Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tham luận tại Hội thảo “Phát triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay thực trạng và giải pháp” - CIEM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.62 KB, 16 trang )

Phát triển các loại hình doanh nghiệp
trong nền kinh tế nhiều thành phần
TS. Đinh Văn Ân
Viện trởng Vin Nghiên cứu Quản lý Kinh tế TW
Tham lun ti Hi tho Phỏt trin kinh t nhiu thnh phn
Vit Nam hin nay: thc trng v gii phỏp - CIEM
Để hình thành và phát triển nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ
nghĩa, việc công nhận, bảo hộ chế độ đa sở hữu và phát triển các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, do các doanh nghiệp
luôn là những chủ thể quan trọng nhất của các nền kinh tế.
Trong những năm đổi mới vừa qua, đồng thời với việc đã hiến pháp hoá
chủ trơng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, công nhận, bảo hộ chế độ đa
sở hữu, trong đó có sở hữu t nhân, Đảng và Nhà nớc ta đã từng bớc xây dựng,
hoàn thiện thể chế kinh tế đối với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
khác nhau.
Doanh nghiệp nhà nớc
Cho đến những năm gần đây, DNNN vẫn giữ một vị trí quan trọng trong
nền kinh tế nớc ta: năm 2000, DNNN đóng góp 39,5% giá trị sản lợng công
nghiệp, trên 50% kim ngạch xuất khẩu, 39,2% tổng thu ngân sách nhà nớc.
Trong thời gian qua, Nhà nớc đã thực hiện nhiều biện pháp trợ giúp DNNN
nh: miễn thuế, giảm thuế, cho vay u đãi, vay không phải thế chấp, khoanh nợ,
dãn nợ, chuyển nợ thành vốn ngân sách cấp, tham gia xuất khẩu trả nợ nhà nớc,
đợc trúng thầu hoặc đợc giao thầu nhiều công trình do Nhà nớc đầu t, để lại khấu
hao cơ bản tái đầu t, v.v Tuy vậy, những yếu kém của DNNN vẫn còn rất
nghiêm trọng. Đó là: năng lực cạnh tranh thấp kém, do chất lợng thấp, giá thành
của nhiều sản phẩm còn cao; nhiều mặt hàng cao hơn giá mặt hàng cùng loại
nhập khẩu (nh sắt thép, phân bón, xi măng, đờng); công nợ quá lớn, nợ quá hạn,
nợ khó đòi ngày càng tăng (DNNN chiếm tới 74,8% trong số nợ quá hạn của
ngân hàng thơng mại quốc doanh); quy mô quá nhỏ; công nghệ lạc hậu, v.v Có
những doanh nghiệp đáng ra phải cho phá sản vì thua lỗ kéo dài, không cách nào
cứu vãn đợc, nhng vẫn phải để tồn tại, hàng năm tiếp tục lỗ thêm.


Trớc tình hình đó, việc cải cách DNNN đã trở thành hết sức cấp bách.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, càng thấy rõ yêu cầu
này. Nhiều DNNN đang cung ứng những hàng hoá, dịch vụ chủ yếu là chi phí
đầu vào của các doanh nghiệp, thế nhng kinh doanh kém hiệu quả, giá thành cao,
1
nếu không gấp rút cải thiện kinh doanh thì rất khó khăn trong việc giảm chi phí
đầu vào, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cả nớc.
Yêu cầu của việc cải cách DNNN là điều chỉnh cơ cấu, để DNNN có cơ
cấu hợp lý, tâp trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng;
là đa dạng hoá sở hữu, chuyển từ chế độ sở hữu duy nhất là Nhà nớc sang đa sở
hữu, kể cả sở hữu t nhân; mục tiêu là sử dụng có hiệu quả lực lợng lao động và cơ
sở vật chất - kỹ thuật của DNNN, phát triển sản xuất kinh doanh.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 của BCH trung ơng Đảng (tháng 9-2001) về
DNNN đã quyết định đến năm 2005, hoàn thành cơ bản việc sắp xếp, điều chỉnh
cơ cấu DNNN hiện có (khoảng 5.175 doanh nghiệp vào cuối năm 2002), bằng
các hình thức: cổ phần hoá; chuyển một số DNNN hoặc doanh nghiệp trực thuộc
các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội sang loại hình công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên (còn gọi là công ty hoá); sáp nhập, giải thể, phá sản;
giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê. Tuy vậy, theo lộ trình đã đợc duyệt, đến
năm 2005, số DNNN còn lại vẫn vào khoảng 2934 doanh nghiệp, trong đó bao
gồm số DNNN mà Nhà nớc giữ 100% vốn (1929 doanh nghiệp), doanh nghiệp cổ
phần hoá mà Nhà nớc giữ cổ phần chi phối, doanh nghiệp hợp nhất hoặc chuyển
cơ quan quản lý và DNNN đợc khoán kinh doanh. Phải chăng số DNNN còn lại
quá nhiều, việc cải cách DNNN cha thật đúng với yêu cầu ?
Để nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN hiện có, đồng thời phát
triển thêm doanh nghiệp mà Nhà nớc đầu t 100% vốn hoặc có cổ phần chi phối ở
một số ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, đã có nhiều cố gắng tìm
tòi, thử nghiệm để tìm ra nội dung và phơng pháp tổ chức quản lý và điều hành
DNNN (các tổng công ty 90, 91). Tuy vậy, DNNN vẫn cha thực sự tự chịu trách
nhiệm về sản xuất, kinh doanh (quyền hạn, trách nhiệm của giám đốc, tổng giám

đốc, mối quan hệ giữa hội đồng quản trị với giám đốc, tổng giám đốc cha đợc
quy định rõ ràng); còn nhiều ràng buộc từ các cơ quan chủ quản (UBND địa ph-
ơng, Tổng công ty, Bộ), chủ yếu là phơng án đầu t, sắp xếp nhân sự; cơ chế quản
lý vốn nhà nớc trong doanh nghiệp cha rõ ràng, v.v Cũng đang có quá nhiều
đầu mối quản lý DNNN, dẫn đến không thống nhất, khó khăn cho DNNN.
Việc thí điểm mô hình công ty mẹ - công ty con (từ tháng 1-2003) đợc
nhiều tổng công ty nhanh chóng hoan nghênh và đăng ký thực hiện (mặc dù gọi
là thí điểm, dự kiến ban đầu khoảng 10 đơn vị, nhng đã chọn cho 36 đơn vị thực
hiện). Nguyên nhân chủ yếu là cấp tổng công ty (công ty mẹ) vẫn giữ đợc quyền
chi phối đối với công ty con về nhiều mặt, không khác lắm so với quyền của tổng
công ty trớc kia đối với doanh nghiệp thành viên; đồng thời lại đợc bổ sung thêm
vốn.
Việc chuyển DNNN, doanh nghiệp của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị
- xã hội thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoạt động theo Luật
Doanh nghiệp (gọi tắt là công ty hoá) không đạt kết quả nh mong muốn do các
2
doanh nghiệp loại này còn đang đợc hởng nhiều chính sách u đãi, lại cha có hành
lang pháp lý rõ ràng để chuyển đổi.
Từ khi có chủ trơng thí điểm cổ phần hoá (năm 1992) rồi mở rộng (năm
1998), đến giữa năm 2002, mới có 828 doanh nghiệp và bộ phận DNNN đợc cổ
phần hoá, chiếm khoảng 3% tổng số vốn của DNNN. Đáng chú ý là năm 2001 số
doanh nghiệp cổ phần hoá lên tới 250, gấp hơn hai lần so với năm 2000, nhng
đến năm 2002, bị chững lại, chỉ đợc khoảng 150 doanh nghiệp, chủ yếu là do
luồng ý kiến chống lại cổ phần hoá đợc lan truyền ở nhiều địa phơng, gây ra tình
trạng hoang mang, dè dặt, nghe ngóng, không mạnh dạn đẩy mạnh cổ phần hoá
vì sợ bị phê phán là "chệch hớng xã hội chủ nghĩa" và nhiều nguyên nhân chủ
quan, khách quan khác.
Theo lộ trình đã đợc phê duyệt của 104 đề án (tháng 10 năm 2003), đến
năm 2005, số DNNN sẽ đợc cổ phần hoá là 2043 (chiếm 44% số DNNN, nhng
cũng chỉ có 18% số vốn nhà nớc đợc cổ phần hoá (có nghĩa là những DNNN đợc

