Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

BÁO CÁO TỔNG HỢP DIỄN BIẾN THỊ TRƯỜNG NÔNG SẢN VIỆT NAM 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (693.83 KB, 77 trang )

Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn
Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp
BÁO CÁO TỔNG HỢP DIỄN BIẾN THỊ TRƯỜNG NÔNG
SẢN VIỆT NAM 2006
Trong năm 2006, thị trường nông sản thế giới có nhiều biến động do tình trạng tăng giá
của dầu mỏ và tình trạng hạn hán nặng nề ở các nước Châu Phi hồi đầu năm. Tình hình thị
trường nông sản tại Việt Nam cũng bị ảnh hưởng của các diễn biến bất thường nói trên,
cũng như các diễn biến lên xuống về cung cầu khác. Diễn biến cụ thể của từng mặt hàng
trong năm 2006 vừa qua có thể được tóm tắt như sau:
1. Ngành hàng Hồ tiêu
1.1. Tình hình chung
Tình hình thị trường hồ tiêu thế giới năm 2006 có nhiều chuyển biến tích cực và đánh dấu
sự hồi phục của thị trường so với các năm trước đây. Diễn biến quan trọng nhất là giá hồ
tiêu giao dịch sau nhiều năm trầm lắng ở mức thấp, từ 1.200 – 1.800 USD/tấn đối với tiêu
đen và 1.800 – 2.000 US/tấn đối với tiêu trắng; đã gia tăng mạnh mẽ từ tháng 7 cho đến
cuối năm 2006.
Nguyên nhân chủ yếu đẩy giá tiêu lên cao là sự sụt giảm về sản lượng hồ tiêu sản xuất
trong năm 2006 so với năm 2005. Theo Cộng đồng Hồ tiêu thế giới (IPC), sản lượng tiêu
thế giới năm 2005 là 314.270 tấn, tổng lượng xuất khẩu trên thị trường thế giới là 212.479
tấn. Trong khi đó, các dự báo về sản lượng tiêu năm 2006 chỉ ở mức 269.900 tấn do tình
hình sâu bệnh hại, khô hạn và giảm năng suất tiêu ở các nước và lượng xuất khẩu chỉ đạt
197.600 tấn (Hội nghị các nước xuất khẩu tiêu lần thứ 37 diễn ra tại Kandy, Sri Lanka,
ngày 4/9/2006). Các dự báo từ đầu năm đều cho là sản lượng tiêu ở các nước sản xuất
chính như Ấn Độ, Việt Nam đều giảm.
So với cầu (theo thống kê của IPC, lượng hồ tiêu xuất khẩu các năm 2002-2004 dao động
từ 227 đến 232 ngàn tấn/năm), nếu sản lượng tiêu giảm thấp hơn 300 ngàn tấn/năm; tổng
lượng xuất khẩu giảm xuống mức khoảng 200 ngàn tấn/năm thì khả năng thiếu cung sẽ xảy
ra, và đẩy giá tiêu thế giới lên cao.
Nhìn chung, thị trường giao dịch hạt tiêu tăng diễn ra mạnh trong giai đoạn từ thu hoạch
tiêu trở đi. Khi các đánh giá về sản lượng và lượng cung trên thị trường trong năm đã rõ
ràng, và lo ngại về giảm cung ở các nước xuất khẩu chính, các nhà thu mua đã tích cực


hoạt động và đẩy giá lên cao, nhất là vào giai đoạn từ tháng 6-7 trở đi. Vào đến cuối năm,
giao dịch giảm vì các nhà nhập khẩu đã thu mua được hầu hết khối lượng hàng hóa kinh
doanh. Đồng thời, các nhà nhập khẩu cũng trông chờ diễn biến về sản lượng và giá cả của
B3 - 128 Thuỵ Khuê, Tây Hồ, Hà Nội
Tel: 84-4-7280493; Email:
1
Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn
Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp
mùa vụ hồ tiêu mới. Vì các lý do này, mặc dù không còn nguồn cung nhưng giá tiêu vẫn
giảm nhẹ.
Theo VPA, tổng cung thị trường hồ tiêu thế giới năm 2006 vào khoảng 200 ngàn tấn, trong
đó Việt Nam xuất khẩu khoảng 116 ngàn tấn (58%). Theo Bộ Thương mại Việt Nam,
lượng tiêu Việt Nam xuất khẩu đến hết tháng 11/2006 là 113.362 tấn.
Bảng 1. Sản lượng và số lượng xuất khẩu tiêu trong năm 2005, dự kiến của 2006 và
kế hoạch cho năm 2007 (tấn)
Tiêu 2005 2006 (dự kiến) 2007 (kế hoạch)
Sản lượng Xuất khẩu Sản lượng Xuất khẩu Sản lượng Xuất khẩu
Đen 263.270 179.329 219.900 166.800 211.000 148.500
Trắng 51.000 33.150 50.000 30.800 55.000 32.500
Tổng 314.207 212.479 269.900 197.600 266.000 181.000
Nguồn: (IPC, trích từ bản tin số 36/2006 của Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam VPA).
1.2. Chỉ số giá và giá tổng hợp của IPC
Diễn biến giá thị trường hồ tiêu thế giới năm 2006 phản ánh rõ nét sự mất cân đối cung
cầu. Từ tháng 1 đến tháng 6, khi hầu hết các nước đang thu hoạch hồ tiêu (ngoại trừ
Braxin), giá tiêu vẫn duy trì ở mức thấp và tương đương với giá năm 2004 và 2005. Bắt
đầu vào tháng 7, khi khả năng xuất khẩu tiêu của các nước xuất khẩu chủ yếu đã rõ ràng,
và dự đoán về dự trữ không còn nhiều, giá hồ tiêu lập tức tăng vọt, do có nhiều đơn hàng
mua tiêu. Tốc độ tăng giá tổng hợp luân chuyển đối với tiêu đen (so với tháng trước) của
tháng 7/06 là 17,6%; tháng 8 là 23,4%; tháng 9 là 30,5%; tháng 10 là 3,6%. Tương tự, tốc
độ tăng giá tổng hợp tiêu trắng là 11,2%; 21,9%; 14,1% và 6,0%. Mức giá tổng hợp đạt

đỉnh cao vào tháng 10/2006. So với cùng kỳ năm trước, giá tổng hợp tiêu đen tăng 2,03
lần, giá tiêu trắng tăng 1,77 lần (bảng 2).
Phân tích biến động giá dựa trên chỉ số giá của IPC cũng cho thấy trong giai đoạn tháng 7-
9/06, giá tiêu tăng rất mạnh. Chỉ số giá IPC đối với tiêu đen tăng đến 11,2 điềm trong
tháng 7; 19,2 điểm trong tháng 8 và 30,5 điểm trong tháng 9. Giá tiêu trắng tăng tương ứng
là 10,7; 21,3 và 16,7 điểm.
B3 - 128 Thuỵ Khuê, Tây Hồ, Hà Nội
Tel: 84-4-7280493; Email:
2
Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn
Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp
Trong suốt tháng 10/06, giá ở tất cả các thị trường đã đạt đỉnh và bắt đầu giảm nhẹ. Tuy
nhiên, tốc độ giảm giá chậm hơn nhiều so với tốc độ tăng giá. Chỉ số giá trung bình của
tháng 10 vẫn cao hơn tháng 9 đôi chút. Chỉ số IPC đối với tiêu đen tăng 4,7 điểm; tiêu
trắng tăng 8,2 điểm. Giá tiêu đen tăng chủ yếu do giá tiêu đen Sarawak và Lampung còn
tăng trong tháng 10 so với tháng 9. Trong trường hợp tiêu trắng, giá tăng chủ yếu do giá
tiêu trắng Sarawak tăng.
Qua tháng 11/06, chỉ số giá giảm 11,9 điểm đối với tiêu đen và 8,5 điểm đối với tiêu trắng.
Giá FOB trung bình ở tất cả các thị trường nguồn đều giảm. Giá tổng hợp tiêu đen giảm
9%; tiêu trắng giảm 6%. Như vậy, kể từ tháng 11/06 trở đi, giá tiêu có xu hướng giảm nhẹ
vì các nguồn cung và dự trữ đã cạn, các nhà thu mua đã mua được số lượng tiêu cần thiết,
khối lượng giao dịch giảm nhiều. Ngoài ra, vẫn có tâm lý chờ đợi tình hình sản lượng, khả
năng cung và dự đoán giá tiêu của vụ thu hoạch mới từ quý 1/2007.
Bảng 2. Giá tổng hợp tiêu đen và tiêu trắng (USD/tấn)
Tháng Tiêu đen Tiêu trắng
2004 2005 2006 2004 2005 2006
1 1.546 1.557 1.565 2.250 2.216 2.226
2 1.505 1.447 1.522 2.243 2.251 2.245
3 1.522 1.453 1.493 2.376 2.244 2.306
4 1.543 1.443 1.460 2.402 2.234 2.255

