. Các loại bột huỳnh quang
1.2.1. Bột huỳnh quang truyền thống
Bột huỳnh quang truyền thống là các bột huỳnh quang dựa trên nguyên liệu
calcium halophosphate. Bột huỳnh quang calcium halophosphate đáp ứng được sự
kích thích của bức xạ 254 nm của thủy ngân và bền trong không gian phóng điện của
môi trường khí trơ. Bột huỳnh quang quang calcium halophosphate được hoạt hóa với
các ion Sb
3+
và Mn
2+
(đã được công bố bởi Mckeag và cộng sự năm 1942). Từ đó bột
huỳnh quang halophosphate có các ion kích hoạt Sb
3+

và Mn
2+
được sử dụng rộng rãi
cho sự phát ra ánh sáng trắng trong bóng đèn huỳnh quang công nghiệp.
1.2.1.1. Cấu trúc mạng nền
Halophosphate với thành phần Ca
5
(PO
4
)
3
X ( X = F, Cl) là gần với hydroxy-
apatite, thành phần chính của xương và răn. Apatite có cấu trúc tinh thể là hexagonan và
các nguyên tử Ca xuất hiện ở hai vị trí khác nhau. Các nguyên tử Ca ở vị trí 1 ( Ca
I
) có số
phối trí 6 và được bao quanh bởi 6 nguyên tử O với độ dài trung bình của liên kết Ca
I
-O là
2,43 A
0
. Các nguyên tử Ca ở vị trí 2 ( Ca
II
) được bao quanh bởi 6 nguyên tử oxi ( độ dài
trung bình của liên kết Ca
II
-O là 2,43 A
0
) và một nguyên tử halogen( độ dài liên kết Ca
II

-O
là 2,39 A
0
. Trong trường hợp halogen là F thì Ca
II
và những nguyên tử F cùng nằm trên
một mặt phẳng tinh thể. Tuy nhiên là khi halogen là Cl thì Ca
I
và những nguyên tử Cl
không nằm trên cùng một mặt tinh thể.
Mặt dù có nhiều bài báo bàn về vị trí của Sb
3+
và Mn
2+
nhưng tất cả đều nhất trí
cho rằng những ion này có khả năng thay thế các ion Ca
2+
ở cả 2 vị trí. Ngoài ra tác giả
Blasse cũng nhấn mạnh rằng có bằng chứng cho thấy các ion Sb
3+
cũng có thể ở vị trí trên
phosphorus trong mạng lưới bột huỳnh quang.
Tuy nhiên trong khi những ion Mn
2+
nói chung thường phân bố đồng đều trong
toàn tinh thể thì những ion Sb
3+
được tìm thấy hầu hết trên bề mặt tinh thể [11,26].
1.2.1.2. Tính chất phát quang của vật liệu
Các bóng đèn huỳnh quang thường sử dụng bột halophosphat với phát xạ chủ yếu

là của các ion Sb
3+
và Mn
2+
được pha tạp. Bột huỳnh quang halophosphate hoạt hóa bởi
Sb
3+
và Mn
2+
hấp thụ bức xạ tử ngoại từ hơi thủy ngân trong đèn huỳnh quang và phát ra
ánh sáng trắng (hình 1.1). Quá trình phát ra ánh sáng trắng được quy cho sự hấp thụ bức
7

xạ hơi thủy ngân ở 254nm bởi những ion hoạt hóa Sb
3+
và phát ra ánh sáng blue (xanh
da trời). Một phần năng lượng hấp thụ bởi Sb
3+
truyền cho những ion hoạt hóa Mn
2+

phát ra ánh sáng red-orange (đỏ - cam). Những ion Mn
2+
hầu như không hấp thụ bức xạ
của hơi thủy ngân. Sự kết hợp của các ánh sáng blue và red-orange sinh ra ánh sáng trắng
[11]. Sb
3+
có vùng bức xạ ở 480 nm và Mn
2+
có vùng bức xạ ~ 580 nm (hình 1.2).


Hình 1.1. Phổ phát huỳnh quang của calcium halophosphate A: Sb
3+
, B: Mn
2+
, C:
Halophosphate phát ánh sáng trắng [11]

Hình 1.2 Phổ huỳnh quang của bóng đèn sử dụng bột halophosphat
1.2.1.3. Ưu nhược điểm của bột halophosphate
Một trong những ưu điểm lớn nhất của bột halophosphate là nguyên liệu rẻ, dễ
chế tạo. Tuy nhiên, một hạn chế lớn của bột huỳnh quang halophosphate là không thể
đạt được đồng thời độ sáng cao và hệ số trả màu cao. Cụ thể: Nếu độ sáng cao (hiệu
8