cổ phần hoá có quy mô vốn quá nhỏ); đồng thời số doanh nghiệp còn do Nhà nớc
giữ cổ phần chi phối vẫn chiếm tới 1038 doanh nghiệp.
Việc giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê nhằm đa dạng hoá sở hữu,
khơi dậy động lực và giải quyết các khó khăn của doanh nghiệp quy mô nhỏ,
tránh đợc việc giải thể, phá sản doanh nghiệp, khắc phục đợc tình trạng ngời lao
động thiếu việc làm, giảm đợc bao cấp, bù lỗ của Nhà nớc. Tuy vậy, cho đến năm
2000, mới có khoảng 130 DNNN và theo lộ trình từ năm 2002 đến năm 2005,
cũng chỉ có 209 doanh nghiệp chiếm 2,9% tổng số DNNN đợc chuyển đổi theo
một trong những phơng thức nói trên. Đang còn quá nhiều quy định cứng nhắc
làm cho giải pháp này thực sự khó thực hiện.
Đối với doanh nghiệp công ích, do chỗ cha xác định rõ tiêu chí sản phẩm,
dịch vụ và DNNN hoạt động công ích, đã dẫn đến tình trạng mở rộng quá đáng
danh mục (có tới 30 nhóm sản phẩm dịch vụ thuộc loại sản phẩm, dịch vụ công
ích), đợc hởng nhiều chính sách u đãi, số DNNN làm nhiệm vụ công ích đã phát
triển tràn lan, từ 617 doanh nghiệp vào năm 1999 thì năm 2000 đã lên đến 732
doanh nghiệp, chiếm 12,8% tổng số DNNN, trong đó có những ngành nghề kinh
doanh đáng lẽ không thuộc công ích, nh xuất bản sách, truyền hình, v.v Hơn
nữa, lại không phân biệt việc cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích với xếp
loại doanh nghiệp làm nhiệm vụ công ích. Việc thành lập mới hoặc chuyển
DNNN, đơn vị sự nghiệp thành doanh nghiệp công ích tơng đối dễ dàng, DNNN
hoạt động công ích đợc bao cấp khá nhiều so với DNNN hoạt động kinh doanh
(nh đợc u đãi về tài chính; lại không phải lo việc tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ); có
nhiều DNNN đợc xếp một cách không hợp lý vào công ích để hởng u đãi. Do đó,
Luật DNNN năm 2003 đã xoá bỏ khái niệm doanh nghiệp công ích để chuyển
sang áp dụng chế độ đặt hàng, gọi thầu dịch vụ công ích.
Về phá sản doanh nghiệp, sau 9 năm từ khi có Luật Phá sản đến năm 2003,
Toà án nhân dân tối cao mới thụ lý 151 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản, nhng toà
3
án các cấp chỉ tuyên bố phá sản cho 46 doanh nghiệp. Trong thực tế, số DNNN
làm ăn kém hiệu quả, nợ nần tồn đọng, mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, rơi

vào tình trạng phá sản nhiều hơn rất nhiều. Nguyên nhân là do nhiều quy định
trong Luật không phù hợp. Theo Luật, chỉ có ba chủ thể có quyền yêu cầu phá
sản là giám đốc, chủ nợ và ngời lao động; đáng lẽ cần có thêm cơ quan quyết
định thành lập, nhng cơ quan này thờng tìm cách lẩn tránh cho doanh nghiệp
khỏi bị phá sản! Thủ tục phá sản quá phức tạp, nhiêu khê. Công việc kéo dài còn
do khó xác định công nợ và định giá tài sản. Doanh nghiệp đã nợ nần chồng chất,
nay muốn tuyên bố phá sản lại phải thuê kiểm toán, doanh nghiệp càng không có
tiền, ngân sách phải bỏ tiền ra, do vậy doanh nghiệp vẫn cứ phải sống.
Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng nói trên là do cha giải quyết đợc
thông suốt những vấn đề sau đây:
- Trớc hết là quan niệm về sự cần thiết của DNNN. Không ai có thể phủ
nhận vai trò và vị trí của DNNN trong nền kinh tế quốc dân. DNNN rất cần thiết
trong những ngành nghề then chốt, có tầm quan trọng cơ bản, chủ yếu là kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội nh đờng sá, bến cảng, đờng sắt, hàng không, v.v Song ở
nớc ta hiện nay vẫn còn quan niệm muốn duy trì DNNN trong tất cả các ngành,
với ý đồ bảo đảm sự chủ đạo của kinh tế nhà nớc, giữ vững định hớng xã hội chủ
nghĩa. những ngời theo quan điểm này không thấy rằng nếu cứ duy trì DNNN
không hiệu quả thì càng phải bù đắp cho sự kinh doanh thua lỗ của DNNN, ảnh
hởng xấu đến toàn bộ nền kinh tế.
Mặt khác, cũng có quan niệm cho rằng những yếu kém của DNNN là do
thể chế kinh tế hiện hành không tạo điều kiện cho DNNN tự chủ trong hoạt động
sản xuất kinh doanh. Điều này có phần đúng, nhng tạo tự chủ cho DNNN tức là
đa DNNN ra thị trờng, bình đẳng với doanh nghiệp dân doanh trong cuộc cạnh
tranh về nâng cao chất lợng và hiệu quả kinh doanh, thực chất là công ty hoá
DNNN kinh doanh, áp dụng thể chế quản lý nh đối với doanh nghiệp t nhân; do
vậy, điều này rất khó đợc chấp nhận với t duy cũ.
Nghiêm trọng hơn nữa là có quan niệm cần thiết duy trì DNNN trong tất
cả các ngành kinh tế, bởi vì nếu không nh thế, doanh nghiệp dân doanh sẽ chiếm
u thế, sẽ không thể giữ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nớc, không có công cụ
kinh tế đủ mạnh để có thể điều tiết đợc nền kinh tế, không thực hiện đợc chủ tr-