5 1.473 1.424 1.463 2.370 2.261 2.276
6 1.455 1.419 1.564 2.288 2.230 2.375
7 1.501 1.416 1.811 2.308 2.206 2.667
8 1.503 1.417 2.235 2.244 2.208 3.251
9 1.484 1.457 2.917 2.171 2.197 3.710
10 1.431 1.486 3.021 2.080 2.227 3.934
11 1.436 1.523 2.758 2.072 2.252 3.700
12 1.477 1.568 2.640 2.187 2.258 3.642
Nguồn: IPC, 12/2006
1.3. Thị trường tiêu đen
Trong suốt tháng 1 và tháng 2/2006, thị trường tiêu khá tĩnh lặng do ảnh hưởng của nghỉ
Tết Dương lịch và Tết Nguyên đán (ở Việt Nam) vào thời gian đầu năm. Một lý do khác là
chưa đến vụ thu hoạch tiêu mới ở hầu hết các nước trồng tiêu. Giá địa phương ở Cochin,
B3 - 128 Thuỵ Khuê, Tây Hồ, Hà Nội
Tel: 84-4-7280493; Email:
3
Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn
Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp
Ấn Độ; Sri Lanka và Lampung, Indonesia tăng vững chắc, trong khi giá tiêu Việt Nam và
Sarawak giảm. Ở Cochin, giá tiêu xô tăng từ 1.450 USD/tấn lên 1.540 USD. Giá FOB tiêu
Malabar Garbled 1 tăng từ 1.678 lên 1.758 USD/tấn. Hoạt động mua bán cũng diễn ra khá
mạnh so với tháng trước, khi mà các nhà xuất khẩu ở Cochin đã xuất được 1.600 tấn so với
1.450 tấn trong tháng 1/06. Điều này xảy ra do các hoạt động xuất khẩu ở Việt Nam giảm
đi do nghỉ ăn Tết nguyên đán. Giá tiêu Việt Nam giảm từ 1.212 USD/tấn còn 1.192
USD/tấn.
Bắt đầu tháng 3/2006, thị trường bắt đầu có nhiều giao dịch. Ở Việt Nam, nguồn cung chủ
yếu của thế giới, thị trường sôi động khi một lượng lớn tiêu được thu hoạch. Tuy nhiên, giá
lại giảm so tháng trước. Giá địa phương tại TP. Hồ Chí Minh vào cuối tháng 3/06 là 1.170
USD/tấn và 1.197 USD/tấn đối với tiêu loại 500g/l, so với mức giá 1.192 và 1.220
USD/tấn ở cuối tháng 2, mức giảm gần 2%. Trong suốt tháng 3, Việt Nam xuất 16.000 tấn

tiêu.
Trong tháng 4/2006, thị trường tiêu đen tập trung vào Việt Nam khi vụ thu hoạch ở đây
đang chiếm lượng chủ yếu của thị trường. Hoạt động mua bán khá nhộn nhịp nhưng giá lại
khá ổn định suốt trong tháng. So với tháng trước, giá giảm khoảng 1%.
Thị trường tiêu đen khá biến động trong tháng 5/2006. Thị trường tiêu đen tại TP. Hồ Chí
Minh, Việt Nam khá sôi động. Giá tiêu nội địa tăng từ 18.300 đồng/kg lên 19.400 đồng/kg;
giá FOB tiêu đen 500g/l tăng từ 1.1180 lên 1.240 USD/tấn. So tháng trước, giá tăng 3%.
Việt Nam đã xuất khoảng 13.820 tấn tiêu đen trong tháng 5 và tổng lượng xuất đến tháng 5
là 49.503 tấn.
Tại thị trường tiêu Sarawak, thị trường không giao dịch nhiều do nguồn dự trữ đã cạn trong
khi mùa thu hoạch mới sẽ bắt đầu vào cuối tháng 6. So với tháng 4, giá tiêu tháng 5 tăng
2%. Các thị trường khác cũng không có nhiều giao dịch.
Vào tháng 6, giá tiêu đen trên thị trường có xu hướng tăng do Việt Nam đã bán ra nhiều, và
dự trữ bắt đầu giảm. Đến hết tháng 6, Việt Nam đã xuất khoảng 66.200 tấn. Lượng xuất
trong tháng 6 chỉ đạt khoảng 9.650 tấn, giảm 30% so với tháng 5. Giá địa phương tại TP.
Hồ Chí Minh bắt đầu tăng từ 19.600 đồng/kg lên đến 22.500 đồng/kg vào cuối ttháng. Giá
FOB tiêu đen 500g/l tăng từ 1.260 USD/tấn lên 1.440 USD/tấn; giá FOB tiêu đen 550g/l
tăng từ 1.330 USD/tấn lên 1.520 USD/tấn. So tháng trước, giá trung bình tiêu đen Việt
Nam tăng 9%.
Cũng trong tháng 6/2006, thị trường tiêu đen Sarawak, Kuching và Lampung cũng không
có nhiều giao dịch, chủ yếu do nông dân ghìm giữ nguồn hàng, không bán ra thị trường để
B3 - 128 Thuỵ Khuê, Tây Hồ, Hà Nội
Tel: 84-4-7280493; Email:
4
Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn
Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp
chờ giá cao. Giá FOB tiêu Malaysia tăng 200 USD/tấn so với tháng trước (từ 1.750 lên
1.950 USD/tấn). Giá tiêu nội địa tăng 10% và giá FOB tăng 9%.
Bắt đầu quý 2/2006, thị trường tiêu đen rất biến động sau đó rõ dần tình hình nguồn cung
có hạn chế và nguồn dự trữ không còn nhiều. Sản lượng cung thế giới được dự đoán thấp.

Tổng sản lượng tiêu đen năm 2006 chỉ vào khoảng 220 ngàn tấn, giảm 17% so với năm
2005. Sản lượng tiêu Ấn Độ dự kiến giảm 29%. Việt Nam đã bán ra gần hết hạt tiêu trong
khi sản lượng cũng được dự đoán giảm. Tiêu Indonesia thu hoạch vào tháng 8 có thể bù
đắp mức cung hạn chế ở các nước sản xuất khác, nhưng sản lượng cũng chỉ bằng 75% năm
trước. Ngay cả sản lượng tiêu của Brazil cũng giảm. Chính vì vậy, các nhà kinh doanh tập
trung thu mua tiêu trong quý 3/2006, đẩy giá tiêu tăng vọt so với cùng kỳ năm trước. Mức
giá đạt đỉnh trong tháng 10/2006, cao gấp 2,03 lần giá cùng kỳ năm 2005 đối với tiêu đen.
Ấn Độ đã xuất khẩu khoảng 13.710 tấn tiêu đen trong 8 tháng đầu năm 2006, so với
11.130 tấn cùng kỳ năm 2005. So sánh về nguồn dự trữ và sản lượng tiêu trong năm và
lượng bán ra, lượng tiêu của Ấn Độ bắt đầu cạn.
Việt Nam đã bán ra đến 105.380 tấn tiêu trong 9 tháng đầu năm 2006, so với sản lượng
trong năm chỉ ở mức 92.000 tấn (77.000 tấn tiêu đen và 15.000 tấn tiêu trắng). Điều này
cũng cho thấy nguồn hàng tiêu Việt Nam cũng bắt đầu cạn kiệt.
Ở Sarawak, sản lượng tiêu có giảm đôi chút so với năm trước nhưng nông dân vẫn chưa
bán tiêu vì có nguồn thu từ cao su, đang được giá cao. Ngược lại, ở Lamphung, mặc dù giá
quý 3 có tăng lên nhưng nông dân đã bán tiêu từ trước đó và nguồn cung đã cạn vì sản
lượng quá ít.
Đến cuối quý 3/2006, giới kinh doanh hồ tiêu trông chờ vào nguồn cung từ Brazil hiện
đang vào vụ thu hoạch. Do các nguồn cung khác đã cạn, tiêu Brazil sẽ quyết định giá thị
trường. Tuy nhiên, các dự đoán vẫn cho rằng sản lượng tiêu Brazil cũng giảm so năm
trước.
Tình hình cho thấy sau giai đoạn trì trệ suốt hơn 4 năm, giá tiêu bắt đầu hồi phục và khởi
đầu cho một xu hướng tăng giá do giảm cung cho đến năm 2007, cơ bản do giảm cung.
Bắt đầu từ tháng 10/2006, thị trường tiêu bắt bắt đầu suy giảm, nhất là ở Ấn Độ. Bước qua
tháng 11 và 12/2006, thị trường tiếp tục có xu hướng giảm. Giá tiêu ở các thị trường nguồn
giảm đáng kể so các tháng trước. Lý do chủ yếu là các nhà kinh doanh thu mua tiêu hạt chờ
đợi mức giá cạnh tranh hơn vào đầu năm 2007, khi mà Việt Nam và Ấn Độ bắt đầu thu
hoạch tiêu.
B3 - 128 Thuỵ Khuê, Tây Hồ, Hà Nội
Tel: 84-4-7280493; Email:

5
Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn
Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp
Ở Ấn Độ, khối lượng hạt tiêu giao dịch trên thị trường Cochin giảm liên tục từ khi vào
tháng 10. Giá FOB hạt tiêu đen rơi từ đỉnh cao 3.043 USD/tấn vào tuần thứ 3 tháng 9/2006
xuống còn 2.760 USD/tấn vào cuối tháng 10; và xuống còn 2.330 USD/tấn vào giữa tháng
12. Tình hình này xảy ra do các doanh nghiệp đã tích trữ hồ tiêu phải bán ra gấp để chuẩn
chị cho vụ thu hoạch mới vào tháng 12 và tháng 1/07.
Tình hình giao dịch ở TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam cũng trầm lắng tương tự như ở Cochin.
Lý do chính là nguồn hàng cạn kiệt và nhu cầu của các quốc gia theo đạo Hồi giảm suốt
tháng Ramadhan và lễ Eidel Fitri. Các nhà thu mua cũng chờ đợi mùa vụ mới sẽ thu hoạch
vào quý 1/2007. Giá FOB HCMC tiêu đen 500g/l giảm từ đỉnh 2.800 USD/tấn vào cuối
tháng 9 xuống còn 2.660 USD/tấn vào cuối tháng 10 và 2.150 USD/tấn vào cuối tháng 11.
Vào gần cuối tháng 12, giá ổn định ở mức 2.220 USD/tấn.
Ở Lampung, Indonesia thị trường cũng khá tĩnh lặng. Nông dân trồng hồ tiêu đã bán ra hết
lượng dự trữ trong khi chỉ còn một số doanh nghiệp lớn hồ tiêu dự trữ hàng nhưng có giới
hạn. Mặc dù nguồn hàng không còn bao nhiêu nhưng giá vẫn giảm do thị trường thế giới
giảm nhu cầu. Giá thị trường địa phương giảm từ 2.604 USD/tấn/kg vào cuối tháng 9
xuống còn 2.199 USD/tấn vào giữa tháng 12. Giá FOB tiêu đen Lampung giảm tương ứng
từ 3.000 USD/tấn còn 2.670 USD/tấn.
Ở Sarawak, giá địa phương giảm từ đỉnh 2.453 USD/tấn vào cuối tháng 9 xuống còn 2.167
USD/tấn vào gần cuối tháng 12. Trong khi đó, giá FOB tiêu đen Sarawak giảm tương ứng
từ 3.400 USD/tấn xuống còn 3.100 USD/tấn.
Theo tin IPC ngày 7/12/2006, từ tháng 1-10/2006, sản lượng xuất khẩu của Braxin tăng
đáng kể đến 30%. Theo thống kê của ABPE (Hiệp hội các nhà xuất khẩu và sản xuất tiêu
Braxin), từ tháng 1-10/2006, Braxin xuất khẩu tổng cộng 31.095 tấn tiêu, đạt trị giá 58,9
triệu USD, tăng 30% về lượng và 77,9% về giá trị so với cùng kỳ năm 2005. Theo báo cáo
thì sản lượng xuất khẩu tiêu của Braxin từ tháng 01-10/2005 là 23.912 tấn, trị giá 33 triệu
USD.
Mỹ là nước nhập khẩu lớn nhất tiêu của Braxin với số lượng nhập khẩu là 12.152 tấn tiêu,

đạt trị giá 21,06 triệu USD, tiếp theo là Đức với số lượng nhập khẩu là 3.736 tấn, Tây Ban
Nha (2.869 tấn), Hà Lan (2.007 tấn) và Mêxicô (1.942 tấn). Ngoài ra cũng đáng chú ý rằng,
số lượng xuất khẩu của Braxin cho Ấn Độ đã tăng đáng kể. Từ tháng 01-10/2006, sản
lượng xuất khẩu tiêu của Braxin cho Ấn Độ là 338 tấn, tăng hơn 5500% tương đương 332
tấn so với cùng kỳ năm ngoái chỉ có 6 tấn. Sản lượng xuất khẩu của Braxin cho
Ukraine/Nga ngoài ra cũng tăng đáng kể. Từ tháng 01-10/2006, Braxin xuất khẩu tổng
cộng 1.245 tấn tiêu cho Ukraine/Nga, tăng đáng kể đến 2.390% tương đương 1.195 tấn so
B3 - 128 Thuỵ Khuê, Tây Hồ, Hà Nội
Tel: 84-4-7280493; Email:
6
Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn
Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp
với cùng kỳ năm ngoái là 50 tấn. Giá hạt tiêu ở Braxin đầu năm 2006 rất thấp đã kích thích
ngành sản xuất và xuất khẩu gia vị trị giá gia tăng tăng nhập khẩu hạt tiêu. Các nhà chế
biến và xuất khẩu gia vị đã mua hạt tiêu Braxin với giá chỉ khoảng 1.500-1.800 USD/tấn,
khi mà giá ở các nơi khác đều cao hơn, kể cả Ấn Độ. Ngành nhựa dầu cũng đã nhập khẩu
một khối lượng khá lớn.
Diễn biến giá FOB tiêu đen ở các thị trường tiêu chủ yếu trên thế giới suốt năm 2006 phản
ánh hoạt động giao dịch xuất nhập khẩu tiêu (hình 1). Tất cả các thị trường đều có mức giá
thấp tương đương với mức giá 2005 cho đến tuần 09/6 và tuần 16/6. Giá tiêu cao nhất (loại
Malabar MGI) cũng chỉ dao động trong khoảng 1.600-1.800 USD/tấn. Giá thấp nhất là tiêu
đen Việt Nam 500g/l dao động trong khoảng trên dưới 1.200 USD/tấn. Bắt đầu tuần 16/6
trở đi, giá tiêu ở tất cả các nguồn cung tăng vọt và đều đạt đỉnh trong giai đoạn cuối tháng
9 và đầu tháng 10, dao động từ khoảng 2.700 đến 3.400 USD/tấn tùy theo thị trường. Sau
đó giá tiêu giảm dần cho đến cuối tháng 12/2006, nhưng vẫn ở mức khá cao so với mức giá
trước tháng 6/2006.
Hình 1. Giá FOB tiêu đen theo tuần ở một số nguồn cung chính từ tháng 1 – 12/2006
(Nguồn: IPC, VPA)
B3 - 128 Thuỵ Khuê, Tây Hồ, Hà Nội
Tel: 84-4-7280493; Email:

7
Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn
Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp
1.4. Thị trường tiêu trắng
Diễn biến thị trường tiêu trắng cũng có xu hướng tương tự như tiêu đen. Như thể hiện ở
hình 2, trong quý 1 và đầu quý 2/2006, giao dịch có vẻ ổn định khi giá cả không có biến
động so năm 2005. Tuy biến động giá hàng tuần có xảy ra, nhưng nhìn tổng thể, mặt bằng
giá tiêu trắng vẫn ổn định.
Đến đầu quý 3, giá tiêu trắng cũng có xu hướng tăng mạnh do nguồn cung giảm nhiều,
lượng dự trữ không còn bao nhiêu. Ở Bangka, nông dân trữ lại hạt tiêu thu hoạch trong
tháng 7/8 để chờ giá cao khi đã có một số nguồn thu khác. Ở Sarawak, giá tiêu trắng tăng
vững chắc do thiếu cung. Giá tiêu trắng ở Kuching và Hải Nam cũng tăng đáng kể.
Giá tiêu trắng cũng có xu hướng giảm trong quý 4/2006 sau đợt tăng giá mạnh trong quý
3/2006. Ở Sarawak, giá địa phương giảm từ đỉnh 3.485 USD/tấn vào cuối tháng 9/2006
xuống còn 2.972 US/tấn vào gần cuối tháng 12. Lý do chính là nguồn hàng không còn bao
nhiêu trong khi nông dân bán ra hàng dự trữ để có tiền đón lễ Eidel Fitri và cầu giảm. Ở
Bangka, giao dịch cũng rất hạn chế từ tháng 11. Giá địa phương giảm từ 3.460 USD/tấn
còn 3.115 USD/tấn vào cuối tháng 11. Giá FOB giảm từ 3.790 USD xuống 3.749 USD/tấn.
Trung bình, giá địa phương giảm 7% và giá FOB giảm 8%. Cũng có thông tin cho rằng
nông dân ở Bangka đang chuyển đổi vườn tiêu sang cao su vì lợi nhuận cao hơn.
Ở Hải Nam, giá tiêu trắng cũng giảm nhẹ từ tháng 10/2006 qua đến hết tháng 11/2006.
Mức giảm giá FOB từ 3.200 USD còn 3.000 USD/tấn. Giá địa phương giảm từ 3.000 USD
xuống 2.800 USD/tấn. Tại TP. Hồ Chí Minh, giá FOB tiêu trắng tháng 10 giảm nhẹ 1% so
với tháng 9. Qua tháng 11, giá giảm mạnh từ 3.700 USD xuống 3.200 USD/tấn.
B3 - 128 Thuỵ Khuê, Tây Hồ, Hà Nội
Tel: 84-4-7280493; Email:
8
Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn
Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp
Hình 2. Giá FOB tiêu trắng theo tuần ở một số nguồn cung chính từ tháng 11/2005 –