suất phát quang khoảng 80 lm/W), hệ số trả màu (CRI) khoảng 60. Giá trị CRI có thể
được cải thiện lên đến 90 nhưng độ sáng giảm khoảng 50 lm/W [11].
Bột huỳnh quang halophosphate có hiệu suất phát quang và khả năng duy trì
huỳnh quang thấp. Nguyên nhân là do các tâm hấp thụ tạo ra từ các bức xạ tử ngoại khả
kiến, đó là các tâm phát xạ, gọi là các “tâm màu” và các khuyết tật mạng. Những tâm
màu này được hình thành khi khuyết tật trong mạng nền halophosphate bẫy 1 electron
hoặc một lỗ trống. Các tâm màu này tạo ra một sự hấp thụ của các bức xạ kích thích
trong cả vùng phổ từ tử ngoại xa đến hồng ngoại. Vì vậy những tâm màu này có thể làm
giảm hoặc biến đổi độ sáng của bột huỳnh quang do hấp thụ sự phát xạ nhình thấy của
bột huỳnh quang hoặc hấp thụ một phần bức xạ kích thích 254 nm của hơi thủy ngân
[26].
1.2.2. Bột huỳnh quang ba phổ
Bột huỳnh quang ba phổ là bột huỳnh quang được chế tạo có sự hoạt hóa của
các ion đất hiếm phát xạ ra ba màu cơ bản nhằm tạo ra ánh sáng trắng. Các nguyên tố
đất hiếm thường được sử dụng bao gồm Sc, Y, La và các nguyên tố họ lantanit. Họ

lantanit (Ln) gồm 14 nguyên tố 4f có số thứ tự từ 58 đến 71 trong bảng tuần hoàn
Menđêleep. Như vậy, các nguyên tố đất hiếm thuộc nhóm IIIB và chu kỳ 6 của bảng
tuần hoàn các nguyên tố hóa học.
Cấu hình electron của các nguyên tử nguyên tố đất hiếm có thể được biểu diễn
bằng công thức chung như sau: 1s
2
2s
2
2p
6
3s
2
3p
6
3d
10
4s
2
4p
6
4d
10
4f
n
5s
2
5p
6
5d
m

6s
2
, trong
đó: n thay đổi từ 0 ÷14, m chỉ nhận giá trị 0 hoặc 1.
Dựa vào đặc điểm sắp xếp electron trên phân lớp 4f mà các lantanit được chia
thành hai phân nhóm:
Phân nhóm nhẹ (phân nhóm xeri) gồm 7 nguyên tố, từ Ce÷Gd:
Ce Pr Nd Pm Sm Eu Gd
4f
2
4f
3
4f
4
4f
5
4f
6
4f
7
4f
7
5d
1
Phân nhóm nặng (phân nhóm tecbi) gồm 7 nguyên tố, từ Tb÷Lu:
Tb Dy Ho Er Tu Yb Lu
4f
7+2
4f
7+3

4f
7+4
4f
7+5
4f
7+6
4f
7+7
4f
7+7
5d
1
Tính chất hoá học của các ion đất hiếm có hoá trị 3 tương tự nhau vì lớp
vỏ điện tử của chúng đều có cấu hình [Xe]4f
N-1
5d
1
6s
2
. Họ Lantanit bắt đầu từ
nguyên tố La
3+
với lớp vỏ 4f hoàn toàn trống (4f
0
), tiếp đó Ce
3+
có một điện tử
9

(4f

1
), số điện tử 4f tăng dần lên theo suốt dãy cho đến Yb
3+
với 13 điện tử (4f
13
)
và hoàn toàn lấp đầy ở cấu hình 4f
14
ứng với Lu
3+
.
Những đặc tính quan trọng của các ion đất hiếm là phát xạ và hấp thụ ở dải
sóng hẹp, thời gian sống ở các trạng thái giả bền cao, các chuyển mức phát xạ ra
photon có bước sóng thích hợp trong phát quang do lớp 4f có độ định xứ cao nằm
gần lõi hạt nhân nguyên tử. Lý thuyết giải thích cho hiện tượng này được đưa ra lần
đầu tiên bởi M.Mayer và cộng sự vào năm 1941. Ông đã tính toán cấu trúc nguyên tử
của các nguyên tố thuộc nhóm Lantan. Khi xem xét bức tranh cổ điển về các nguyên
tử, thì thấy rằng hạt nhân được bao bọc bởi các lớp vỏ điện tử, các lớp này được điền
đầy một cách từ từ khi tiến dần theo chiều tăng điện tích của bảng hệ thống tuần hoàn.
Hình ảnh quang phổ của các nguyên tố đất hiếm được quan sát lần đầu tiên vào
những năm 1900 bởi J. Becquerel. Đó là quang phổ vạch của muối đất hiếm được
làm lạnh xuống nhiệt độ thấp (<100K).