ơng xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Nh vậy cũng tức là chệch định hớng xã hội chủ nghĩa. Cần thấy rằng vai trò
chủ đạo của kinh tế nhà nớc là do toàn bộ hệ thống các ngành, lĩnh vực thuộc
kinh tế nhà nớc, chứ không riêng doanh nghiệp nhà nớc; đồng thời cũng không
thể quan niệm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nớc tách rời hệ thống chính trị; khi
đã xây dựng đợc hệ thống chính trị vững mạnh thì mọi thành phần kinh tế đều là
công cụ của Nhà nớc. Khi kinh tế nhà nớc nắm những ngành và lĩnh vực quyết
định của nền kinh tế, mà kinh tế dân doanh có một tỷ trọng lớn, thì phải coi đây
là điều đáng mừng, vì chúng ta đã phát huy đợc tốt mọi tiềm năng của kinh tế
dân doanh, động viên đợc sức mạnh của cả dân tộc vào mặt trận kinh tế.
4
- Việc cải cách DNNN chậm chạp có một nguyên nhân quan trọng khác là
Nhà nớc vẫn duy trì những chính sách u ái đối với DNNN. Không DNNN nào lại
từ chối những ân huệ đó; và khi số vốn có hạn, tình trạng xin - cho vốn bổ sung
là không tránh khỏi, ngời có quyền ban phát lại càng muốn duy trì cơ chế đó để
tiếp tục ban phát, trục lợi bất chính cho cơ quan hoặc cá nhân mình. Có thể thấy
rõ: không mấy ai hăng hái sắp xếp lại DNNN: bộ chủ quản cũng nh UBND chủ
quản đều muốn giữ "cơ sở thuộc Nhà nớc" ở ngành hoặc địa phơng mình, không
muốn mất "sân sau" của mình; giám đốc DNNN không muốn mất quyền tự tung
tự tác nh trớc; ngời lao động thì cha biết rõ tơng lai doanh nghiệp sẽ ra sao, vì vẫn
những bộ mặt cũ tiếp tục giữ vị trí lãnh đạo doanh nghiệp; còn ngân hàng thì sợ
mất vốn, v.v
- Đáng chú ý là trong thời gian thực hiện cải cách các DNNN hiện có, thì
đồng thời cũng diễn ra tình hình thành lập mới DNNN một cách không hợp lý,
không đúng với chủ trơng của Đảng và Nhà nớc(theo thống kê sơ bộ, từ 1998 đến
2001, đã có 290 DNNN thành lập mới, với số vốn Nhà nớc cấp là 6.123 tỉ đồng,
trong đó, số DNNN mới thành lập thuộc các bộ, tổng công ty chiếm 43,8%,
thuộc địa phơng chiếm 56,2%; số có vốn nhà nớc dới 5 tỉ đồng chiếm tới 52%, số
có vốn dới 1 tỉ đồng chiếm 10,8%, thậm chí có doanh nghiệp chỉ có 300 - 400
triệu đồng vốn). Những doanh nghiệp mới thành lập này không hội đủ các điều

kiện quy định nh về vốn, cán bộ quản lý, công nghệ, lại thuộc nhiều ngành nghề
không nằm trong lĩnh vực và ngành quan trọng, thiết yếu mà Nhà nớc cần nắm
giữ 100% vốn đáng ra nên để doanh nghiệp dân doanh đầu t, nh kinh doanh du
lịch, khách sạn, xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng, dịch vụ vui chơi giải trí,
công ty chợ, v.v (tính riêng các DNNN mới thành lập trong lĩnh vực du lịch, th-
ơng mại, khách sạn đã chiếm tới 15% tổng số).
- Một biện pháp khác đang đợc thực hiện để trốn tránh việc cải cách, đó là
chuyển giao một số DNNN do địa phơng hiện đang quản lý về cho tổng công ty
nhà nớc, trong đó có những DNNN quy mô nhỏ, thua lỗ kéo dài, đáng lẽ ra phải
chuyển đổi sở hữu, hoặc phải cho phá sản. Ngời ta lấy lý do là những doanh
nghiệp này tuy có khó khăn về tài chính, nhng lại có lợi thế về vị trí địa lý và
quyền sử dụng đất. Các tổng công ty đều vui vẻ tiếp nhận các doanh nghiệp đó,
vừa thoả mãn nhu cầu của địa phơng là giữ đợc DNNN, vừa có lợi cho tổng công
ty vì có thêm doanh nghiệp thành viên, quy mô thêm lớn, có thêm lý do để đòi
hỏi bổ sung thêm vốn. Thực chất là đẩy gánh nặng từ địa phơng về tổng công ty,
nhng tổng công ty vẫn vui vẻ nhận, vì cuối cùng nếu doanh nghiệp kinh doanh
không hiệu quả, mà đó là điều chắc chắn, thì tổng công ty không chịu trách
nhiệm và đã có ngân sách nhà nớc chịu.
Tóm lại, cải cách DNNN là một yêu cầu tất yếu của nền kinh tế nớc ta khi
chuyển sang nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa. DNNN đang trong
tình trạng kinh doanh kém hiệu quả, khả năng cạnh tranh rất yếu, nhng lại nắm
tài sản lớn, giữ vị trí độc quyền trong nhiều ngành và lĩnh vực đang là đầu vào
của các doanh nghiệp trong nền kinh tế; nếu không có những bớc đột phá trong
5
cải cách DNNN thì không những hạn chế việc phát huy tiềm năng của DNNN mà
còn hạn chế khả năng phát triển của cả nền kinh tế.
Thực tiễn chỉ rõ: không thể giải phóng và phát triển lực lợng sản xuất nếu
còn giữ hai hệ thống thể chế, tức là hai sân chơi riêng cho DNNN và cho doanh
nghiệp dân doanh; giữ hai sân chơi đó cũng tức là hạn chế, kìm hãm sức phát
triển của kinh tế dân doanh, tiếp tục giữ thế độc quyền doanh nghiệp cho DNNN.

Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực hiện nay, không có cách nào
khác là phải xoá bỏ bao cấp, đa DNNN ra cạnh tranh lành mạnh trên thị trờng;
nếu tiếp tục giữ hai sân chơi nh vậy, cũng tức là giữ cho DNNN lâm vào tình
trạng kinh doanh kém hiệu quả, càng dễ sụp đổ khi chúng ta phải thực hiện các
cam kết quốc tế.
Để thực hiện việc cải cách DNNN một cách có hiệu quả, tránh đợc những
đổ vỡ, điều kiện tiên quyết là phải đổi mới t duy, xác định sự cần thiết của các
thành phần kinh tế, nhất là kinh tế t nhân trong nền kinh tế thị trờng định hớng xã
hội chủ nghĩa. DNNN cần thiết trong một số ngành và lĩnh vực then chốt, có tầm
quan trọng cơ bản; các DNNN trong các ngành kinh doanh nhất thiết phải nâng
cao năng lực cạnh tranh, tham gia cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh
tế khác; phải xoá bỏ sớm tình trạng lợi dụng độc quyền nhà nớc để thực hiện độc
quyền doanh nghiệp, cản trở quá trình giảm chi phí đầu vào cho các doanh
nghiệp thuộc các thành phân kinh tế.
Muốn vậy, phải tổ chức lại một cách cơ bản bộ máy giúp Chính phủ, các
bộ, chính quyền địa phơng chỉ đạo công cuộc cải cách DNNN từ trên xuống dới,
bảo đảm một bộ máy và cán bộ, công chức có đầy tâm huyết, đủ trí tuệ và năng
lực cho công việc này. Tập trung sức lành mạnh hoá tình hình tai chính DNNN,
xử lý vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp, lao động dôi d và cơ chế quản lý
doanh nghiệp trong và sau khi cổ phần hoá.
Doanh nghiệp t nhân
Nhìn lại quá trình hơn 17 năm phát triển của doanh nghiệp t nhân và kinh
tế t nhân, ta thấy có 3 điểm mốc có tính đột phá. Đột phá thứ nhất là chuyển từ
không thành có ở mức giới hạn cả về quy mô và thời gian bằng đổi mới ghi
nhận trong Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng. Sự đổi mới t duy có tính đột
phá đó đã mở đờng cho phát triển của doanh nghiệp t nhân nói riêng và kinh tế
nhiều thành phần nói chung xuất phát từ yêu cầu bức bách của đời sống xã hội
thực tế vào thời điểm đó; và có lẽ không có sự lựa chọn khác.
Mốc thay đổi có tính đột phá thứ 2 xảy ra vào năm 1990-1991 bằng việc
ban hành Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp t nhân (1990) và Chiến lợc phát