12/2006, (Nguồn: IPC, VPA)
1.5. Tình hình xuất khẩu tiêu Việt Nam
Mặc dù cho đến thời điểm này, vẫn chưa có con số chính thức về xuất khẩu tiêu của Việt
Nam, nhưng đối chiếu từ các nguồn tin cậy, có thể xác định trong năm 2006 Việt Nam đã
xuất khẩu khoảng 116.000 tấn tiêu, đạt kim ngạch hơn 190 triệu USD. Trong đó, tiêu trắng
khoảng 12 ngàn tấn, chiếm 10,3% cơ cấu. So với năm 2005, tổng lượng tiêu xuất khẩu tăng
khoảng 20 ngàn tấn nhưng tiêu trắng giảm về cả lượng (giảm khoảng 2.400 tấn) và cả tỷ
trọng (10,3% so với 15%).
Với các số liệu trên, giá xuất khẩu tiêu Việt Nam (cả tiêu đen lẫn tiêu trắng) đạt trung bình
1.638 USD/tấn. So với giá tiêu đen xuất khẩu trung bình chỉ đạt 1.166 USD/tấn năm 2005
và 1.092 USD/tấn năm 2004.
Diễn biến giá FOB tiêu đen Việt Nam (nguồn IPC) và giá nội địa (nguồn VPA) cho thấy có
sự tương đồng về xu hướng. Nhìn chung, giá tăng rất nhanh từ đầu tháng 7/2006 và đạt
đỉnh cao vào khoảng giữa tháng 9/2006 (từ 23 ngàn đồng/kg đến 47 ngàn đồng/kg đối với
giá nội địa; từ 1.500 USD đến 2.800 USD/tấn đối với giá FOB HCMC). Mức giá đỉnh này
được duy trì trong 2-3 tuần rồi bắt đầu giảm từ giữa tháng 10/2006. Đến gần cuối tháng
12/2006, mức giá nội địa ở vào khoảng 34 ngàn đồng/kg; mức giá FOB HCMC ở vào
khoảng 2.200 USD/tấn (hình 3). Diễn biến giá FOB tiêu Việt Nam và giá nội địa cũng rất
phù hợp với diễn biến giá thị trường hồ tiêu thế giới (hình 1, 2).
B3 - 128 Thuỵ Khuê, Tây Hồ, Hà Nội
Tel: 84-4-7280493; Email:
9
Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn
Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp
Đánh giá chung tình hình xuất khẩu hồ tiêu Việt Nam năm 2006, có thể thấy các mặt
mạnh, yếu như sau:
Thứ nhất, Việt Nam tiếp tục khẳng định vị thế là nhà sản xuất và xuất khẩu hồ tiêu số một
trên thế giới. Mặc dù trong những năm gần đây diện tích canh tác hồ tiêu ở Việt Nam đã ổn
định vào khoảng trên dưới 52 ngàn ha, nhưng nhờ năng suất cao nên vẫn đạt sản lượng
hàng năm trên dưới 100 ngàn tấn, cao nhất thế giới và chiếm khoảng 1/3 tổng sản lượng

tiêu trên thế giới. Về xuất khẩu, Việt Nam đứng số một và chiếm khoảng trên dưới 50%
lượng cung hạt tiêu trên thế giới. Theo ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch VPA, vị trí này là cơ hội
rất tốt cho ngành tiêu Việt Nam tạo ra ưu thế chi phối và quyết định giá trên thị trường hạt
tiêu thế giới.
Ưu thế thứ hai của ngành hồ tiêu Việt nam là sự ổn định về chất lượng và sản lượng. Mặc
dù một số nước sản xuất tiêu đã giảm lượng sản xuất do giá cả thấp trong vài năm gần đây,
Việt Nam vẫn duy trì được diện tích và sản lượng. Đồng thời, chất lượng hạt tiêu ngày
càng cao nhờ quan tâm và đầu tư nhiều hơn đến chế biến sau thu hoạch.
Cũng theo VPA, thế mạnh thứ ba của ngành hồ tiêu Việt Nam là khả năng giảm thiểu xuất
khẩu thông qua các nhà buôn trung gian, mà tăng cường xuất khẩu trực tiếp cho những nhà
cung ứng nguyên liệu cho các nhà máy chế biến gia vị ở các nước.
Tuy nhiên, mặt yếu của ngành hồ tiêu Việt Nam là chưa đạt được sự thống nhất và chuyên
nghiệp trong hoạt động xuất khẩu. Tình trạng tranh mua, tranh bán vẫn diễn ra mặc dù đã
có nhiều dự báo về giảm cung trên thế giới và đẩy giá lên cao ngay từ cuối năm 2005. Tình
trạng này đã làm cho giá tiêu xuất khẩu trung bình đạt không cao như có thể. Theo VPA,
có đến hơn 60% lượng hồ tiêu Việt Nam được xuất khi giá chỉ ở mức 1.200 USD/tấn. Khi
giá tăng từ 2.000 USD/tấn trở lên, lượng hàng của Việt nam chỉ còn khoảng 40%. Chính vì
thế, giá xuất khẩu trung bình chỉ đạt hơn 1.600 USD/tấn một ít.
Theo số liệu ghi nhận lượng tiêu xuất khẩu qua cảng TP. Hồ Chí Minh (bảng 3), lượng tiêu
xuất khẩu chủ yếu tập trung từ tháng 3-8/2006, lượng xuất mỗi tháng từ 10 đến 16 ngàn
tấn. So với diễn biến giá FOB tại cảng TP. Hồ Chí Minh (nguồn IPC) và giá nội địa tại thị
trường TP. Hồ Chí Minh (nguồn VPA) trình bày ở hình 3, đến hết tuần 23/6, giá xuất tiêu
chỉ vào khoảng 1.300 USD/tấn, đến 30/6 đạt 1.440 USD/tấn nhưng đến cuối tháng 6/06,
lượng tiêu đã xuất là 67 ngàn tấn; đến cuối tháng 9/2006, đã xuất qua cảng TP. Hồ Chí
Minh 95.303 tấn. Bắt đầu từ 1/9, giá xuất tiêu đen bắt đầu vượt qua mức 2.200 USD/tấn thì
lượng tiêu xuất trong tháng 9 chỉ là 6,1 ngàn tấn, tháng 10 là 4,5 ngàn tấn, tháng 11 là 2,7
ngàn tấn.
B3 - 128 Thuỵ Khuê, Tây Hồ, Hà Nội
Tel: 84-4-7280493; Email:
10

Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn
Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp
Hình 4 cũng cho thấy khối lượng xuất khẩu hạt tiêu hàng tuần của Việt Nam cũng chủ yếu
tập trung từ tháng 2 đến tháng 5, mặc dù ngay từ đầu tháng 3/2006 (bản tin 9-10/06 ngày
12/3/06), VPA đã khuyến cáo các doanh nghiệp không nên chào bán một cách ồ ạt. Đến
cuối tháng 5, lại xảy ra một đợt bán hàng ồ ạt nữa. Hậu quả là qua đầu tháng 6/2006, dấu
hiệu thiếu hàng xuất khẩu bắt đầu xảy ra và qua tháng 7, tiêu nguyên liệu do nông dân dự
trữ hầu như đã cạn kiệt mặc dù giá lên rất cao.
Vấn đề này cho thấy ngành tiêu Việt Nam đã bỏ qua cơ hội nâng cao giá bán và kim ngạch
xuất khẩu vì sự cạnh tranh lẫn nhau, thiếu thống nhất và thiếu sự điều phối nhịp nhàng
trong thu mua nguyên liệu và xuất khẩu. Theo VPA, có hai nguyên nhân chính là thiếu
thông tin dự báo cung cầu trên thị trường và phương thức buôn bán theo kiểu mua đứt bán
đoạn, thiếu kế hoạch thu mua, dự trữ và xuất hàng. Ngoài ra, một nguyên nhân các tác
động lớn nữa là thiếu vốn, các doanh nghiệp khó có thể chủ động mua tiêu nguyên liệu và
dự trữ chờ giá bán cao.
Sự yếu kém trên đã làm cho kim ngạch xuất khẩu không đạt cao như đã có cơ hội, phần
lớn nông dân và doanh nghiệp đã phải bán tiêu lúc giá còn thấp, làm cho lợi nhuận chung
của ngành không đạt cao.
Bảng 3. Sản lượng hạt tiêu xuất khẩu của Việt Nam 9 tháng đầu năm 2006 qua Cảng
TP. Hồ Chí Minh
Tháng Lượng xuất khẩu (tấn)
1 4.693
2 5.249
3 16.632
4 13.166
5 15.457
6 11.895
Cộng 6 tháng đầu năm 67.092
7 11.728
8 10.365

9 6.118
Cộng 9 tháng đầu năm 95.303
10 4.534
11 2.763
12 (đến 22/12) 2.513
Cộng sơ bộ quý 4/2006 9.810
Cộng sơ bộ cả năm 2006 105.113
B3 - 128 Thuỵ Khuê, Tây Hồ, Hà Nội
Tel: 84-4-7280493; Email:
11
Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn
Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp
Hình 3. Giá nội địa và giá FOB HCM của tiêu đen Việt Nam 500g/L từ tháng 01–
12/2006
(Nguồn: IPC, VPA)
Hình 4. Diễn biến khối lượng tiêu xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2006 (Nguồn:
tổng hợp số liệu các bản tin tuần của VPA)
B3 - 128 Thuỵ Khuê, Tây Hồ, Hà Nội
Tel: 84-4-7280493; Email:
12
Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn
Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp
Theo thông tin từ Bộ Thương mại, thị trường xuất khẩu chính của hạt tiêu Việt Nam là Mỹ,
CHLB Đức, Hà Lan, Ấn Độ. Trong đó, xuất sang Mỹ với số lượng lớn nhất 17.515 tấn, đạt
29.436.572 USD (chiếm 15,45% tổng lượng xuất khẩu và chiếm 16,12% tổng kim ngạch
xuất khẩu). Tiếp đó là các thị trường CHLB Đức (8,5% lượng xuất và 9,9% tổng kim
ngạch); Hà Lan (7,7% lượng xuất và 8,1% tổng kim ngạch). Xuất khẩu đến Ấn Độ và Tiểu
Vương quốc Ả Rập Thống nhất cũng khá quan trọng.
1.6. Nhận định chung và dự báo năm 2007
Sản lượng tiêu niên vụ 2006 ở các nước xuất khẩu chủ yếu giảm nhiều so năm 2005, mức