Hình 1.3. Sơ đồ tách mức năng lượng của ion đất hiếm trong trường tinh thể
Trong vật liệu thủy tinh tương tác tĩnh điện giữa ion đất hiếm và mạng nền
chiếm ưu thế, do đó các mức năng lượng của ion đất hiếm bị tách theo hiệu ứng
Stark. Chính các mức năng lượng tách vạch Stark này quyết định đến vùng phổ hấp
phụ cũng như đặc tính truyền quang của các ion đất hiếm. Khi các ion đất hiếm ở
trong trường tinh thể tĩnh, sẽ có hiện tượng tách các mức năng lượng. Sự tách mức
năng lượng do nhiều nguyên nhân. Thứ nhất, tách mức do lực nguyên tử: theo vật lý

chất rắn và cơ học lượng tử, khi các nguyên tử ở gần nhau thì chúng sẽ tương tác với
nhau và dẫn tới sự tách mức. Thứ hai, tách mức do trường vật liệu nền: khi pha các
10

nguyên tố đất hiếm vào một mạng nền nào đó, có sự tương tác của trường vật liệu nền
với các ion đất hiếm, làm cho hàm sóng của các ion này bị nhiễu loạn và cũng gây ra
sự tách mức. Và thứ ba, tách mức do tương tác spin: ion đất hiếm có lớp vỏ 4f chưa
được điền đầy điện tử, dẫn tới hình thành cấu hình điện tử khác nhau với các mức năng
lượng khác nhau do tương tác spin-spin và tương tác spin-quỹ đạo. Hình 1.3 mô tả sự
tách mức năng lượng của các ion đất hiếm trong mạng nền theo các nguyên nhân khác
nhau. Hình 1.4 trình bày giản đồ chi tiết các mức năng lượng của các ion đất hiếm
trong trường tinh thể. Độ rộng các mức đặc trưng cho sự tách vạch trong trường tinh
thể của các ion này

Hình 1.4 .Giản đồ các mức năng lượng của các ion đất hiếm trong trường tinh thể [28]
11

1.2.3. Một số vật liệu huỳnh quang ba phổ
1.2.3.1. Vật liệu huỳnh quang phát ánh sáng xanh lục (La,Gd)PO
4
: Ce
3+
, Tb
3+

a. Cấu trúc mạng nền
LaPO
4
:Tb
3+

là vật liệu huỳnh quang đất hiếm ánh sáng xanh lục ứng dụng trong
các loại đèn huỳnh quang cũng như trong màn hình hiển thị phẳng, cho hiệu suất hấp
thụ cao ở vùng bức xạ cực tím và tử ngoại. Sự khác biệt của vật liệu làm mạng chủ này
được cho là sự hấp thụ nặng lượng kích thích tốt ở vùng tử ngoại.

Hình 1.5. Giản độ nhiễu xạ tia X mẫu bột La
0.95
Tb
0.05
:PO
4
[7].

Với mục đích sử dụng trong bóng đèn hơi thủy ngân, các nhà khoa học đã chọn
sự kết hợp của hai ion Ce
3+
, Tb
3+
pha tạp trong nhiều loại mạng nền khác nhau.
Một số nhà khoa học đã tính toán năng lượng liên kết của (PO
4
)
3-
từ hai nhóm
không gian 2t
2
và 2a, 3t
2
. Kết quả cho thấy năng lượng liên kết phonon nằm trong
khoảng 7-10 eV (177-124 nm). Các gốc PO

4
3-

này dễ dàng hấp thụ bức xạ và truyền
năng lượng cho các ion Tb
3+
, Ce
3+
thông qua các dao động phonon [3]. LaPO
4
có cấu
trúc monoclinic thuộc nhóm không gian 2P
1
/n với các thông số mạng a = 6,81(5)Å, b=
7,05(7)Å, c = 6,49 (5) Å, β= 103,22
o
C [3, 7].
b. Tính chất phát quang
Bộthuỳnh quang (La,Gd)PO
4
:Tb3
+
với bức xạ đặc trưng 543 nm của ion Tb
3+
tương
ứng với chuyển dời
5
D
4
-

7
F
5
. Ion Tb
3+
có phổ hấp thụ mạnh nhất là một dải trong khoảng
trên 300 nm. Đối với ion Ce
3+
, hấp thụ nhạy nhất với vùng bức xạ trong khoảng 254
nm, có mức kích thích trùng lấp với mức kích thích của ion Tb
3+
và dễ dàng truyền
năng lượng cho các ion Tb
3+
. Do đó bột huỳnh quang này được pha tạp thêm Ce
3+
với
mục đích tăng tiết diện hấp thụ của ion Tb
3+
ở dải bước sóng ngắn [2, 5, 6, 8, 9], làm
12

tăng hiệu suất phát xạ.
Hình 1.6 mô tả các tách mức và chuyển đổi năng lượng giữa Ce
3+
và Tb
3+
[28].
Từ hình này ta thấy, ở nồng độ ion Tb
3+

thấp, khoảng dưới 5% mol, phổ bức xạ mở
rộng ở vùng xanh lam bước sóng 485 nm do chuyển dời
5
D
3
-
7
F
j
. Khi nồng độ tăng lên,
có sự chuyển đổi năng lượng giữa các mức năng lượng của các ion Tb
3+
gần nhau. Bức
xạ blue gần như biến mất do chuyển đổi năng lượng từ
5
D
3
sang mức
5
D
4
. theo công
thức (*) [3]. Các công bố cho thấy ion Tb
3+
cho cường độ mạnh nhất khi nồng độ là 15
% mol do hiện tượng dập tắt huỳnh quang khi nồng độ tăng [3].
Tb
3+
(
5