triển kinh tế xã hội 10 năm 1991-2000. Luật doanh nghiệp t nhân và Luật công ty
đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc hình thành và phát triển các doanh nghiệp t
nhân chính quy và hiện đại với các loại hình pháp lý bao gồm công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và doanh nghiệp t nhân. Ngoài ra, hộ kinh doanh
cá thể đã đợc xác định rõ hơn về địa vị pháp lý và cách thức tổ chức hoạt động.
6
Về quyền tự do và bình đẳng trong kinh doanh, Đại hội lần thứ VII của
Đảng (tháng 6 năm 1991) đã chỉ rõ: Mọi ngời đợc tự do kinh doanh theo pháp
luật, đợc bảo vệ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp." " Mọi đơn vị kinh tế,
không phân biệt quan hệ sở hữu đều hoạt động theo cơ chế tự chủ kinh doanh,
hợp tác và cạnh tranh với nhau bình đẳng trớc pháp luật"."Kinh tế t bản t nhân đ-
ợc phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành,
nghề mà pháp luật không cấm. "Nhà nớc thực hiện nhất quán chính sách kinh tế
nhiều thành phần, không phân biệt đối xử, không tớc đoạt tài sản hợp pháp,
không gò ép tập thể hoá t liệu sản xuất, không áp đặt hình thức kinh doanh,
khuyến khích các hoạt động có lợi cho quốc kế dân sinh".
Tuy nhiên, không lâu sau đó, động lực cải cách phát triển kinh tế t nhân có
biểu hiện trầm lắng trở lại. Cải cách doanh nghiệp nhà nớc hầu nh dẫm chân tại
chỗ; cổ phần hoá đợc khởi xớng từ năm 1992 hầu nh bị bỏ quên; trong khi đó,
nỗ lực đợc tập trung vào thành lập hàng trăm tổng công ty tạo ra độc quyền hành
chính, lợi ích cục bộ, hạn chế cạnh tranh.
Về chính sách và pháp luật, từ năm 1992 định hớng chính sách kinh tế hầu
nh không đề cập đến phát triển kinh tế t nhân, trừ Luật khuyến khích đầu t trong
nớc năm 1994
1
. Việc tháo bỏ các rào cản, giải quyết khó khăn tạo điều kiện
thuận lợi về gia nhập thị trờng, về thơng quyền, về mặt bằng kinh doanh, về vốn
tín dụng, về đào tạo lao động.v.v cho phát triển kinh tế t nhân hầu nh không đợc
chú ý tới trong thời kỳ này. Trái lại, các văn bản pháp luật, nhất là nghị định,
thông t và quyết định của các bộ ban hành trong thời kỳ này thờng đặt ra các giấy

phép (phần lớn các giấy phép đã đợc bãi bỏ là những giấy phép đợc tạo ra trong
thời kỳ này). Cơ chế xin-cho một cách phổ biến và nặng nề là đặc điểm nổi bật
của thời kỳ này.
Giữa năm 1997 khủng hoảng kinh tế khu vực bất ngờ xảy ra; kinh tế khu
vực bị suy giảm nghiêm trọng. Yêu cầu đẩy mạnh cải cách, gồm cả cải cách thúc
đẩy phát triển doanh nghiệp t nhân nổi lên và trở thành chơng trình nghị sự trong
các cơ quan lãnh đạo của Đảng và nhà nớc. Quyền kinh doanh xuất nhập khẩu đ-
ợc mở rộng theo Nghị định số 87/1998/NĐ-CP; theo đó, những hạn chế đối với
quyền trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp t nhân về cơ bản đ-
ợc xoá bỏ. Nghị quyết số 38/CP của Chính phủ ngày 4 tháng 5 năm 1994 về cải
cách một bớc thủ tục hành chính trong việc giải quyết công việc của công dân và
tổ chức đã xác định thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh nh một
lĩnh vực u tiên cải cách. Đến năm 1998, một số cải cách đơn giản hoá thủ tục
thành lập và đăng ký kinh doanh đã đợc thực hiện
2
. Doanh nghiệp t nhân, một
1
Luật khuyến khích đầu t trong nớc đợc thông qua một phần quan trọng do yêu cầu chính trị về tạo
bình đẳng giữa đầu t trong nớc, mà chủ yếu là đầu t của doanh nghiệp nhà nớc với đầut trực tiếp n-
ớc ngoài.
2
Thông t số 05/1998/TTLT-KH&ĐT ngày 10 tháng 7năm 1998 của Bộ Kế hoạch và Đầu t và Bộ t pháp
hớng dẫn thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp t nhân, công ty
7
khu vực còn nhiều tiềm năng cha đợc khai thác, đã đợc khuyến khích thêm một
bớc.
Điểm mốc thay đổi thứ ba bắt đầu hình thành. Đầu tiên là Nghị quyết
trung ơng 4 khoá VIII chủ trơng phát huy tối đa và sử dụng có hiệu quả nguồn
lực trong nớc; tháo gỡ khó khăn tạo thuận lợi cho kinh tế t nhân phát triển. Tiếp
đó, Hội nghị trung ơng 6 (lần 1) khoá VIII đã nhấn mạnh việc hoàn thiện môi tr-

ờng kinh doanh, hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng một hệ thống chung áp
dụng cho các chủ thể kinh doanh không phân biệt các thành phần kinh tế.
Năm 2000 Luật Doanh nghiệp ra đời và đi vào cuộc sống. Luật doanh
nghiệp về cơ bản đã thể chế và hiện thực hoá đợc quyền tự do lựa chọn loại hình
doanh nghiệp, tự do thành lập doanh nghiệp, tự do tổ chức quản lý, tự do lựa chọn
quy mô, địa bàn và ngành, nghề, trừ một số ngành, nghề bị cấm theo quy định
của pháp luật. Điểm nổi bật ở đây là các quyền tự do nói trên đợc thể chế hoá; tạo
đợc cơ chế để ngời dân thực sự đợc hởng các quyền đó và thực hiện đợc các
quyền đó.
Đổi mới t duy về thành phần kinh tế, nhất là về ý nghĩa, vai trò và vị trí của
doanh nghiệp t nhân ở nớc ta là một việc không dễ. Bởi vì, điều đó trái với ý thức
hệ và t duy truyền thống đang còn ảnh hởng nặng đến việc thiết kế, định hình xu
hớng phát triển và điều hành xã hội; nó diễn ra trong bối cảnh chấp nhận cái
này, thì cái kia không còn đúng; và kéo theo đó là sự chuyển giao quyền lực
từ nhóm ngời này sang nhóm ngời khác. Đổi mới t duy và chuyển t duy đó thành
hành động thực tế ảnh hởng đến toàn bộ, hay ít nhất một phần đáng kể cơ chế
hiện hành, một phần không nhỏ những ngời trong đó bị mất hoặc bị giảm quyền
lực và quyền lợi, có thể bị mất cả việc làm. Khó có ai tự giác làm điều đó, dù biết
rằng thay đổi là có lợi cho phát triển xã hội, cho chấn hng đất nớc. Đó chính là
nhân tố làm cho các biện pháp đổi mới, khuyến khích phát triển doanh nghiệp t
nhân luôn gặp khó khăn và lực cản.
Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định các thành phần kinh tế, gồm cả
kinh tế t nhân kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của
nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa. Tuy vậy, doanh nghiệp t nhân
không thể là quan trọng nhất; bởi vì, kinh tế nhà nớc phải là chủ đạo, và kinh tế
nhà nớc cùng với kinh tế hợp tác phải từng bớc trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân. Toàn bộ hệ thống pháp luật, chính sách và cả bộ máy nhà
nớc phải đợc xây dựng và vận hành theo định hớng chính thống nói trên.
Giới doanh nhân hiểu rằng hoạt động kinh doanh của họ là cần thiết, là
hữu ích và đợc ủng hộ chỉ trong phạm vi và quy mô cha ảnh hởng đến sự chủ

