Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

TÍNH HIỆU QUẢ VÀ SỰ THẤT BẠI CỦA THỊ TRƯỜNG CẠNH TRANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.63 KB, 15 trang )

BÀI 1 :

TÍNH HIỆU QUẢ VÀ SỰ THẤT BẠI
CỦA THỊ TRƯỜNG CẠNH TRANH
CÁC TRẠNG THÁI TÔ CHỨC SẢN XUẤT

CHỈ TIÊU
(a)

(b)

(1)

(2)

(3)

(4)

(5)

(6)

(7)

(8)

(9)

(10)


(11)

Lợi ích của cá nhân A
(UA)

5

6

6

5

4

3

2

1

0

10

9

8

7


Lợi ích của cá nhân B
(UB)

3

3

4

5

6

7

8

9

10

0

1

2

3


Lợi ích chung (U)

8

9

10

10

10

10

10

10

10

10

10

10

10

Trạng thái tổ chức sản xuất nào đạt hiệu quả PARETO ? Giải thích
THAM KHẢO MỘT VÍ DỤ THỰC TIỂN CỦA SV NGHIÊN CỨU


TỔNG QUAN VỀ TẬP ĐOÀN ĐIỆN LỰC VIỆT NAM
Tổng Công ty Điện lực Việt Nam được chuyển đổi thành Tập đoàn Điện lực Việt Nam

– EVN từ năm 2006 theo Quyết định số 48/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. EVN
kinh doanh đa ngành. Trong đó, sản xuất, kinh doanh điện năng, viễn thông công cộng và
cơ khí điện lực là ngành nghề kinh doanh chính; gắn kết chặt chẽ giữa sản xuất, kinh
doanh với khoa học, công nghệ, nghiên cứu triển khai, đào tạo. Mục tiêu hoạt động của
EVN thể hiện rõ qua 3 tiêu chí: Kinh doanh có lãi, bảo tồn và phát triển vốn chủ sở hữu
nhà nước đầu tư tại EVN và vốn của EVN đầu tư vào các doanh nghiệp khác; Giữ vai trị
trung tâm để phát triển một Tập đồn Điện lực Quốc gia. Việt Nam đa sở hữu, trong đó sở
hữu nhà nước là chi phối; Tối đa hóa hiệu quả hoạt động của Tập đoàn Điện lực Quốc gia
Việt Nam. Hiện nay, EVN có 11 cơng ty điện lực kinh doanh điện năng đến khách hàng,
trong đó, có 3 công ty điện lực vùng và 8 công ty điện lực tỉnh, thành phố. Lĩnh vực truyền
tải cũng đang có những bước phát triển mạnh mẽ với sự ra đời của Tổng Công ty Truyền
tải Việt Nam trên cơ sở tổ chức lại 4 công ty Truyền tải (Công ty Truyền tải 1, 2, 3, 4) và 3
Ban Quản lý dự án (Ban Quản lý dự án miền Bắc, Trung, Nam). Bên cạnh đó, lĩnh vực cơ
khí điện lực và viễn thơng cơng cộng ngày càng chiếm vị trí quan trọng trên thị trường.
Những cái tên như: Công ty CP Cơ khí Điện lực, Cơng ty CP Chế tạo Thiết bị Điện Đông
Anh… hay EVNTelecom đã trở nên quen thuộc, đáp ứng một phần nhu cầu của khách
hàng về các sản phẩm cơ khí và dịch vụ viễn thơng cơng cộng. Ngồi các lĩnh vực chính
kể trên, cũng khơng ngừng phát huy thế mạnh của mình trên các lĩnh vực như: Tư vấn;
nghiên cứu – đào tạo, tài chính – ngân hàng… Đây sẽ là những thế mạnh khác giúp EVN
phát triển vững mạnh và toàn diện hơn. Nhằm định hướng cho quá trình phát triển ngành
điện Việt Nam, ngày 5 tháng 10 năm 2004 Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định
176/2004/QĐ-TTG phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Điện Việt Nam giai đoạn 2004
- 2010, định hướng đến 2020. Theo đó, mục tiêu phát triển của ngành Điện Việt Nam
1



trong thời gian tới là: sử dụng tốt các nguồn thuỷ năng, khí và than để phát triển cân đối
nguồn điện; xây dựng các cụm khí - điện - đạm ở Phú Mỹ và khu vực Tây Nam; xúc tiến
nghiên cứu, xây dựng thuỷ điện Sơn La; nghiên cứu phương án sử dụng năng lượng
nguyên tử; đồng bộ hoá, hiện đại hoá mạng lưới phân phối điện quốc gia; đa dạng hố
phương thức đầu tư và kinh doanh điện; có chính sách thích hợp về sử dụng điện ở nơng
thơn, miền núi; tăng sức cạnh tranh về giá điện so với khu vực. Dựa trên những mục tiêu
phát triển đưa ra, chiến lược hoạt động của EVN trong thời gian tới là kinh doanh đa
ngành, đa sở hữu, có trình độ công nghệ, quản lý hiện đại và chuyên môn hóa cao; trong
đó, các ngành sản xuất và kinh doanh điện năng, viễn thơng cơng cộng, cơ khí điện lực
vẫn là những ngành kinh doanh chính, làm nịng cốt để ngành công nghiệp điện lực Việt
Nam phát triển nhanh và bền vững, cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả.