D
3
) + Tb
3+
(
7
F
6
) = Tb
3+
(
5
D
4
) + Tb
3+
(
7
F
0
). (*)

Hình 1.6. Sơ đồ năng lượng Ce
3+
và Tb
3+
[28]
Một số nghiên cứu cho thấy, pha tạp thêm nguyên tố Gd
3+
cho hiệu suất phát

quang tăng lên đáng kể. Điều này được cho là do bán kính của ion Gd
3+
nhỏ hơn ion
La
3+
khiến cho mạng tinh thể co lại, các gốc (PO
4
)
-3
hấp thụ năng lượng của các bức xạ
và truyền năng lượng kích thích thông qua các dao động phonon cho ion Ce
3+
, Tb
3+
với
xác suất cao hơn. Theo lý thuyết của Förster về sự chuyển đổi năng lượng thì hiệu suất
chuyển đổi năng lượng tăng lên dẫn tới hiệu suất phát quang tăng [3,8].
1.2.3.2. Vật liệu huỳnh quang phát ánh sáng xanh dương BaMgAl
10
O
17
: Eu
3+

a. Cấu trúc mạng nền
BaMgAl
10
O
17
có một số tính chất vật lý đặc biệt như độ bền nhiệt, bền cơ học

cao, dẫn nhiệt tốt, là chất điện môi điển hình với hằng số điện môi thấp, mang lại sự
hồi phục bức xạ của các trạng thái kích thích một cách hiệu quả. BaMgAl
10
O
17
là một
trong những mạng chủ tốt để pha tap các ion đất hiếm do tính đồng hóa trị và bán kính
13

ion, cấu tinh thể tương tự. Mạng nền BaMgAl
10
O
17
có cấu trúc hexagonal -alumina
bao gồm các khối spinel (MgAl
10
O
16
) và mặt tinh thể gương (BaO) (hình 1.7) [29].

Hình 1.7. Cấu trúc tinh thể của BaMgAl
10
O
17
[29].

Hình 1.8. Cấu trúc tinh thể của BaMgAl
10
O
17

và ba vị trí có thể có của ion Eu
2+
[16].
Khi ion Eu
2+
được thay thế vào trong mạng nền , nó có thể thay thế vào 3 vị trí:
Beevers-Ross (BR), anti-Beevers-Ross (a-BR), và mid – Oxygen (mO) trong mặt
phẳng gương. Vị trí BR là vị trí thay thế Ba và hai vị trí còn lại là những hốc trong
mạng nền. Do bán kính của ion Eu
2+
là nhỏ hơn bán kính của ion Ba
2+
cho nên dẫn tới
sự thay thế của ion Eu
2+
vào vị trí của Ba
2+
sẽ làm bóp méo mạng tinh thể.
b. Tính chất phát quang
BaMgAl
10
O
17
: Eu
2+
phát ra ánh sáng màu xanh dương ở bước sóng 450nm với
nét đặc trưng là dải hấp thụ rộng từ 210 – 410 nm, và được ứng dụng rộng rãi trong
đèn huỳnh quang ba màu.
14


1.2.3.3. Vật liệu huỳnh quang phát quang ánh sáng đỏ (YGd)BO
3
: Eu
3+

a. Cấu trúc của mạng nền
Mạng nền ở đây là YBO
3
có cấu trúc hexagonal thuộc không gian P6
3
/m với
các thông số mạng là a = b = 0,3797 nm và c = 0,8835 nm [29]. Cấu trúc này có độ
bền hóa học cao do đó YBO
3
là một trong những mạng chủ tốt để pha tạp các ion đất
hiếm do tính đồng hóa trị và bán kính tương tự nhau. Chính vì vậy nó đã thu hút sự
chú ý, quan tâm của các nhà khoa học để nguyên cứu tính chất quang trong mối quan
hệ với cấu trúc tinh thể của mạng nền.
Trong (Y,Gd)BO
3
: Eu
3+
những ion Gd
3+
và Eu
3+
thay thế vào vị trí của các ion
Y
3+
do có sự tương đồng về bán kính giữa các ion này Y

3+
(0,93A
0
), Gd
3+
(0,94A
0
) và
Eu
3+
(0,95a) [5, 6, 9].
b. Tính chất phát quang
(Y,Gd)BO
3
: Eu
3+
là vật liệu huỳnh quang đất hiếm phát ra ánh sáng đỏ, có hiệu
suất hấp thụ cao ở vùng cực tím và vùng tử. Tính chất phát quang này được đặc trưng
bởi sự phát quang của ion Eu
3+
. Khi kích thích bằng bước sóng tử ngoại ở bước sóng
254 nm, Gd
3+
hấp thụ mạnh ở bước sóng này chuyển từ trạng thái cơ bản
8
S
7/2
lên trạng
thái kích thích ứng với mức năng lượng cao hơn. Trạng thái kích thích này không bền
nên sẽ chuyển về trạng thái có mức năng lượng thấp hơn và phát ra bức xạ. Eu

3+
hấp
thụ mạnh bức xạ này và chuyển lên trạng thái kích thích. Khi trở về trạng thái cơ bản
phát ra các bức xạ ứng với các chuyển mức
5
D
0
-
7
F
J
( J = 1,2,3,4) (hình 1.9).