đạo của doanh nghiệp nhà nớc. Vì vậy, một bộ phận doanh nhân kinh doanh
trong tâm trạng vừa làm vừa lo; không để cho hoạt động kinh doanh của mình
đợc coi là lớn; nếu đã lớn, thì chia ra, phân tán ra để thành nhỏ; hoặc che dấu
vốn, doanh thu lợi nhuận.v.v
8
Giới hoạch định chính sách và xây dựng luật pháp phải tìm cách hỗ trợ tối
đa cho DNNN, và tiếp đến là HTX; và tìm thêm các khoá, chốt để phần nào
ngăn cản phát triển của doanh nghiệp t nhân. Vì vậy, chính sách và luật pháp th-
ờng không nhất quán; quy định mở sẽ có kèm với quy định đóng; văn bản này
mở sẽ có văn bản khác đóng. Điều này thể hiện ngay cả trong Hiến pháp năm
1992 (bổ sung, sửa đổi)
3
. Giới thực thi chính sách, luật pháp tỏ thái độ ít nhất
không a, không thích hoặc không hồ hởi, giữ khoảng cách với doanh
nghiệp của t nhân; đồng thời, tìm cách gây khó thêm cho doanh nghiệp.
Tóm lại, nhất bên trọng, nhất bên khinh nh trình bày nói trên tạo ra môi
trờng khiến ngời dân cha đó tất cả mọi ngời dù ở cơng vị nào cũng không dám
phát huy hết sức sáng tạo của mình để đạt đợc kết quả cao nhất nh mong muốn,
phục vụ tốt nhất cho phát triển xã hội. Một nền kinh tế nh vậy không thể khai
thác hết tiềm năng của nó để phát triển; hay nói cách khác nó luôn phát triển dới
mức tiềm năng. Thêm vào đó, nó còn tạo cơ hội và d địa cho một số ngời ngăn
cản sức sáng tạo, t duy và công việc của ngời khác để trục lợi cá nhân. Riêng sự
phát triển của doanh nghiệp t nhân luôn bị níu kéo, bị cản trở và hạn chế.
Do vậy, cần thay đổi t duy và quan điểm nhất bên trọng, nhất bên
khinh.Các loại hình doanh nghiệp khác nhau trong nền kinh tế có những
điểm mạnh, yếu khác nhau, bổ sung cho nhau. Thị trờng phát triển ngày
càng cao và đa dạng, thì sự luân chuyển nguồn lực, hàng hoá các loại ngày
càng hiệu quả và linh hoạt. Một doanh nghiệp hôm nay đang thuộc sở hữu
nhà nớc, thì ngày mai có thể chuyển sang sở hữu t nhân; cũng tơng tự, một
nhà máy, hầm mỏ.v.v hôm nay đang thuộc sở hữu t nhân, thì ngày mai có

thể chuyển sang sở hữu nhà nớc. Xét trên bình diện quốc gia, thì doanh
nghiệp, nhà máy hay hầm mỏ đó hoàn toàn không thay đổi; do đó, vai trò
và ý nghĩa của nó đối với phát triển kinh tế nói chung là không đổi. Tóm
lại, cần coi các doanh nghiệp có bản chất sở hữu khác nhau là bộ phận cấu
thành của toàn bộ nền kinh tế, có địa vị pháp lý và xã hội, có quyền và
nghĩa vụ ngang bằng nhau.
Mặt khác nên cân nhắc, soát xét lại việc sử dụng khái niệm thành
phần kinh tế trong hoạch định chủ trơng, chính sách và luật pháp. Đây có
thể là chuyện câu, chữ, mà cũng có thể không chỉ thế. Còn phân biệt thành
phần kinh tế dễ dẫn đến phân biệt đối xử trên quan điểm; và từ đó, phân
biệt đối xử trong chính sách, luật pháp, nhất là, trong phơng thức và tâm lý
làm việc của bộ máy nhà nớc. Các khái niệm công bằng, bình đẳng,
không phân biệt đối xử thiếu sức sống thực tế.
Hai là, mở rộng tối đa, khuyến khích và hỗ trợ quyền kinh doanh của
ngời dân. Xây dựng và áp dụng thống nhất một hệ thống luật pháp đối với
tất cả các loại hình doanh nghiệp, không phân biệt nhà nớc và t nhân,
không phân biệt trong nớc và ngoài nớc.Thực hiện công bằng và bình đẳng
3
Điều 16 và Điều 21 Hiến pháp năm 1992(Bổ sung, sửa đổi) có nội dung cha hoàn toàn thống nhất
9
về quyền kinh doanh: giảm bớt một cách đích đáng các khu vực ở đó chỉ
có doanh nghiệp nhà nớc mới đợc quyền kinh doanh; xoá bỏ các hạn chế
và tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp t nhân thực hiện đợc quyền
kinh doanh, mà lâu nay cha thực hiện đợc (ví dụ quyền liên doanh với nhà
đầu t nớc ngoài). Thực hiện công bằng và bình đẳng về quyền tài sản; xoá
bỏ các hạn chế đối với doanh nghiệp t nhân trong tiếp cận các quyền về tài
sản mà hiện chỉ doanh nghiệp nhà nớc mới có. Thực hiện công bằng và
bình đẳng về chính sách, chế độ u đãi; xem xét và bãi bỏ hết các bao cấp
hiện đang dành cho doanh nghiệp nhà nớc;(trờng hợp còn chế độ bao cấp
theo mục tiêu, thì áp dụng chung cho các doanh nghiệp không phân biệt

chế độ sở hữu).
Ba là, phải tin ở dân, ở chủ sở hữu và ngời quản lý doanh nghiệp t
nhân, ngay từ khâu xây dựng luật pháp. Nói cách khác, luật pháp phải đợc
xây dựng trên nguyên tắc bảo vệ lợi ích của nhân dân và phải dựa trên
niềm tin về tính trung thực, tự giác và sẵn sàng thực thi đúng pháp luật của
ngời dân, của ngời chủ sở hữu và quản lý doanh nghiệp, kể cả doanh
nghiệp của t nhân; luật pháp phải đợc xây dựng và thực hiện theo nguyên
tắc doanh nghiệp tuân thủ đúng luật pháp thì đợc luật pháp bảo hộ và đợc
bảo đảm quyền lợi tốt hơn, nhiều hơn so với doanh nghiệp không tuân thủ
đúng luật pháp. Trong điều kiện trình độ văn hoá và nhận thức pháp luật
của ngời dân cha cao, thì luật pháp càng phải đơn giản, rõ ràng và dễ hiểu,
dễ thực hiện. Trờng hợp có quy định pháp luật bị ngời dân bỏ qua, hoặc
lách qua, thì phải xem xét và thay đổi nó theo đúng tâm lý và thói quen
ứng xử hàng ngày của ngời dân về vấn đề đó; chứ không phải bồi đắp
thêm quy định mới ép buộc ngời dân, hoặc ngăn chặn việc lách luật của
ngời dân. Bởi vì, làm nh vậy sẽ tạo ra hệ thống pháp luật ngày càng phức
tạp, càng ít thân thiện với dân, càng xa rời cuộc sống thực tế, càng tốn
kém và ít hiệu lực.
Bốn là, thực hiện nguyên tắc Chính phủ nhỏ, xã hội lớn trong quản
lý nhà nớc; giảm bớt quyền của cơ quan và công chức nhà nớc từ trung ơng
đến địa phơng, nhất là quyền thẩm định, phê duyệt, chấp thuận,
quyền cho phép và cấp phép kinh doanh.v.v Nhà nớc, Chính phủ có vai trò
rất quan trọng; ở những nớc có nền kinh tế thị trờng tự do nhất thế giới,
ngời ta cũng đánh giá vai trò của nhà nớc là vô giá, song đó là vai trò
đúng đắn, với chức năng mới của nhà nớc là phát huy thị trờng và khắc
phục có hiệu quả khuyết tật của thị trờng. Đồng thời, phải cá thể hoá đ-
ợc trách nhiệm của công chức trong thi hành công vụ. Đối với công chức
và cơ quan nhà nớc, pháp luật phải quy định không chỉ họ đợc làm gì,
làm ở đâu, mà cả làm nh thế nào; đồng thời, phải có thể chế thờng
xuyên giám sát và đánh giá công việc của họ.