2


HIỆN TRẠNG ĐỘC QUYỀN Ở VIỆT NAM VÀ BIỆN PHÁP
1.

Thị trường điện Việt Nam

Lịch cắt điện là một mục được đặt trang trọng trên trang nhất của các trang web Cơng ty
Điện lực ở Hà nội, Sài gịn và nhiều địa phương khác. Trong khi Tập đoàn Điện lực Việt
Nam (EVN) liên tục khẳng định chỉ cắt điện sinh hoạt, khơng ít doanh nghiệp khắp nơi đã
lên tiếng chỉ trích EVN là nói sai sự thật. Tình trạng thiếu điện ở VN nghiêm trọng tới
mức nhiều người bắt đầu ví von rằng sau 20 phát triển kinh tế thì Việt Nam lại quay lại
tình trạng phải liên tục cắt điện như thời còn bao cấp. Theo EVN, việc thiếu điện là do tốc
độ tăng trưởng tiêu dùng quá nhanh. Việc đổ thừa cho người tiêu dùng ít nhiều đã khiến
dư luận phẫn nộ. Trên thực tế thì thì khơng phải EVN nói sai. Trong những năm gần đây
tốc độ tăng trưởng của nhu cầu dùng điện trung bình đạt khoảng 15% một năm. So với
năm 2004, nhu cầu tiêu dùng điện năm 2010 sẽ gấp tăng gấp đôi, tới năm 2015 sẽ tăng gấp

3 và tới năm 2020 sẽ tăng gấp 5,5 lần. Tốc độ này có thể cao hơn nếu tăng trưởng kinh tế
trong dài hạn có triển vọng tốt.
Bảng 1: Tăng trưởng nhu cầu dùng điện ở VN

Nguồn: Ngân hàng Thế giới
Cũng theo EVN, lý do quan trọng thứ 2 là việc Chính phủ VN (CP) khơng cho phép
tăng giá điện. Trong khoảng 10 năm trở lại đây, giá điện đã tăng từ mức 600 đồng một
KWh hồi năm 1997 lên tới mức hiện tại là 860 đồng một KWh. Như vậy trung bình giá
điện chỉ tăng có 43% trong hơn 10 năm. Nếu điều chỉnh theo lạm phát thì giá điện thực tế
thậm chí đã giảm. EVN cho rằng do không thể tăng giá điện, họ không có đủ nguồn lực để
đầu tư xây dựng năng lực phát điện mới. Và như thế, lỗi thiếu điện chung quy lại là tại CP.
Việc thiếu hàng hóa trong một nền kinh tế thường không phải là lỗi của doanh nghiệp.
Trong trường hợp này cũng vậy. Lỗi thiếu điện phải được nhìn từ phía quản lý điều hành
ngành điện của CP. Nhưng CP đã sai ở chỗ nào? Việc thiếu điện hiện nay gợi nhớ cho
chúng ta thời kỳ thiếu gạo những năm 80. Rõ ràng Việt Nam hồi đó không thiếu khả năng
sản xuất gạo, cũng như bây giờ chúng ta không thiếu khả năng sản xuất điện. Vấn đề là
động cơ để sản xuất, động cơ chỉ tồn tại trong những cơ chế thích hợp bởi chính phủ đã
khơng tạo ra một cơ chế thích hợp để ngành điện phát triển.
3


2.

Biện pháp hành chính, độc quyền và hiệu quả

Các cơng ty ln tìm cách để tư lợi. Đó là mục đích tối cao của họ. Vì tư lợi là bản
chất của các doanh nghiệp. Việc của chính phủ là tạo ra cơ chế để hoạt động tư lợi của họ
song hành, hay ít ra cũng khơng đi ngược lại lợi ích của người tiêu dùng. Tuy nhiên đây là
một việc khó khăn. Và vì vậy, đơi khi các chính phủ phải dùng đến biện pháp quản lý hành
chính. Tuy nhiên, các biện pháp hành chính thường dẫn tới những méo mó và khiến các