Hình 1.9.
Sự truyền năng lượng từ ion Gd
3+
đến ion Eu
3+
[14]
15

Hinh 1.10 trình bày phổ huỳnh quang của vật liệu (
Y,Gd)BO
3
: Eu
3+
,
phổ huỳnh
quang bao gồm một vài đỉnh có cường độ lớn nằm trong vùng 590-630 nm với đỉnh
phát xạ cao nhất ở bước sóng 593 nm. Các đỉnh phát quang ở bước sóng 593, 612 (và

627) nm được xác định là tương ứng với chuyển mức
5
D
0
-
7
F
1

5
D
0
-
7
F
2
. Phổ này
chỉ ra sự những chi tiết khác với vật liệu Y
2
O
3
: Eu
3+
- chỉ có một đỉnh đặc trưng ứng
với chuyển mức
5
D
0
-
7

F
2
(hình 1.12) Sự khác nhau này dường như do tính đối xứng
của ion Eu
3+
gây ra [31, 32, 33].


Hình 1.10. Phổ huỳnh quang của (Y,Gd)BO
3
:
Eu
3+
(

ex
=254nm) [31]

Hình 1.11. Phổ huỳnh quang của
(Y,Gd)BO
3
: Eu
3+
(

ex
= 325 nm) [13]

1.3. Các phương pháp tổng hợp bột huỳnh quang
1.3.1. Kỹ thuật gốm cổ truyền

Theo kỹ thuật gốm cổ truyền thì các ôxít phức hợp được điều chế bằng cách
trộn các ôxít, các muối cacbonnat, axetat và các muối khác, sau đó thực hiện nhiều lần
quá trình ép-nung-nghiền đến khi sản phẩm đạt độ đồng nhất và độ tinh khiết mong
muốn. Phản ứng pha rắn xảy ra khi nung hỗn hợp bột các ôxít đã ép ở nhiệt độ cao
(nhiệt độ bằng khoảng 2/3 nhiệt độ nóng chảy).
Ở nhiệt độ này các chất vẫn ở trạng thái rắn do vậy tốc độ phản ứng rất chậm do
tốc độ khuếch tán trong pha rắn rất nhỏ. Khi hai hạt tiếp xúc với nhau, ban đầu phản
ứng xảy ra nhanh, sau đó do bề mặt lớp sản phẩm tăng làm cho quãng đường khuếch
tán tăng do vậy tốc độ phản ứng ngày càng chậm đi. Chẳng hạn nếu một hạt có kích
thước là 10 μm thì các ion muốn khuếch tán phải vượt qua quãng đường lớn gấp
10.000 lần kích thước của ô mạng cơ sở.
Muốn tăng tốc độ phản ứng ta cần phải tăng nhiệt độ khuếch tán và nghiền sau
mỗi lần nung để giảm quãng đường khuếch tán. Nhưng quá trình nghiền lại làm bẩn
16

sản phẩm [22].
Ưu điểm của kỹ thuật gốm cổ truyền là đơn giản, nhưng phương pháp này có rất
nhiều nhược điểm như: sản phẩm thu được có độ đồng nhất và độ tinh khiết hóa học
không cao, dải phân bố kích thước hạt rộng, kích thước hạt lớn và tiêu tốn nhiều năng
lượng [20].
1.3.2. Phương pháp sol-gel
Trong những năm gần đây, phương pháp sol-gel được nghiên cứu nhiều và
ứng dụng rộng rãi trong việc tổng hợp vật liệu. Nhiều công trình nghiên cứu đã
được công bố trên các tạp chí, trong các hội nghị quốc gia, quốc tế. Công nghệ sol-
gel đã được áp dụng để chế tạo nhiều loại vật liệu có cấu trúc và hình dạng khác nhau
như: bột, sợi, khối, màng, và vật liệu có cấu trúc nanô.
Những vật liệu chế tạo từ phương pháp sol-gel có thể ứng dụng trên nhiều lĩnh
vực khác nhau như: Vật liệu quang, vật liệu bảo vệ, lớp phủ điện tử, vật liệu siêu dẫn
nhiệt độ cao và các chất xúc tác …[1,19].
Sol-gel có thể đi theo các con đường khác nhau như thủy phân các muối, thủy phân