Hợp tác xã
10
Có thể nói, những nỗ lực hợp tác hoá, tập thể hoá sau năm 1975 đã
không đem lại kết quả mong muốn. Cơ chế khoán 10 về cơ bản đã thay
đổi nguyên tắc hợp tác xã theo kiểu cũ; nói đúng hơn, hợp tác xã theo
kiểu cũ bị xoá bỏ. Cùng với việc đợc giao đất với năm quyền sử dụng lâu
dài, hộ gia đình, trớc hết là hộ gia đình nông dân, đợc xác lập và thực sự
đã trở thành đơn vị kinh tế tự chủ, tách biệt về kinh tế và pháp lý khỏi hợp
tác xã truyền thống. Từ năm 1988, hộ gia đình nông dân đã tự mình quyết
định sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, sản xuất nh thế nào, bán cho ai và
tự quyết định cả giá bán. Địa vị nói trên của hộ gia đình không chỉ là kết
quả của các biện pháp đổi mới kinh tế hợp tác, chế độ quản lý đất đai, mà
cả các biện pháp cải cách vĩ mô nh về giá cả, về thị trờng.v.v Kết quả đạt
đợc thật ngoạn mục, ngoài sự mong đợi, nhất là trên lĩnh vực sản xuất lơng
thực. Kể từ thời điểm đó, vấn đề ăn từ lâu luôn là mối lo toan của cả bộ
máy nhà nớc, kể cả của các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nớc trong mấy chục
năm dới cơ chế kế hoạch hoá tập trung, đã đợc giải quyết.
Năm 1996, nhằm đổi mới hợp tác xã, Quốc hội đã ban hành Luật
hợp tác xã. Ngoài việc quy định thành lập, tổ chức quản lý, hoạt động của
HTX, Luật còn đề ra hàng loạt các u đãi dành riêng cho HTX các loại.
Luật HTX là khung pháp lý tạo điều kiện vừa để thành lập các HTX mới,
vừa để chuyển đổi HTX trớc đây sang tổ chức quản lý và hoạt động theo
mô hình HTX kiểu mới. Thời hạn chuyển đổi dự kiến kết thúc vào cuối
năm 1998; nhng cho đến nay, vẫn còn hàng nghìn hợp tác xã cha chuyển
đổi đợc.
Sau hơn 5 năm thực hiện Luật HTX, tổng số hợp tác xã trên cả n ớc
đã giảm không nhiều từ 11330 xuống còn 10311; trong đó, chỉ có gần
2700 hợp tác xã mới thành lập. Nh vậy, mỗi năm trung bình có 540 hợp tác
xã mới đợc thành lập. Tuy vậy, có sự thay đổi đáng kề về cơ cấu ngành,
nghề trong số hợp tác xã mới thành lập. Cụ thể là, HTX nông nghiệp chiếm

khoảng 31%, công nghiệp chiếm 23,6%, thuỷ sản 12,7%, giao thông vận
tải 11%, xây dựng 9%, thơng mại cha đầy 3%.
Quy mô của HTX còn rất nhỏ. Bình quân vốn hoạt động của mỗi
HTX chỉ khoảng 758 triệu đồng với số xã viên bình quân 787 xã viên; và
197 lao động làm thuê/HTX. Nh vậy, bình quân mỗi xã viên đóng góp cha
đầy 1 triệu đồng; và mỗi chỗ làm việc chỉ có gần 4 triệu đồng
4
.
HTX cũng cha thực hiện tốt chức năng dịch vụ đầu vào, đầu ra nh
mong muốn của những ngời thiết kế chính sách. Thực vậy, chính lực lợng
t thơng, buôn bán nhỏ (chứ không phải HTX) đã tiêu thụ đại bộ phận sản
phẩm cho nông dân; và cũng chính họ đã làm tốt hơn chức năng cung cấp
dịch vụ, phân bón, các loại nguyên liệu khác cho các hộ nông dân. Nói
4
Báo cáo điều tra năm 2003 của Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ơng.
11
cách khác, sự hợp tác giữa hộ xã viên và t thơng chặt chẽ và hiệu quả hơn
so với xã viên và HTX.
Thực tế phát triển kinh tế nói chung và hợp tác xã nói riêng trong
mấy năm qua chứng tỏ Luật HTX cùng các chính sách phát triển kinh tế
hợp tác cha phát huy đợc tác dụng nh mong muốn. Trong khi số lợng HTX,
nhất là HTX dịch vụ nông nghiệp giảm xuống, thì số lợng và quy mô (về
vốn, lao động) của trang trại tăng lên rất nhanh trên nhiều vùng trong cả n -
ớc. (Điều đó đã xảy ra trong khi hầu nh cha có chính sách hỗ trợ trực tiếp
cho kinh tế trang trại). Ngay cả khi thủ tục thành lập hết sức phức tạp, tốn
kém với những cản trở và đối xử bất bình đẳng trên nhiều mặt(thời kỳ
1991-1999), thì số lợng doanh nghiệp t nhân mới đợc thành lập hàng năm
gấp gần 10 lần số HTX mới thành lập. (Hiện nay số doanh nghiệp mới
thành lập gấp 30-40 lần so với số HTX; quy mô vốn bình quân của doanh
nghiệp mới thành lập lớn gấp 3-4 lần so với HTX).

HTX thực sự cha phải là con đờng xoá đói, giảm nghèo và góp phần
giải quyết các vấn đề xã hội khác. Thu nhập bình quân/ngời lao động (gồm
cả xã viên và lao động làm thuê) khoảng từ 2 - 2,8 triệu đồng /năm; chỉ
bằng khoảng 20% mức thu nhập bình quân của ngời lao động phổ thông
làm việc trong các doanh nghiệp của t nhân.
Nhiều thập kỷ trong cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp, hợp tác xã
đã bị hành chính hoá, bị coi là sân sau, là bàn tay nối dài của cấp
chính quyền; làm mất đi tính hấp dẫn, lôi cuốn của hợp tác xã đối với
xã viên nói riêng và từng ngời dân nói chung. Tâm lý xã hội khá phổ biến
coi tài sản chung là của chùa, không quan tâm xây dựng nó, phát triển
nó, mà tìm cách chiếm nó thành của riêng.
Cũng nh loại hình kinh doanh khác, hợp tác xã có những điểm lợi và bất
lợi riêng của nó. Bản chất của hợp tác xã nhấn mạnh đến sự bình đẳng của từng
xã viên không phân biệt đóng góp thực tế của họ; không chú trọng nhiều đến mối
quan hệ thuận giữa đóng góp và lợi ích đợc hởng. Vì vậy, HTX cha phải là mô
hình phù hợp khuyến khích lợi ích cá nhân, lấy lợi ích cá nhân làm động lực trực
tiếp nhất để phát triển. Hợp tác xã có thể phù hợp với các hoạt động kinh tế đã
chuẩn hoá, độ rủi ro thấp. Mức độ phát triển kinh tế hiện nay cha tạo ra nhu
cầu xã hội đủ để HTX hoạt động có hiệu quả đúng với nguyên tắc của nó.
Trong hơn 17 năm qua, hợp tác xã đã và đang chuyển đổi cùng với
sự chuyển đổi chung sang cơ chế thị trờng của cả nền kinh tế. Để định h-
ớng cho việc tiếp tục chuyển đổi, cần xem xét và tính đến một số điểm sau
đây.
Một là, cần phải làm rõ và thống nhất về vai trò và địa vị pháp lý của
hợp tác xã trong nền kinh tế. Trớc hết, hợp tác xã phải đợc khẳng định là
một trong nhiều loại hình doanh nghiệp, một trong nhiều hình thức tổ chức
kinh doanh của kinh tế thị trờng, với những đặc điểm, lợi và bất lợi của nó.
12
Theo nhận thức và thực tiễn phổ biến trên thế giới, thì hợp tác xã thuộc sở
hữu t nhân, của những xã viên; từng phần, lớn hay nhỏ của từng xã viên