doanh nghiệp hoạt động khơng hiệu quả. Trường hợp của EVN cũng khơng khác. EVN là
tập đồn có độc quyền kinh doanh điện. Nó sở hữu hệ thống đường dây tải điện trên cả
nước, hệ thống các công ty bán lẻ như Công ty Điện lực Hà Nội hay Công ty Điện lực TP
HCM. EVN cũng sở hữu khoảng 85% năng lực sản xuất điện toàn quốc (số còn lại do các
nhà sản xuất điện độc lập IPPs cung cấp). EVN mua điện của các IPPs này qua các hợp
đồng dài hạn. Nó có ưu thế thể ép giá các nhà cung ứng độc lập vì nó là người mua duy
nhất. Nó cũng khơng gặp tổn hại gì nếu hoạt động khơng hiệu quả. Trên thực tế, nó ít có
động cơ phải hoạt động hiệu quả hơn trừ phi Chính phủ ép buộc nó phải làm. Một ví dụ về
phi hiệu quả là thất thốt trên đường truyền và trong phân phối của ngành điện là 12,2%
năm 2004 (theo số liệu của World Bank), 11,02% năm 2006 ở mức cao so với các nước
trong khu vực. Con số giảm khiêm tốn từ năm 2004 tới năm 2006 là do sức ép của thủ
tướng CP yêu cầu ngành điện phải cắt giảm thất thoát xuống dưới mức 8%. Tuy nhiên,
EVN thường khẳng định là khó lịng có thể giảm xuống thấp hơn. Gần như độc quyền trên
thị trường bán buôn, độc quyền bán lẻ và đường giây tải, EVN khơng có lý do gì phải làm
hài lịng khách hàng. Người dùng điện hoặc phải tìm đến với nó, hoặc tự sản xuất điện. Là
một nhà độc quyền, EVN sẽ liên tăng muốn tăng giá, tối thiểu cũng tới mức làm cung –
cầu cân bằng. Nói cách khác, nếu nó sản xuất được 10 MW, nó sẽ tăng giá tới mức mà nhu
cầu dùng điện chỉ còn đúng 10 MW. Thậm chí nó có thể đóng cửa một số nhà máy điện
không hiệu quả để tiếp tục giảm nguồn cung điện xuống và gây sức ép tăng giá lên hơn
nữa.Bằng chứng là hầu như khơng có năm nào EVN không đề nghị CP cho tăng giá.
Tháng 5, 1997, EVN yêu cầu CP cho tăng giá thêm 13%. Tháng 6, 1998, EVN đòi tăng
giá 32% từ 689 đồng/kw lên 910 đồng/kw. Tháng 9, 1999, EVN lại đòi tăng giá thêm 6%
cho khu vực hộ gia đình và 10-12% cho cơng nghiệp. Tháng 7, 2000 tăng 10%. Tháng 10,
2002 tăng 12-13%. Cuối 2003 tăng 5.4% Giá điện người tiêu dùng VN hiện phải trả thuộc
vào hàng cao nhất trên thế giới trong khi thu nhập bình quân đầu người của chúng ta hiện
nay chỉ vào khoảng 400 USD/năm, tức vào hàng những nước có thu nhập đầu người thấp
nhất thế giới. Ngành điện nêu lý do hết sức hợp lý là vì nhu cầu phát triển kinh tế nên phải
nâng cấp hệ thống điện và xây thêm nhà máy điện, có nhu cầu rất lớn về vốn, và khơng có
giải pháp nào hơn là nâng giá điện.Báo Người Đại Biểu Nhân Dân số ra ngày 4-8-2003
viết: “Các nhà kinh tế quốc tế khẳng định rằng giá bán điện ở VN cho các doanh nghiệp ở

Hà Nội, TP.HCM (vào thời điểm cuối tháng 12-2-2002) là 7 US cent/kWh, bằng những
nơi cao nhất khu vực như Singapore, Thượng Hải, trong khi đó giá ở Bangkok chỉ là 4 US
xent, tại Manila 3,9 US cent, tại Jakarta 2,7 US cent/kWh. Ngành điện hiện là ngành có
thu nhập cao nhất trong 18 ngành kinh tế có thu nhập cao nhất: mức thu nhập bình qn
2.035.700 đồng/người/tháng. Ở đây có thói ngơng nghênh của sự cậy thế độc quyền, thói
quen chỉ biết lợi ích cục bộ. Nếu muốn có nguồn vốn để đầu tư thì ngành điện phải tính
tốn chi phí đầu vào hợp lý, cắt giảm cho phí, hoặc phát hành trái phiếu để huy động vốn
hoặc phải vay tiền nhân dân và trả lãi suất cho khoản vay đó, chứ khơng thể làm một việc
dễ dàng là nâng giá điện vào khoản chênh lệch đó người dân phải gánh chịu. Hoạt động
thiếu hiệu quả và liên tục địi đăng giá này khơng phải là lỗi của EVN. Chúng là sản phẩm
tất yếu của độc quyền. Một nhà độc quyền thì khơng phải là ơng già Noel: anh ta sẽ bòn
4