các Alkoxide hay bằng con đường tạo phức. Sol-gel là quá trình phức tạp và có rất nhiều
biến thể khác nhau phụ thuộc vào các loại vật liệu và các mục đích chế tạo cụ thể. Trong
luận văn này tôi đi theo con đường tạo phức.
Phương pháp sol-gel theo con đường tạo phức lần đần tiên được biết đến vào năm
1967 qua bằng sáng chế của M.P. Pecchini [21] với việc sử dụng citric acid làm tác
nhân tạo sol. Tuy nhiên sau đó bài báo này bị lãng quên một thời gian dài. Năm 1987
khi nghiên cứu về vật liệu siêu dẫn, Bednorg và Müller cần tổng hợp ra vật liệu đơn pha
có độ tinh khiết hóa học cao. Hai tác giả này nhận thấy với phương pháp sol-gel alkoxide
của Cu rất khó điều chế và dễ bị thủy phân. Bởi vậy hai ông đã quan tâm đến bái báo của
Pecchini. Ngày nay, phương pháp sol-gel citrat được quan tâm nghiên cứu nhiều nước
trên thế giới như Trung Quốc, Tây Ban Nha và Braxin…[21].
Trong phương pháp pieechini cải tiến quá trình tạo phức của axit citric với kim
loại còn được gọi là quá trình chelate hóa. Trong phản ứng chelate các gốc cacboxyl sẽ
tạo liên kết với các ion kim loại như trên hình 1.13, tạo tiền đề cho việc hình thành hạt
kích thước nhỏ khi phân tử citric bị loại bỏ bởi quá trình nung nhiệt. Do vậy, khi hòa
tan các ion kim loại với dung dịch axit citric cần khuấy trong một thời gian nhất định.
Gốc OH
-
và các gốc cacboxyl móc nối các phân tử với nhau tạo thành chuỗi polymer.
Còn trong phương pháp pieechini EG tham gia vào quá trình tạo liên kết polymer. Độ
17

pH ảnh hưởng đến độ phân ly của các gốc OH
-
. Nếu môi trường bazơ : Gốc OH
-
ít

bị
phân ly do vậy phản ứng ngưng tụ xảy ra nhanh. Các chuỗi polyme tạo thành các đám

nhỏ tạo tiền đề cho kích thước hạt bé. Nếu môi trường axit, các gốc OH
-
bị phân ly
mạnh phản ứng ngưng tụ xảy ra chậm, tạo tiền đề cho các chuỗi polyme tạo thành các
đám lớn và là tiền đề cho hạt kích thước lớn.
Quá trình sol- gel theo con đường tạo phức phụ thuộc vào ba yếu tố chính:
+ Nồng độ tuyệt đối của các ion kim loại
+ Độ pH của dung dịch (Điều chỉnh pH bằng dung dịch NH
3
)
+ Tỷ lệ Axit citric /Tổng số mol kim loại.
Nói chung cấu tạo và cơ chế hình thành sol, gel từ các phức cacboxylat kim loại
chưa được hiểu biết đầy đủ và cần được nghiên cứu thêm.
Vì một số ưu điểm sau của phương pháp sol-gel mà nó được lựa chọn để chế tạo
vật liệu phát quang có pha tạp đất hiếm trong khuôn khổ luận văn này:
1. Không đòi hỏi chân không hoặc nhiệt độ cao (có thể tiến hành ở nhiệt độ phòng thí
nghiệm), do đó tiết kiệm năng lượng, giảm thiểu được quá trình mất mát do bay hơi, ít ô
nhiễm môi trường.
2. Quá trình chế tạo bằng phương pháp sol-gel cho phép hoà trộn một cách đồng đều
nhiều thành phần với nhau.
3. Cho phép chế tạo các vật liệu lai hoá giữa vô cơ và hữu cơ
4. Dễ pha tạp.
5. Có thể chế tạo được các vật liệu có hình dạng khác nhau như bột, khối, màng, sợi
và vật liệu có cấu trúc nanô.
6. Có thể điều khiển được độ xốp và độ bền cơ học thông qua việc xử lý nhiệt.
7. Chế tạo được những vật liệu với độ tinh khiết cao.
8. Hoá chất sử dụng thường là không độc.
9. Phù hợp với yêu cầu chế tạo các loại vật liệu bột có kích thước micro và nano.
Tuy nhiên, phương pháp sol-gel cũng có một số nhược điểm sau:
1. Hoá chất ban đầu thường nhạy cảm với hơi ẩm.

2. Khó điều khiển quá trình phản ứng, khó tạo sự lặp lại các điều kiện của quy trình.
3. Xảy ra quá trình kết đám và tăng kích thước hạt ở nhiệt độ cao khi ủ nhiệt
1.3.3. Phương pháp đồng kết tủa
Phương pháp đồng kết tủa là phương pháp chế tạo vật liệu dạng ôxít phức hợp
được bằng cách kết tủa từ dung dich muối chứa các cation kim loại dưới dạng
18