đều rõ ràng. ở nớc ta, thực chất của hợp tác xã là gì, tuỳ thuộc vào quan
niệm về hợp tác xã; ở mô hình tổ chức và phơng thức hoạt động của hợp
tác xã, đặc biệt là mức độ tập thể hoá các t liệu sản xuất. Đó là vấn đề cần
làm rõ. Dẫu sao, hợp tác xã, cũng nh các loại hình doanh nghiệp khác, tồn
tại tách biệt không chỉ với các pháp nhân khác, mà còn tách biệt với các
cấp chính quyền.
Hai là, với bản chất của mình, hợp tác xã nhấn mạnh mục tiêu phục
vụ trực tiếp nhu cầu của xã viên, hỗ trợ lẫn nhau và quản lý dân chủ theo
nguyên tắc đầu phiếu, không tính đến phần đóng góp cụ thể của từng xã
viên. Nhng điều đó không có nghĩa là hợp tác xã nhất thiết là loại hình
doanh nghiệp tốt hơn loại hình doanh nghiệp khác, hay chế độ quản lý của
hợp tác xã là tiến bộ hơn so với chế độ quản lý theo tỷ lệ góp vốn.v.v Xét
về nhu cầu xây dựng và phát triển kinh tế nói chung, thì các loại hình
doanh nghiệp đều hữu ích, mỗi loại hình doanh nghiệp có vai trò và tác
dụng đích đáng của mình.
Ba là, trong xây dựng và thực thi luật pháp, chính sách về hợp tác xã
cũng phải bảo đảm sự bình đẳng, nghĩa là không dành u đãi riêng
biệt(nhiều hơn hoặc ít hơn trên tất cả các mặt:chính trị, tinh thần, kinh tế
và xã hội) cho hợp tác xã, cho xã viên và những ngời làm việc trong hợp
tác xã; đồng thời hợp tác xã cũng nh loại hình doanh nghiệp khác không bị
các cấp chính quyền công cụ hoá thành bộ phận của chính quyền và thực
hiện chức năng của cấp chính quyền. Trờng hợp có yêu cầu trợ giúp hợp
tác xã, thì đặt nó trong chơng trình trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hợp
tác xã cần đợc đối xử công bằng, bình đẳng và phải cạnh tranh để tồn tại
và phát triển trong cơ chế thị trờng. Hiệu quả và năng lực cạnh tranh vẫn là
yếu tố quyết định thành/bại của hợp tác xã.
Bốn là, trong xây dựng pháp luật về hợp tác xã, cần phải đa dạng hoá
loại hình hợp tác xã; đồng thời, áp dụng linh hoạt và có chọn lọc các
nguyên tắc cơ bản của hợp tác xã phù hợp với điều kiện cụ thể về kinh tế,
chính trị, xã hội, lịch sử của nớc ta. Cũng nh ở hầu hết các nớc khác,

không phải các nguyên tắc cơ bản của hợp tác xã đều phải đợc áp dụng
nguyên vẹn và không thay đổi. Dân chủ trong quản lý hợp tác xã không
nhất thiết phải là mỗi xã viên, một phiếu bầu không tính đến đóng góp
cổ phần của xã viên; công bằng không nhất thiết là phải có giới hạn tối
đa số vốn góp của từng xã viên và phân chia lợi ích đồng đều giữa các xã
viên mà không tính đến mức độ góp vốn và những đóng góp khác của họ.
Nh các loại hình doanh nghiệp khác, hợp tác xã không nhất thiết phải bó
hẹp trong địa bàn dân c và vùng lãnh thổ. Kinh nghiệm ở các nớc khác cho
thấy áp dụng linh hoạt các nguyên tắc của hợp tác xã làm đa đạng hoá loại
hình hợp tác xã, tạo thêm d địa và động lực cho hợp tác xã phát triển, cạnh
13
tranh đợc với các loại hình doanh nghiệp khác. Trên thực tế nguyên tắc tổ
chức, hoạt động và quản lý của không ít hợp tác xã ở nớc ta hiện nay đã có
thay đổi, tách biệt nhất định với nguyên tắc truyền thống của hợp tác xã,
và đạt kết quả tốt, hấp dẫn đợc xã viên và cả nhiều ngời còn đang ở ngoài
hợp tác xã. Đó là những điểm sáng cần đợc tổng kết và nhân rộng.
Doanh nghiệp có vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài
Để thu hút vốn đầu t trực tiếp của nớc ngoài, từ tháng 12 năm 1987, Luật
Đầu t nớc ngoài tại Việt Nam đã đợc Quốc hội thông qua, tiếp đó, tháng 11 năm
1996 và tháng 6 năm 2000, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật đầu t nớc ngoài tại Việt Nam. Nhiều văn bản pháp quy đã đợc ban
hành để hớng dẫn thi hành Luật.
Từ năm 1987 đến nay doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài tại Việt Nam
(dới đây viết tắt là ĐTNN) phát triển khá nhanh, bao quát nhiều lĩnh vực, đã có
những đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nớc nh : bổ
sung nguồn vốn quan trọng cho đầu t phát triển; phục vụ chuyển dịch cơ cấu theo
hớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; thu hút công nghệ hiện đại, phơng pháp
quản lý tiên tiến; phát triển nguồn nhân lực; góp phần tiếp cận và mở rộng thị tr-
ờng quốc tế, nâng cao năng lực xuất khẩu của nớc ta; v.v
ĐTNN đã chiếm một tỷ lệ quan trọng trong tổng sản phẩm trong nớc (theo

giá thực tế): năm 1995 mới có 6,30%, năm 2000 đã là 13,28%, năm 2001 là
13,76%, năm 2002 là 13,91%. Trong tổng số vốn đầu t phát triển (theo giá thực
tế), ĐTNN chiếm: năm 1995 là 30%, năm 2000 là 18,7%, năm 2001 là 18,4%,
năm 2002 là 18,5%. Năm 2002, nếu tính cả dầu thô, xuất khẩu của khu vực
ĐTNN đạt khoảng 7,5 tỉ USD, chiếm trên 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả
nớc.
Để thu hút nhiều hơn và nâng cao hiệu quả ĐTNN, phải tiếp tục cải thiện
môi trờng đầu t, mà trớc hết là thống nhất cao hơn nữa về nhận thức, giảm mạnh
đi đến xóa bỏ những phân biệt về chính sách và pháp luật giữa đầu t trong nớc và
đầu t nớc ngoài. Những nhận thức cha thống nhất ở các cấp, các ngành đã dẫn
đến sự khác nhau trong khi xử lý các vấn đề cụ thể, khiến cho nhà đầu t nớc
ngoài cha thật yên tâm khi bỏ vốn đầu t.
Để đẩy mạnh thu hút ĐTNN, một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là xây
dựng chiến lợc và nâng cao chất lợng quy hoạch thu hút ĐTNN theo hớng ĐTNN
cùng với đầu t trong nớc trở thành một cơ cấu hiệu quả và bền vững. Rất cần thiết
hoàn thiện quy hoạch tổng thể cũng nh quy hoạch ngành, quy hoạch vùng kinh
tế, thu hút mạnh hơn nữa FDI vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất
khẩu, công nghiệp chế biến, các ngành công nghệ cao, vật liệu mới, điện tử, phát
triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội và các ngành nớc ta có lợi thế, gắn với công
nghiệp hiện đại và tạo việc làm.
14
Xét về địa bàn, đang có sự mất cân đối lớn trong ĐTNN giữa các địa ph-
ơng. Từ năm 2001 đến nay, 86,7% tổng số dự án và tổng vốn đầu t tập trung vào
hai vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và Nam Bộ, riêng vùng kinh tế trọng điểm
Nam Bộ đã chiếm khoảng 69% tổng số dự án và 71% tổng vốn đầu t đăng ký.
Chỉ riêng 10 địa phơng dẫn đầu là Bà Rịa-Vũng Tàu, TP Hồ Chí Minh, Đồng
Nai, Bình Dơng, Long An, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, Phú Yên và Quảng
Ninh đã chiếm 80% số dự án và hơn 85% vốn đầu t đăng ký. Nhiều tỉnh kết quả
thu hút ĐTNN hầu nh không đáng kể. Do vậy, rất cần sự nỗ lực hơn nữa của
chính quyền địa phơng trong việc kêu gọi đầu t.