cung toàn thế giới giảm, và nguồn dự trữ rất hạn hẹp. Các nguồn cung chủ yếu đã xuất gần
hết nguồn hàng dự trữ hoặc mới thu hoạch. Do đó, giá tiêu bị đẩy cao đến mức kỷ lục
trong vài năm qua vào cuối quý 3/2006. Bước vào quý 4/2006, nhu cầu giao dịch giảm dần
và giá cũng giảm theo. Đến cuối tháng 12/2006, mặc dù nhu cầu mua hạt tiêu đã ngưng,
các giao dịch tại các thị trường tiêu chủ yếu đã tạm lắng đọng, giá tiêu vẫn còn được duy
trì ở mức khác cao so với cùng kỳ năm 2005. Theo dự báo của Hiệp hội Hồ tiêu VN, giá
hạt tiêu xuất khẩu trong năm 2007 sẽ tiếp tục ổn định ở mức cao, khoảng 2.200 -2.500
USD/tấn.
Mức giá cao hiện nay có thể khuyến khích nông dân Việt Nam tăng đầu tư và đẩy sản
lượng năm 2007 lên so với 2006, nếu không có các biến động bất ngờ về thời tiết và sâu
bệnh hại. Tuy nhiên, vẫn chưa có những đánh giá tin cậy về sản lượng tiêu Việt Nam năm
2007 dù có những lo ngại về hạn hán do El Nino quay lại và thiệt hại do dịch bệnh xảy ra.
Cũng có nguồn tin cho rằng vụ thu hoạch 2007 có thể sẽ giảm sản lượng 20% do bệnh hại.
Nhìn chung, các dự báo đều cho rằng sản lượng hạt tiêu thế giới năm 2007 dự kiến sẽ giảm
xuống thấp hơn so với năm 2005 và cả 2006. Vì thế, giá hồ tiêu trên thị trường thế giói và
thị trường Việt Nam năm 2007 vẫn sẽ ở mức cao so với giá năm 2005 và xoay quanh trục
giá năm 2006. Tuy nhiên, mức giá này sẽ còn biến động tùy thuộc vào độ tin cậy của các
dự báo về sản lượng tiêu dự báo và sản lượng thu hoạch thực tế của các nước sản xuất và
xuất khẩu tiêu chủ yếu trên thế giới như Ấn Độ, Việt Nam, Indonesia và Malaysia.
1.7. Khuyến cáo chính sách
Trong tình hình giảm cung và giá phục hồi như hiện nay, ngành hồ tiêu Việt Nam nên tập
trung (1) giữ ổn định diện tích canh tác hồ tiêu, giúp nông dân giải quyết dịch hại để giữ ổn
định năng suất và sản lượng; (2) tiếp tục nâng cao công nghệ chế biến để đạt chất lượng
hạt tiêu xuất khẩu cao hơn; (3) có những hoạt động nhằm điều phối, thống nhất việc xuất
B3 - 128 Thuỵ Khuê, Tây Hồ, Hà Nội
Tel: 84-4-7280493; Email:
13
Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn
Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp
khẩu tiêu giữa các doanh nghiệp để đạt được lợi ích chung cao nhất dựa trên các dự báo,

thông tin thị trường chính xác và (4) liên kết với hệ thống ngân hàng để có đủ vốn thu mua
và dự trữ nguyên liệu ngay từ đầu vụ tđể nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của toàn
ngành.
2. Ngành hàng Hạt điều nhân
2.1. Tình hình chung
Sản lượng hạt điều thế giới mấy năm qua liên tục tăng, phản ánh xu hướng sản lượng của
châu Phi và Việt Nam, mà nguyên nhân chính là tăng diện tích trồng điều. Theo số liệu của
FAO, diện tích điều cho thu hoạch năm 2004 của 20 nước có diện tích điều lớn nhất vào
khoảng 3,1 triệu ha so với 2,1 triệu ha trong năm 1993. Trong đó, năm nước có diện tích
điều đang thu hoạch lớn nhất là Ấn Độ (730 ngàn ha, 23,8%); Brazil (691 ngàn ha, 22,5%);
Nigeria (324 ngàn ha, 10,6%; Việt Nam (282 ngàn ha, 9,2%) và Indonesia (260 ngàn ha,
8,5%).
Trong vòng 10 năm qua, sản lượng điều thế giới tăng gấp hơn 2 lần, đạt gần 2 triệu tấn.
Trong đó, hai nước có sản lượng lớn nhất là Ấn Độ và Việt Nam. Việt Nam đang tiến sát
Ấn Độ về sản xuất điều. Sản lượng điều thô Ấn Độ tài khoá 2005/06 đạt 573.000 tấn, so
với 544.000 tấn tài khoá 2004/05 và 535.000 tấn tài khoá trước đó. Xuất khẩu nhân điều
Ấn Độ năm 2005/06 đạt 114.143 tấn, so với 126.667 tấn năm 2004/05. Trong khi đó, Việt
Nam bắt đầu vượt qua mức 100.000 tấn nhân điều xuất khẩu từ năm 2004 và đạt khoảng
109.000 tấn nhân điều xuất khẩu năm 2005. Khác biệt cơ bản là Việt Nam xuất khẩu hầu
hết nhân hạt điều sản xuất được trong khi Ấn Độ tự tiêu thụ gần một nửa sản lượng.
B3 - 128 Thuỵ Khuê, Tây Hồ, Hà Nội
Tel: 84-4-7280493; Email:
14
Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn
Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp
Chính vì sự gia tăng liên tục của diện tích trồng và sản lượng nhân điều, cạnh tranh gia
tăng làm cho giá điều hạt và nhân hạt điều có xu hướng giảm. Đồng thời, diễn biến giá
điều trên thị trường thế giới còn phụ thuộc vào sản lượng hàng năm và cạnh tranh từ những
loại hạt khác.
Đặc trưng của thị trường điều xuất khẩu điều thế giới năm 2006 là gia tăng cạnh tranh trên

thị trường đẩy giá mặt hàng này liên tục giảm từ đầu năm. Trong khi nguồn cung nhân hạt
điều từ các nước sản xuất đều tăng lên thì nhu cầu liên tục giảm từ đầu năm tới nay, đặc
biệt là Mỹ - thị trường tiêu thụ điều lớn nhất thế giới. Giá quả hạnh trên thị trường thế giới
giảm, và tiêu thụ những loại hạt khác tăng lên trên những thị trường tiêu thụ lớn cạnh tranh
trực tiếp với hạt điều.
Nhu cầu giảm trên thị trường thế giới và sự cạnh tranh tăng từ các nước sản xuất khác đã
làm giảm xuất khẩu điều của Ấn Độ trong quý đầu tiên của tài khoá 2006/07 (tháng 4-6).
Do cung tăng vượt cầu, giá điều trên thị trường thế giới đã giảm. Thị trường càng về cuối
năm càng yếu ớt. Diễn biến thị trường điều thế giới quý 4/2006 có trầm lắng đi so với quý
2 và 3, chủ yếu do các giao dịch mới giảm. Các doanh nghiệp xuất khẩu tập trung giao
hàng cho các hợp đồng đã ký.
Thị trường Ấn Độ có nhu cầu nhập nhân hạt điều để bù vào số hàng bị trả lại do không đạt
chất lượng để đáp ứng các hợp đồng đã ký, tỷ lệ trả lại khoảng 10%.
B3 - 128 Thuỵ Khuê, Tây Hồ, Hà Nội
Tel: 84-4-7280493; Email:
15
Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn
Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp
Vào đầu tháng 10, nhu cầu nhập nhân hạt điều của thị trường Trung Quốc tăng do đã hết
nguyên liệu chế biến. Do đó giá tăng nhẹ. Nhiều doanh nhân Trung Quốc tìm đến thị
trường Việt Nam nhưng không còn nhiều nguồn hàng.
Giá hạt điều nhân trung bình trong 5 tháng đầu năm 2006 là 4,1 USD/kg, giảm 15% so với
cùng kỳ năm ngoái. Vào quý 3 và 4/2006, giá điều nhân khá ổn định. Giá FOB Cochin, Ấn
Độ tháng 12 của loại rất tốt dao động trong khoảng 3,9-4,0 USD/lb (loại W180); 3,3-3,4
USD/lb (loại W210). Loại nhân chất lượng tốt có giá 2,25 USD/lb (loại W240); 2,05
USD/lb (loại W320). Vào đầu quý 4/2006, Indonesia bán điều thô làm nguyên liệu cho
Việt Nam và Ấn Độ, mức giá từ 790 – 800 USD/ tấn CNF TP. HCM, và tăng lên tới 830 –
835 USD/tấn cho loại có tỷ lệ thu hồi điều nhân 29-30% (53 – 54 Lbs trên 80 Kg), cỡ hạt
205, độ ẩm 10%.
Vào cuối năm 2006, các nhà xuất khẩu chủ yếu chờ đợi giá của thị trường năm 2007 và vì