hydroxit, cacbonat, oxalat, citrate…. Mẫu sau khi chế tạo được rửa, sấy khô, nung và
nghiền tùy mục đích sử dụng. Ưu điểm của phương pháp này là dễ làm, tạo ra vật liệu
có kích thước đồng đều, không bị lẫn tạp chất từ môi trường ngoài. Phương pháp này
cho phép khuếch tán các chất tham gia phản ứng khá tốt, tăng đáng kể diện tích bề mặt
tiếp xúc của các chất phản ứng. Nhưng với phương pháp này gặp khó khăn là phải đảm
bảo tỉ lệ hợp thức của các chất trong hỗn hợp kết tủa đúng với sản phẩm mong muốn.
Phản ứng tạo kết tủa phụ thuộc vào tích số tan, khả năng tạo phức giữa ion kim
loại và ion tạo kết tủa, lực ion, độ pH của dung dịch… Tính đồng nhất hóa học của ôxít
phức hợp tùy thuộc vào tính đồng nhất của kết tủa từ dung dịch. Việc chọn điều kiện để
các ion kim loại cùng kết tủa là một công việc rất khó khăn và phức tạp. Vì vậy người ta
dùng biện pháp tối ưu để kết tủa hoàn toàn như thay thế một phần nước bằng dung môi
hữu cơ, làm lạnh sâu để tách nước ra khỏi hệ… Trong phương pháp đồng kết tủa, nếu
khống chế tốt các điều kiện tạo kết tủa thì có thể giảm quãng đường khuếch tán khi xảy
ra phản ứng pha rắn.
Trường hợp phương pháp đồng kết tủa, các chất muốn khuếch tán sang nhau
chỉ cần vượt qua quãng đường từ 10 đến 50 lần kích thước ở mạng cơ sở. Vì vậy sản
phẩm thu được trong phương pháp đồng kết tủa có tính đồng nhất cao hơn, bề mặt
riêng lớn hơn, độ tinh khiết hóa học cao hơn và tiết kiệm được nhiều năng lượng.












19

Chương 2
CÁC KỸ THUẬT THỰC NGHIỆM
2.1. Thực nghiệm chế tạo bột huỳnh quang Sr
6
P
5
BO
20
:Eu và Y
2
O
3
:Eu bằng phương
pháp đồng kết tủa
2.1.1. Chế tạo bột huỳnh quang Sr
6
P
5
BO
20
:Eu
2.1.1.1. Các hóa chất sử dụng

Chất làm mạng nền: Strotium nitorat Sr(NO
3
)
2
, axit Boric H
3
BO
3
, Muối Amoni
hidro photphat (NH
4
)
2
HPO
4
.
Chất pha tạp: Europium oxit Eu
2
O
3
.
Chất xúc tác: axit nitric (65%), amoni hidroxit NH
4
OH.
Dung môi: Nước khử ion
Dụng cụ và thiết bị:

máy khuấy từ có gia nhiệt, cân 4 số, cốc đựng mẫu, pipet,
dụng cụ bảo hộ…máy ủ, sấy…
2.1.1.2. Định lượng hóa chất

Cố định lượng mẫu Sr
6
P
5
BO
20
với số mol là 0.01
Tên hóa chất Nguyên tử khối Số mol Khối lượng(g)
Sr(NO
3
)
2
212 0.06 12.72
H
3
BO
3
62 0.01 0.62
(NH
4
)
2
HPO
4
132 0.05 6.6
Pha tạp 0% Eu
Eu
2
O
3

352 0 0
Pha tạp 1% Eu
Eu
2
O
4
352 0.00035 0.1232
Pha tạp 1.5% Eu
Eu
2
O
5
352 0.00052 0.1830
Pha tạp 2% Eu
Eu
2
O
6
352 0.00071 0.2499
20

Pha tạp 3% Eu
2
O
3

Eu
2
O
7

352 0.00105 0.3696
Pha tạp 4% Eu
Eu
2
O
8
352 0.0014 0.4928
Pha tạp 5% Eu
Eu
2
O
9
352 0.00175 0.6160
Pha tạp 9% Eu
Eu
2
O
8
352 0.00315 1.112
Pha tạp 15% Eu
Eu
2
O
9
352 0.00525 1.848
Bảng 2.1. Bảng định lượng các chất sử dụng chế tạo mẫu.
2.1.1.3. Quy trình chế tạo bột Sr
6
P
5

BO
20
:Eu
2+
.
Trong thực nghiệm này, bột huỳnh quang Sr
6
P
5
BO
20
:Eu
2+
theo tỉ lệ đã định trên
được tổng hợp bằng phương pháp đồng kết tủa tại phòng thí nghiệm viện AIST đặt tại
Nhà máy Bóng đèn Phích nước Rạng Đông ( Thanh Xuân- Hà Nội). Quy trình chế tạo
được tiến hành theo sơ đồ biểu diễn hình 2.1.
Trước hết Oxit Eu
2
O
3
và muối Sr(NO
3
)
2
được hòa tan vào axit HNO
3
65% với
100ml H
2