Cùng với công tác quy hoạch, việc rà soát lại danh mục các dự án kêu gọi
đầu t, kể cả các dự án quốc gia và dự án do các địa phơng dự kiến là rất cần thiết.
Trong thực tế, danh mục các dự án quốc gia gọi vốn đầu t thời kỳ 2001-2005 tuy
đã ban hành nhng những dự án trọng điểm nhất vẫn cha đợc nhà đầu t quan tâm,
nay cần rà soát lại danh mục dự án để điều chỉnh, bổ sung, nhất là cần hoàn
chỉnh nghiên cứu tiền khả thi với các thông số kinh tế- kỹ thuật cần thiết để tạo
điều kiện cho việc tuyên truyền, vận động đầu t. Nhiều dự án mời gọi đầu t do
các địa phơng đề ra vẫn chỉ trên ớc mong chủ quan của địa phơng, cha tính đến
yêu cầu của thị trờng, nhất là thị trờng khu vực, những biến động của thị trờng
cũng nh những biện pháp mà các nớc trong khu vực đã và đang áp dụng để cạnh
tranh với ta, ngay trong từng ngành, nghề, lĩnh vực, từng loại hình doanh nghiệp
cụ thể.
Để thu hút ĐTNN, những năm gần đây, Nhà nớc ta đã tiếp tục bổ sung
những chính sách lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho ĐTNN, đối xử công bằng và
thoả đáng; không đánh thuế trùng; vốn và tài sản của nhà ĐTNN không bị trng
thu bằng biện pháp hành chính và không bị quốc hữu hoá; đợc tự do lựa chọn quy
mô, địa bàn, hình thức đầu t, đối tác; chuyển lợi nhuận, vốn và các tài sản hợp
pháp ra nớc ngoài; giải quyết tranh chấp tại tổ chức trọng tài hoặc của toà án Việt
Nam hoặc của các tổ chức quốc tế; miễn thuế nhập khẩu đối với vật t, máy móc,
thiết bị, phụ tùng nhập khẩu để hình thành công ty, v.v
Các nhà đầu t nớc ngoài hoan nghênh những chính sách cởi mở của Đảng
và Nhà nớc ta, ghi nhận những chuyển biến rõ rệt trong nhiều lĩnh vực, nhng còn
cho rằng Việt Nam là nơi có độ rủi ro cao, do thể chế, chính sách hay thay đổi và
thủ tục hành chính quá rờm rà, tốn kém. Cách nhìn về u thế thu hút đầu t ngày
nay đã thay đổi: u thế đó không còn là giá nhân công rẻ, thị trờng nội địa lớn,
vùng nguyên liệu sẵn hay giá đất hạ, mà là một chính sách nhất quán và đợc
thực thi nghiêm túc từ trên xuống dới. Tuy môi trờng đầu t đã có mức cải thiện,
song vẫn cha đủ hấp dẫn bằng một số nớc ASEAN và Trung Quốc; do đó, lợng
vốn đầu t vào Việt Nam vẫn còn quá nhỏ bé. Rõ ràng là không thể không tập
trung sức khắc phục tình trạng này, trớc hết là hoàn thiện hệ thống thể chế. Việc

tổ chức hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài vẫn còn nhiều điểm
khác biệt so với doanh nghiệp trong nớc và thông lệ quốc tế. Do vậy cần sớm
thực hiện chủ trơng hớng tới một mặt bằng pháp lý cho mọi loại hình doanh
15
nghiệp, trớc hết là thực hiện những cam kết đã đợc quy định trong Hiệp định th-
ơng mại Việt- Mỹ.
Cần đổi mới mạnh hơn nữa chính sách thu hút ĐTNN, khắc phục tình
trạng thể chế không rõ ràng, thiếu minh bạch, không dự đoán đợc, gây cho nhà
đầu t nớc ngoài tâm lý lo ngại vì môi trờng đầu t không ổn định, còn nhiều rủi ro.
Trong Luật Đầu t nớc ngoài, vẫn còn hạn chế ĐTNN đầu t vào các lĩnh vực nh
nhập khẩu, dịch vụ vận tải nội đia, tài chính - ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông,
quảng cáo, v.v Các lĩnh vực trên, nếu đợc mở ra một cách thoả đáng, sẽ tăng
thêm tính hấp dẫn của thị trờng đầu t nớc ta. Danh mục những lĩnh vực đợc phép
đầu t 100% vốn nớc ngoài và danh mục hạn chế nớc ngoài đầu t cần đợc xác định
và công bố công khai.
Cần đa dạng hoá các hình thức đầu t nơc ngoài, cho các doanh nghiệp
ĐTNN đủ điều kiện chuyển sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần, đợc
niêm yết trên thị trờng chứng khoán.
Một số các quy định khác cũng cần đợc nghiên cứu, sửa đổi, ví dụ: quy
định bắt buộc về tỷ lệ nội địa hoá trong một số ngành công nghiệp; chế độ xin
phép nhập khẩu theo kế hoạch đối với linh kiện, phụ tùng và nguyên vật liệu;
việc tuyển dụng, sử dụng lao động, giải tranh chấp về lao động; tạo mặt bằng cho
sản xuất kinh doanh; vấn đề cho thuê lại, thế chấp hoặc dùng đất thuê đó để góp
vốn đầu t; việc thực thi các luật thuế và các chính sách khuyến khích và bảo hộ
đầu t khác
Tóm lại, thu hút ĐTNN là một chính sách lớn nhằm đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc. Trong thực tế, ĐTNN đã trở thành một bộ
phận cấu thành quan trọng trong nền kinh tế, phát huy tác dụng trên nhiều lĩnh
vực kinh tế - xã hội. Hiện nay, nhiều nớc xung quanh ta đang đề ra những chính
sách có sức cạnh tranh cao để thu hút đầu t, nhà đầu t nớc ngoài thờng so sánh

môi trờng đầu t nớc ngoài của từng nớc tơng quan với môi trờng đầu t trong nớc,
từ đó quyết định đầu t. Vì vậy, để tiếp tục thu hút và nâng cao hiệu quả của
ĐTNN, không thể không xem xét lại hệ thống các thể chế, chính sách, nhất là so
sánh với môi trờng đầu t của các nớc trong khu vực để đề ra những chính sách
hấp dẫn, tạo lập một môi trờng đầu t có tính cạnh tranh cao; chỉ có nh vậy, mới
có thể tiếp tục thu hút ĐTNN, bảo đảm yêu cầu của công cuộc phát triển kinh tế,
xã hội./.
16

×