vậy, không tha thiết với các hợp đồng giao sau (forward market). Một yếu tố khác là các
hợp đồng giao ngay (spot market) có giá cao hơn, nếu các nhà xuất khẩu có hàng.
2.2. Tình hình sản xuất hạt điều và xuất khẩu nhân hạt điều Việt Nam
Tình hình sản xuất, chế biến hạt điều
Nối tiếp năm 2005, một năm thua lỗ kỷ lục của ngành chế biến và xuất khẩu điều Việt
Nam, tình hình năm 2006 đã được cải thiện đôi chút, mặc dù còn nhiều khó khăn. Theo
đánh giá của Hiệp hội Điều Việt Nam (Vinacas), trong 6 tháng đầu năm, tình hình thu mua,
chế biến và xuất khẩu gặp một số khó khăn do mùa vụ tới trễ, mưa sớm, sâu bệnh nhiều,
chất lượng hạt kém, tỷ lệ thu hồi nhân thấp, tỷ lệ hạt trắng thấp. Yếu kém chung của các
doanh nghiệp là vẫn thu mua tự phát, không áp dụng tiêu chuẩn thu mua chung, chưa xây
dựng vùng nguyên liệu, chưa có đại lý thu mua riêng. Tình trạng gian lận thương mại còn
phổ biến (trộn bã trái, ngâm ủ hạt, độn tạp chất…) do một số doanh nghiệp tranh mua
nguyên liệu, không chú trọng tiêu chuẩn hạt và khuyến cáo áp giá thu mua chung của
Vinacas (bình quân 8.000 đồng/kg hạt điều nguyên liệu cho năm 2006).
Về chế biến, khó khăn chung của ngành là thiếu lao động, chi phí chế biến tăng khoảng
20% do nhiều loại chi phí đầu vào tăng (nhân công, bao bì, vận chuyển, điện nước, công cụ
sản xuất).
Ngoài ra, vẫn chưa có các tiến bộ về công nghệ chế biến. Các công đoạn cắt, tách vỏ hạt,
bóc vỏ lụa, phân loại vẫn chủ yếu sử dụng lao động thủ công, năng suất thấp. Sản phẩm
chính vẫn là nhân hạt điều thô, chưa đa dạng hoá được.
Tình hình chung là năng suất thấp, giá thấp, cả nông dân và nhà máy đều không có lãi.
B3 - 128 Thuỵ Khuê, Tây Hồ, Hà Nội
Tel: 84-4-7280493; Email:
16
Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn
Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp
Tình hình nổi bật trong quý 4/2006 là Hội thảo Ngành Điều Việt Nam, do Bộ Nông nghiệp
& Phát triển nông thôn tổ chức. Hội thảo đã nghe báo cáo tóm tắt một số nội dung chính rà
soát quy hoạch phát triển ngành điều Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm
2020. Từ các kết quả nghiên cứu, có thể thấy hạn chế lớn nhất của ngành điều Việt Nam là

phát triển quá nóng, thiếu định hướng thị trường, kể cả về diện tích canh tác lẫn năng lực
chế biến; gây ảnh hưởng xấu đến lợi nhuận chung và sự phát triển bền vững của ngành.
Theo báo cáo của Viện Quy hoạch Thiết kế nông nghiệp, diện tích canh tác điều năm 2005
của Việt Nam là 433.546 ha, phân bố chủ yếu ở Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Diện tích
đang cho thu hoạch là 223.918 ha, năng suất bình quân 1,06 tấn/ha, sản lượng điều thô
238.368 tấn (theo số liệu của ngành Thống kê). Các vùng sinh thái được đánh giá là phù
hợp cho trồng cây điều là Đông Nam Bộ và Tây Nguyên.
Về xây dựng vùng nguyên liệu, một điểm yếu của ngành điều trong các năm qua là chưa
xác định đúng vùng nguyên liệu phù hợp về sinh thái ở một số địa phương cụ thể, từ đó
gây ra lãng phí đầu tư; giá thành sản xuất cao, hiệu quả kém ở những vùng không phù hợp.
Theo kết quả nghiên cứu trên, giá thành hạt điều nguyên liệu tại nông trại biến thiên trong
khoảng từ 3.200 đồng đến 5.000 đồng/kg. Ở các vùng sinh thái phù hợp, hoặc điều trồng
thâm canh, giá thành thường từ 3.200 – 3.400 đồng/kg so với mức giá bán ổn định trong 6
tháng đầu năm 2006 là khoảng 10.700 đồng/kg. Ở những vùng sinh thái ít phù hợp, năng
suất điều hạt thấp, giá thành cao, sản xuất kém hiệu quả.
Điểm yếu thứ hai của ngành điều là có sự chênh lệch quá lớn giữa năng lực chế biến và sản
lượng thu hoạch. Hiện nay, với 219 cơ sở chế biến, tổng công suất thiết kế của ngành chế
biến điều đã đạt 674.200 tấn điều nguyên liệu/năm. Trong khi đó sản lượng trong nước chỉ
có trên dưới 350 ngàn tấn (sản lượng điều theo báo cáo của Hiệp hội Điều) và khả năng
nhập khẩu chỉ là 100 ngàn tấn/ năm.
Điều này có nghĩa sẽ cạnh tranh nguyên liệu giữa các doanh nghiệp, nhà máy sẽ rất khốc
liệt trong thời gian tới. Trong thời gian qua, mặc dù Hiệp Hội Điều Việt Nam đã có nhiều
cố gắng để thống nhất mua điều nguyên liệu từ nông dân với một mức giá phù hợp, bảo
đảm lợi nhuận cho nông dân và ngành chế biến, xuất khẩu, nhưng trên thực tế vẫn tồn tại
hiện tượng tranh mua điều nguyên liệu khi vào vụ thu hoạch, đẩy giá điều nguyên liệu lên
mức cao bất hợp lý. Với số lượng cơ sở chế biến quá lớn như hiện nay, và đầu tư dư thừa
công suất chế biến so khả năng cung nguyên liệu trong nước và nguồn nhập khẩu, chắc
chắn ngành điều sẽ khó bình ổn giá điều nguyên liệu, bảo đảm cân bằng lợi ích giữa các
thành phần trong ngành hàng điều và nâng cao chất lượng sản phẩm. Có khả năng một số
nhà máy chế biến kém hiệu quả sẽ bị đào thải trong cuộc cạnh tranh này.

B3 - 128 Thuỵ Khuê, Tây Hồ, Hà Nội
Tel: 84-4-7280493; Email:
17
Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn
Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp
Điểm yếu thứ ba là chi phí chế biến điều đang tăng do giá lao động tăng, không chủ động
được nguồn lao động và bị các ngành khác cạnh tranh lao động. Hiệu quả chế biến cũng
thấp một phần do thiếu đa dạng hóa sản phẩm và tận dụng các sản phẩm chế biến khác từ
vỏ hạt điều.
Với mức giá điều hạt nguyên liệu nhập khẩu (790 – 800 USD/tấn), các nhà máy chế biến
xuất khẩu sẽ gặp khó khăn vì chi phí chế biến hiện khá cao. Theo số liệu nghiên cứu của
Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam và Viện Quy hoạch Thiết kế nông
nghiệp, chi phí chế biến hạt điều (gồm nhân công và các loại phí khác) đã vào khoảng 1,01
USD/kg nhân hạt điều. Nếu cộng cả chi phí nguyên liệu (giá nhập nguyên liệu 800
USD/tấn hạt thô, tương đương 2,67 USD/kg nhân hạt điều), giá thành tối thiểu đã là 3,68
USD/kg nhân hạt điều. Thông tin điều tra của Viện Quy hoạch Thiết kế Nông nghiệp cho
thấy trong năm 2005, giá thành 1kg nhân điều thô của một số cơ sở chế biến khẩu đã là
77,9 ngàn đồng/kg. Trong khi đó, giá xuất khẩu bình quân của các doanh nghiệp cũng chỉ
vào khoảng 4 USD/kg nhân hạt điều.
Điểm yếu thứ tư là thiếu vốn. Nhiều doanh nghiệp chế biến xuất khẩu điều đang thiếu vốn
lưu động. Có khả năng trong mùa vụ thu mua điều năm 2007, nhiều nhà máy sẽ không
được ngân hàng đầu tư do đã 2 năm liền sản xuất kinh doanh kém hiệu quả.
Cũng theo thông tin Hiệp Hội Điều, có nhiều nhà máy nhỏ đang thiếu nguyên liệu trầm
trọng, và đang thua lỗ trong chế biến xuất khẩu do thiếu vốn mua hàng tồn trữ sản xuất
ngay từ đầu vụ, lại chưa có điều kiện nhập khẩu hạt điều thô, nên phải phải mua lại điều
thô để sản xuất do nguồn trong nước cung cấp. Phần lớn họ đều bị lỗ khi sản xuất các lô
hàng này do định mức chế biến rất cao và do chi phí chế biến tăng cao.
Tình hình xuất khẩu năm 2006
Theo ước tính của Bộ Thương mại, năm 2006 ngành điều sẽ xuất khẩu được khoảng 130
ngàn tấn nhân điều các loại và đạt kim ngạch xuất khẩu khoảng 520 triệu USD. Như vậy so

với năm 2005 thì xuất khẩu nhân điều tăng trên 20% về lượng nhưng chỉ tăng trên 3% về
trị giá. So với kế hoạch xuất khẩu năm 2006 chỉ đạt 87% chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu. Về
giá bình quân xuất khẩu năm nay dự kiến sẽ giảm hơn giá bình quân xuất khẩu năm 2005
khoảng 13 – 14%.
Theo số liệu thống kê của Bộ Thương mại đến 10/12/2006, toàn ngành đã xuất khẩu được
118.269 tấn nhân hạt điều các loại và đạt kim ngạch 471.222.730 USD. Giá xuất khẩu bình
quân là 3.984 USD/tấn.
Bảng 1. Thống kê xuất khẩu nhân hạt điều Việt Nam 2000-2006
B3 - 128 Thuỵ Khuê, Tây Hồ, Hà Nội
Tel: 84-4-7280493; Email:
18
Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn
Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp
Năm Số lượng
(1.000 tấn)
Kim ngạch
(triệu USD)
Giá xuất khẩu
bình quân
(USD/tấn)
Ghi chú
2000 34,10 167,20 4.903
2001 43,60 151,70 3.479
2002 62,20 209,00 3.360
2003 84,50 286,10 3.386
2004 105,30 437,50 4.155
2005 108,80 501,50 4.609
2006 118,27 471,22 3.984 đến 10/12/2006
Nguồn: - số liệu 2000-2005: theo số liệu của Trung tâm Tin học Thống kê, Tổng cục Hải quan, dẫn trong
báo cáo của Viện Quy hoạch Thiết kế nông nghiệp;