O ( nước tách ion) và khuấy đều bằng máy khuấy từ trong thời gian 30 phút
thu được dung dịch trong suốt A. Song song với quá trình này là ta cho muối
(NH
4
)
2
HPO
4
và axit Boric (H
3
BO
3
) vào cốc thứ 2 với 100ml H
2
O, khuấy đều trong thời
gian 30 phút được dung dịch trong suốt B.
Sau đó rót từ từ dung dịch A vào dung dịch B và tiếp tục khuấy trong thời gian
30 đến 45 phút để có được dung dịch đồng nhất C trong suốt. Tiếp theo nhỏ từ từ dung
dịch NH
4
OH vào dung dịch C đồng thời kiểm tra độ PH của dung dịch, khống chế để
PH dung dịch bằng 8 để được kết tủa tối ưu nhất ta có dung dịch màu trắng đục. Như
vậy trong dung dịch lúc này đã xuất hiện kết tủa, tiếp tục khuấy trong thời gian 20 đến
30 phút để tạo sự đồng đều trong dung dịch. Sau đó mang lọc kết tủa bằng giấy lọc
chuyên dụng (vì điều kiện phòng thí nghiệm chưa có máy quay li tâm) ta tách được kết
tủa khỏi dung dịch. Tiến hành rửa lại kết tủa bằng nước khử ion từ 2 đến 3 lần, lọc lại
21

kết tủa ta thu được mẫu bột trắng ướt.
Bột ướt mang vào lò sấy khô ở nhiệt độ 100

0
C trong thời gian 4 giờ ta thu được
bột khô. Sau đó mang thiêu kết ở nhiệt độ từ 600 đến 1300
0
C trong thời gian 3 giờ
được bột Sr
6
P
5
BO
20
: Eu
3+

Hình 2.1. Sơ đồ chế tạo bột huỳnh quang Sr
6
P
5
BO
20
pha tạp Eu
2.1.2. Chế tạo bột huỳnh quang Y
2
O
3
:Eu
2.1.2.1. Hóa chất ban đầu
Chất làm mạng nền: Y
2
O

3

Chất pha tạp: Europium oxit Eu
2
O
3
.
Chất xúc tác: Axit nitric (65%), Amoni hidroxit NH
4
OH.
Dung môi: Nước khử ion
Dụng cụ và thiết bị:

máy khuấy từ có gia nhiệt, cân 4 số, cốc đựng mẫu, pipet, dụng
cụ bảo hộ…máy ủ, sấy…
2.1.2.2. Quy trình chế tạo
Quy trình chế tạo bột huỳnh quang Y
2
O
3
pha tạp Eu theo phương pháp đồng kết tủa
tương tự như quy trình chế tạo Sr
6
P
5
BO
20
pha tạp Eu được trình bày trên hình 2.2.
22



Hình 2.1. Sơ đồ chế tạo bột huỳnh quang Y
2
O
3
pha tạp Eu

2.2. Các phép đo nghiên cứu cấu trúc hình thái
2.2.1. Hiển vi điện tử quét (SEM- Scanning Electron Microscope)
Hiện nay, kính hiển vi điện tử quét đang được sử dụng rộng rãi trong việc nghiên
cứu ảnh vi hình thái bề mặt mẫu. Tuỳ thuộc vào chất lượng thiết bị, có thể ghi ảnh với phân
giải tới vài nanô mét.
Nguyên lý hoạt động: một chùm tia điện tử đi qua các thấu kính điện từ hội tụ tại
một diện tích rất nhỏ chiếu lên bề mặt mẫu nghiên cứu làm phát ra điện tử thứ cấp. Người
ta bố trí detector để thu tín hiệu điện tử thứ cấp từ mẫu phát ra khi điện tử chiếu vào, quét
trên bề mặt mẫu và dùng tín hiệu này khuếch đại lên để điều khiển cường độ sáng của tia
điện tử quét trên màn hình quan sát, từ đó quan sát được bề mặt mẫu (hình 2.1).

23

Các mẫu bột huỳnh quang được đo trên hệ kính hiển vi điện tử quét độ phân giải
cao (FESEM, S4800-Hitachi) có ở Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương Hà Nội.

Hình 2.1. Sơ đồ khối của kính hiển vi điện tử quét
2.2.2. Phép đo phổ nhiễu xạ tia X
Nguyên tắc của phương pháp nhiễu xạ tia X để xác định, nhận dạng pha tinh thể
được thiết lập và dựa trên điều kiện phản xạ Bragg:

nλsinθ2d
(hkl)



với n = 1, 2, 3, là bậc nhiễu xạ. Phương trình này gồm ba thông số: d
(hkl)
, , và , mà
thông số đầu tiên (d
(hkl)
) được xác định bởi bản chất của tinh thể. Để thực hiện các
điều kiện nhiễu xạ trên một họ các mặt phẳng (hkl), khi  cố định,  thay đổi, ta có
phương pháp bột và phương pháp tinh thể quay.
Trong điều kiện thực nghiệm của đề tài, chúng tôi dùng phương pháp dựa trên
nguyên tắc nhiễu xạ dạng bột (đa tinh thể) để xác định pha tinh thể của các mẫu bột
huỳnh quang. Các mẫu bột gá lên cái đựng mẫu, bề mặt khối bột trên gá được làm
phẳng mịn đều. Một nguồn tia X đơn sắc được chiếu vào mẫu, gá đựng mẫu được quay
liên tục (0, 2) trên thiết bị X-ray Diffractometer hãng Siemen, model D5005 (Đức),
có tại Trung tâm Khoa học Vật liệu, khoa Vật lý, trường Đại học Khoa học Tự Nhiên,
Đại học Quốc gia Hà nội. Thiết bị này có đối âm cực bằng đồng (bước sóng của vạch

×