- số liệu 2006: theo số liệu thống kê xuất nhập khẩu của Bộ Thương mại, website vinanet.com.vn
Về tiến độ xuất khẩu, lượng xuất tương đối ổn định qua từng tháng và kéo dài trong suốt
năm. và dao động ở mức 10.000 – 11.000 tấn/tháng. Đến cuối năm 2006, lượng giao dịch
mới giảm dần. Theo Hiệp Hội Điều Việt Nam, lượng giao dịch mới trong quý 4/2006 rất ít
do các doanh nghiệp chế biến đã hết nguyên liệu và chủ yếu tập trung giao hàng cho những
hợp đồng đã ký.
Vào cuối quý 4/2006, do đã cạn nguồn điều hạt nguyên liệu, nhiều doanh nghiệp phải nhập
nguyên liệu từ các nước khác về để duy trì hoạt động của nhà máy và hoàn tất các hợp
đồng xuất khẩu đã ký. Hạt điều thô nhập về chủ yếu qua cảng TP. Hồ Chí Minh với nguồn
nhập khẩu là từ Châu Phi và một số lô nhập khẩu từ Indonesia. Theo đánh giá chung của
cơ quan giám định thì các lô điều thô nhập khẩu về Việt Nam năm nay đa số chất lượng
phù hợp, hợp đồng nhập khẩu ít có tranh chấp xảy ra.
Về thị trường xuất khẩu
Hạt điều Việt Nam đã xuất sang hơn 30 thị trường; trong đó, xuất sang Mỹ đạt cao nhất.
Kế đó là các thị trường Trung Quốc, Hà Lan, Úc, Hà lan, Anh, Canada. Các thị trường
Trung Quốc, Hà Lan, Australia đều có tốc độ tăng trưởng cao.
Nguồn: số liệu xuất khẩu nhân hạt điều 11 tháng đầu năm 2006, Bộ Thương mại
B3 - 128 Thuỵ Khuê, Tây Hồ, Hà Nội
Tel: 84-4-7280493; Email:
19
Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn
Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp
Tính đến cuối tháng 11/2006, bốn nước chiếm thị phần cao nhất đối với nhân hạt điều Việt
Nam là Mỹ (35%); Trung Quốc (20%); Australia (11%); Hà Lan (10%). Các nước còn lại
chiếm khoảng 25% khối lượng xuất khẩu.
Đánh giá so năm 2005, các thị trường có mức tăng trưởng cao là Mỹ, Italia, Pháp,
Australia, Ả rập Xê Út, Hồng Kông, Nauy. Tuy nhiên xuất khẩu sang một số thị trường
như Tây Ban Nha, Canada và New Zealand giảm.
Nguồn: số liệu xuất khẩu nhân hạt điều 11 tháng đầu năm 2006, Bộ Thương mại
Giá cả thu mua nội địa và xuất khẩu

Theo số liệu bảng 1, mức giá bình quân năm 2006 thấp hơn giá năm 2005 là 625 USD/tấn.
Về giá trị tương đối, chỉ bằng 86,4% giá năm 2005 (giảm 13,6%), nhưng chưa phải là năm
có giá xuất khẩu thấp nhất vì năm 2002, 2003, 2004 giá xuất khẩu còn thấp hơn nữa.
B3 - 128 Thuỵ Khuê, Tây Hồ, Hà Nội
Tel: 84-4-7280493; Email:
20
Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn
Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp
Diễn biến giá xuất khẩu bình quân theo tháng cho thấy giá năm 2006 tương đối ổn định.
Các tháng đầu năm mức giá nhích hơn 4.000 USD/tấn một chút, sau đó giữ ở mức khoảng
trên dưới 3.950 USD/tấn.
Trên thị trường Việt Nam, giá điều thô cũng giảm mạnh, từ mức 16.000-17.000 đồng/kg
đầu năm 2005 xuống chỉ còn 8.000 đồng/kg trong năm 2006 (giá thu mua do Hiệp hội
Điều Việt Nam đề xuất). Trên thực tế, các doanh nghiệp đã mua ở mức trên dưới 10.000
đồng/kg trong thời gian vào vụ thu hoạch (quý 1 và quý 2). Từ quý 3 trở đi, giá điều
nguyên liệu ổn định ở mức 8.000 đồng/kg.
Tình hình hoạt động của Hiệp hội Điều Việt Nam
Trong năm 2006, Hiệp hội Điều Việt Nam đã có nhiều hoạt động tích cực nhằm củng cố hệ
thống các doanh nghiệp và hoạt động chung của ngành.
Các hoạt động quan trọng là xúc tiến thương mại và liên kết với các ngân hàng để bảo đảm
nguồn vốn thu mua và dự trữ nguyên liệu cho năm 2007.
Trong tháng 10, Hiệp Hội Điều Việt Nam đã cử 25 thành viên đến dự Hội nghị ngành điều
do Hiệp hội các ngành công nghiệp thực phẩm (AFI) tổ chức tại Hoa Kỳ từ ngày 8/10.
Tham dự hội nghị lần này có mặt hầu hết các nhà thu mau lớn ở Mỹ và đề tài hạt điều VN
được hội nghị nhấn mạnh như một chủ đề quan trọng. Một số khách hàng quốc tế lớn còn
cho rằng chất lượng hạt điều VN có thể đứng hàng đầu thế giới và nếu giá thu mua các
nước bằng nhau thì họ vẫn ưu tiên mua hàng của VN. Lưu ý rằng Hoa Kỳ hiện là thị
trường chủ yếu của sản phẩm điều Việt Nam, chiếm khoảng 40 ngàn tấn nhân điều xuất
khẩu, tương đương khoảng 40% sản lượng xuất.
Các vấn đề được các khách hàng Hoa Kỳ đặt ra chủ yếu là chất lượng, bao gồm tỷ lệ tạp

chất, vết sâu bệnh trên bề mặt hạt, độ đồng nhất của sản phẩm về mùi vị và màu sắc, các
phương pháp chế biến và bảo quản.
Ngoài ra, Hiệp hội cũng có kế hoạch tiếp tục tổ chức xúc tiến thương mại ở các thị trường
Mỹ, Ấn Độ, Trung Quốc, Ả Rập, khảo sát thị trường Australia và châu Âu.
Vào cuối năm 2006, Hiệp hội đã vận động các ngân hàng lớn ở Việt Nam tạo điều kiện vay
vốn phát triển sản xuất – kinh doanh. Bộ Thương mại cũng có động thái ủng hộ, đề nghị
khoanh nợ, dãn nợ và tiếp tục cho vay đối với các doanh nghiệp chế biến hạt điều.
2.3. Nhận định chung và dự báo năm 2007
Có thể đánh giá chung là trong năm 2006, mặc dù có khó khăn nhưng sản lượng xuất khẩu
nhân điều Việt Nam vẫn tăng 10% so với năm 2005. Tuy nhiên, về trị giá lại giảm đôi chút
B3 - 128 Thuỵ Khuê, Tây Hồ, Hà Nội
Tel: 84-4-7280493; Email:
21
Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn
Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp
do giá xuất khẩu bình quân giảm khoảng 13,6%. Thị phần xuất khẩu chủ yếu vẫn là các thị
trường lớn, quan trọng và thị phần tăng khá, đặc biệt là Mỹ và Úc.
Điều đáng nói là chất lượng phát triển của ngành điều thiếu tính bền vững, luôn tiềm ẩn
những bất ổn có thể bùng phát bất cứ lúc nào và không thể khắc phục được ngay, đó là:
- Tình hình cơ giới hoá, tự động hoá diễn ra chậm chạp, năng suất lao động rất thấp.
Nhà nước ít hỗ trợ đầu tư, doanh nghiệp thiếu vốn và thiếu liên kết với hệ thống
ngân hàng tín dụng.
- Hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, kể cả ở khu vực nông nghiệp lẫn khu vực chế
biến và xuất khẩu.
- Nhân điều Việt Nam vẫn được đánh giá có chất lượng hàng đầu thế giới, nhưng
việc tổ chức sản xuất và xuất khẩu hiện nay đang có vấn đề khó kiểm soát được
chất lượng sản phẩm và vệ sinh - an toàn thực phẩm.
- Phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng gặp nhiều khó khăn về vốn thu
mua và dự trữ nguyên liệu.
- Mất cân đối nghiêm trọng giữa năng lực chế biến và sản lượng sản xuất nội địa tạo

ra nguy cơ lãng phí đầu tư, kém hiệu quả trong khai thác chế biến, tăng cạnh tranh
không làm mạnh giữa các doanh nghiệp và dẫn đến tình trạng phá sản của các
doanh nghiệp yếu.
Về sản xuất, dự báo về El Nino đã gây ra các lo lắng về dự báo sản lượng điều nguyên liệu
2007. Một số thông tin cho rằng mùa vụ sẽ tới sớm khoảng 01 tháng so với niên vụ 2006.
Hiện nay các vùng điều lớn đã có tới 50 – 60% số cây ra nụ và bông, số còn lại đang thay
lá và đã ra chồi. Dự kiến thời gian thu hoạch sẽ bắt đầu từ sau Tết Nguyên đán. Một số
diện tích điều có thể được thu hoạch từ trước Tết.
Tuy nhiên, cần phải có kiểm chứng thực tế về tình hình sản xuất, sâu bệnh hại, sản lượng
và thời gian thu hoạch ở các vùng nguyên liệu chính để dự báo cho năm 2007 chắc chắn
hơn.
Theo những thông tin địa phương, một số hộ nông dân do thiếu vốn sản xuất nên đang bán
“điều non”, tức là bán sớm với giá 10.000 đồng/kg, tương đương 625 USD/tấn hạt nguyên
liệu. Đây là tín hiệu xác định mức giá thị trường mà nông dân cảm thấy đủ bù đắp chi phí
sản xuất và tạo lợi nhuận hợp lý cho nông dân.
Năm 2007, thuế xuất hạt điều thô là 0%, thời điểm này là 5% và 7,5%. Thuế xuất nhân
điều thô sẽ là 25%, thay bằng 40% như hiện nay. Đây là lộ trình miễn giảm thuế do Việt
B3 - 128 Thuỵ Khuê, Tây Hồ, Hà Nội
Tel: 84-4-7280493; Email:
22
Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn
Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp
Nam cam kết khi gia nhập WTO. Thông tin này được trích dẫn từ báo cáo của Viện Quy
hoạch Thiết kế nông nghiệp, tại Hội thảo ngành điều Việt Nam được tổ chức tại TP. HCM
vào ngày 14/11/2006. Đây cũng là một tín hiệu đáng mừng cho ngành chế biến xuất khẩu
điều, vì mức thuế xuất khẩu giảm sẽ thúc đẩy kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh của
ngành điều Việt Nam.
2.4. Đề xuất chính sách
Do diện tích trồng điều đã tới hạn, và cây điều đang bị một số cây trồng khác như cao su
cạnh tranh mạnh nên trong tương lai, khó phát triển thêm diện tích điều. Để bảo đảm cân

đối giữa năng lực chế biến và cung nguyên liệu, cải thiện hiệu quả sản xuất hạt điều và
tăng thu nhập cho nông dân, cần tiếp tục ổn định diện tích, nâng cao năng suất điều thông
qua sử dụng các biện pháp thâm canh, phòng trừ sâu bệnh hại và công tác giống.
Nhà nước cũng cần có các hỗ trợ nghiên cứu chế tạo và ứng dụng các công nghệ chế biến,
máy móc cơ khí để tăng cường cơ giới hóa trong chế biến nhân hạt điều, nhằm giảm áp lực
thiếu lao động thủ công trong các công đoạn bóc, tách vỏ, bóc vỏ lụa và phân loại hạt.
Về phía doanh nghiệp, việc tiếp tục củng cố và phát huy vai trò của Hiệp hội Điều là hết
sức cần thiết, nhằm điều phối, thống nhất việc thu mua nguyên liệu và xuất khẩu điều giữa
các doanh nghiệp để đạt được lợi ích chung cao nhất dựa trên các dự báo, thông tin thị
trường chính xác. Đồng thời, có biện pháp liên kết với hệ thống ngân hàng để có đủ vốn
thu mua và dự trữ nguyên liệu ngay từ đầu vụ để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh
của toàn ngành. Tăng khả năng điều phối của Hiệp hội cũng đồng nghĩa với việc tạo ra môi
trường sản xuất kinh doanh minh bạch, đoàn kết, cạnh tranh lành mạnh, tăng uy tín, chất
lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất chung của toàn ngành.
3. Ngành hàng Mía đường
13.1. Biến động sản xuất và thị trường
3.1.1. Sản xuất và thị trường trong nước
Có thể nói, năm 2006 giá đường trong nước đã có sự biến động mạnh, đạt mức cao trong
nửa đầu năm nhưng sau đó tụt giảm xuống mức rất thấp trong 3 tháng cuối cùng.
Tiếp tục xu hướng tăng giá từ cuối năm 2005, trong nửa đầu năm 2006, giá đường liên tục
tăng mạnh, đạt mức trung bình 13.000 đồng/kg đối với giá đường trắng bán lẻ (thậm chí có
nơi lên tới 14.000 đồng/kg) trong thời gian từ tháng 4 – 5. Mức giá trung bình của đường
bán buôn cũng đạt khoảng 11.000 đồng/kg. Mặc dù đây là thời điểm vào vụ sản xuất và
B3 - 128 Thuỵ Khuê, Tây Hồ, Hà Nội
Tel: 84-4-7280493; Email:
23
Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn
Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp
nhu cầu tiêu thụ đường không tăng, song do giá nguyên liệu mía trong nước và giá đường
thế giới tăng cao, thị trường đường nội địa không tránh khỏi cơn sốt giá.

Nguồn: Icard, Vinanet và Bộ Thương mại
Tuy nhiên, đến tháng 6, giá đường bán buôn và bán lẻ trên thị trường bắt đầu có xu hướng
hạ nhiệt. Điều này hoàn toàn trái ngược với diễn biến trên thị trường trong 5 tháng trước
đó. Mặc dù thời tiết nắng nóng, nhu cầu tiêu thụ đường tăng cao nhưng do nguồn cung trên
thị trường dồi dào hơn, giá đường trong nước diễn biến theo chiều hướng đi xuống. Đến
tháng 10, do nguồn cung đường được bổ sung từ vụ sản xuất mới cùng với lượng đường
tồn kho, giá đường tiếp tục giảm mạnh hơn. Và đến cuối tháng 12, giá đường bán buôn (đã
bao gồm VAT) đã tụt xuống còn 6.800 - 7.100 đ/kg đối với đường kính trắng; 7.400 -
7.600 đ/kg đối với đường tinh luyện và 6.400 - 6.600 đ/kg đối với đường vàng. Giá bán lẻ
đường kính giảm 100 - 200 đồng so với tháng trước, phổ biến ở mức 8.500 - 11.000 đ/kg.
Trong cả năm 2006, chênh lệch giá giữa đường bán buôn và bán lẻ liên tục ở mức khá cao,
luôn dao động trong khoảng trên dưới 2.000 đồng/kg. Điều này là do có nhiều tác nhân
trung gian trong quá trình chuyển đường ở nhà máy đến tay người tiêu dùng cuối cùng.
Giá đường trên thị trường nội địa trong năm 2006 biến động tương đối cùng chiều với diễn
biến giá đường thế giới, tuy nhiên khoảng cách chênh lệch giá vẫn giữ ở mức cao. Nếu so
B3 - 128 Thuỵ Khuê, Tây Hồ, Hà Nội
Tel: 84-4-7280493; Email:
24
Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn
Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp
sánh với giá đường trắng kỳ hạn trên thị trường London chỉ vào khoảng trên dưới 6.000
đồng/kg, đường bán lẻ nội địa có giá cao hơn gần gấp đôi, còn giá bán buôn cao hơn gấp
rưỡi (hình 1). Đây là kết quả của năng suất chế biến thấp và chi phí sản xuất cao của ngành
đường trong nước so với thế giới. Hơn nữa, do nhà nước bảo hộ ngành đường bằng thuế
suất nhập cao và hạn ngạch nhập khẩu nên đường nhập vào Việt Nam phần nào bị hạn chế.
Tính đến cuối vụ, cả nước chỉ còn 37 nhà máy đường hoạt động và tổng lượng mía nguyên
liệu thu mua mới chỉ đạt khoảng 7,1 triệu tấn (giảm 2,5 triệu tấn so với niên vụ trước).
Theo dự tính của Hiệp hội Mía đường Việt Nam, sản lượng đường chế biến vụ 2005 –
2006 chỉ đạt khoảng 970.000 tấn. Nhu cầu tiêu thụ đường trong nước sẽ ở mức trên dưới
1,35 triệu tấn. Như vậy, khối lượng đường nội địa thiếu hụt ước tính vào khoảng 380.000

tấn.
Đến trung tuần tháng 11/06, tất cả các nhà máy đường ở đồng bằng sông Cửu Long đã
bước vào vụ sản xuất 2006/07. Theo báo cáo của Hiệp hội mía đường Việt Nam, sản lượng
mía niên vụ 2006/07 của cả nước dự đoán sẽ đạt 15,7 triệu tấn, sản lượng đường vào
khoảng 1,25 triệu tấn, tiêu dùng khoảng hơn 1 triệu tấn. Do đó khả năng cân đối được cung
cầu tiêu thụ đường trong nước có thể được đảm bảo.
3.1.2. Sản xuất và thị trường thế giới
Nguồn: Icard
Giá đường trắng và đường thô trên các thị trường thế giới trong năm 2006 cũng có sự biến
động mạnh.
B3 - 128 Thuỵ Khuê, Tây Hồ, Hà Nội
Tel: 84-4-7280493; Email:
25

×