rút khách hàng tới tận xương trừ khi anh ta bị ngăn cấm làm điều đó. Nhưng ngay cả khi bị
cấm, một nhà độc quyền vẫn có thể tìm ra cách để tư lợi cho mình. Phương pháp cổ truyền
là đẩy chi phí lên cao bằng nhiều cách, trong đó có việc tăng lương cho nhân viên lên cao
hơn hẳn mặt bằng chung hoặc thường xuyên bỏ tiền vào các khoản chi phù phiếm. Việt
Nam đang thiếu điện nghiêm trọng, và sẽ còn tiếp tục thiếu điện nghiêm trọng. Đây là một
thực tế. Việc xây dựng năng lực cung ứng điện đủ đáp ứng với nhu cầu đòi hỏi nguồn tài
chính khổng lồ. Riêng trong giai đoạn 2005-2010 cần khoảng 3 tỉ USD. Giai đoạn 20052020 sẽ cần tối thiểu 13.5 tỉ USD. EVN không thể tự đầu tư nguồn tài chính này trừ khi nó
được phép tăng giá bán điện tùy tiện. EVN cũng không thể sử dụng nguồn tiền đi vay.
Theo như tính tốn của World Bank,việc tài trợ thuần túy bằng nguồn tiền vay sẽ khiến tỉ
lệ nợ-trên-vốn của EVN quá cao. Do đó, đối với các nguồn cung cấp tín dụng quốc tế, cho
EVN vay trở nên rủi ro quá mức chịu đựng. Việc này khiến việc vay mượn về lâu dài là
không khả thi. Việc CP VN đứng ra bảo lãnh các nguồn vay cho EVN có lẽ cũng khơng
khả thi, nhất là trước viễn cảnh kinh tế khơng có nhiều điểm sáng như hiện nay. Lối ra
khỏi ma trận này là mở cửa thị trường điện. CP cũng đã tính đến con đường này và đã
phác thảo ra một lộ trình dài hạn để thực hiện, bao gồm 4 bước:
1. Cho phép tư nhân và quốc tế đầu tư sản xuất điện. EVN mua điện của các IPPs này

qua các hợp đồng dài hạn (đang thực hiện).
2. Tự do hóa một phần thị trường bán buôn: để các IPPs tự do canh tranh với nhau,
trong khi EVN giữ vị thế độc quyền trên thị trường bán lẻ (lộ trình 2010-2014 của
Bộ Cơng Nghiệp). Giai đoạn này thị trường bán bn có nhiều người bán nhưng chỉ
có 1 người mua. Trong hai giai đoạn này, có nhiều người bán bn nhưng chỉ có
một người mua (EVN) để bán lại trên thị trường bán lẻ. Ở giai đoạn 1, từng người
bán buôn ký hợp đồng với EVN, các hợp đồng này độc lập với nhau và giá cả được
xác định kín giữa 2 bên. Trong giai đoạn 2, những người bán buôn phải cạnh tranh
trực tiếp với nhau để bán cho EVN. Giá cả được xác định theo mức thị trường, cơng
khai và chỉ có 1 giá duy nhất cân bằng cung – cầu.
3. Tự do hóa hồn tồn thị trường bán bn thơng qua việc phá thế độc quyền bán lẻ
của EVN (thí dụ thơng qua việc xé nhỏ tổng công ty này) và cho phép các người
mua lớn (thí dụ các khu cơng nghiệp lớn) có thể mua điện trực tiếp từ người bán
bn. Khi giai đoạn này kết thúc, thị trường bán buôn sẽ có nhiều người bán và
nhiều người mua. Theo lộ trình của Bộ Cơng nghiệp, giai đoạn này sẽ được thực
hiện trong thời gian 2014-2022.
4. Giai đoạn cuối cùng là tự do hóa cả thị trường bán lẻ điện. Khi giai đoạn này được
thực hiện, người mua điện nhỏ cũng có quyền lựa chọn mua điện của các cơng ty
bán lẻ khác nhau. Giai đoạn này sẽ được thực hiện sau 2022- cũng theo lộ trình của
Bộ Cơng nghiệp.
Một thị trường điện hiện đại hoạt động hiệu quả sẽ tạo mơi trường cạnh tranh tích cực
giữa các cơng ty sản xuất điện, giữa các nhà bán lẻ và giữa các công ty cung cấp đường
giây tải. Việc cạnh tranh sẽ khiến các doanh nghiệp này liên tục phải tìm cách cắt giảm chi
phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh và có những kế hoạch dài hạn thích hợp. Một thị trường
điện hiệu quả cũng tạo ra cơ chế ngăn cản các doanh nghiệp sử dụng sức mạnh thị trường
để gây sức ép tăng giá nhằm trục lợi bằng sự tổn thất của người tiêu dùng. Chính phủ Việt
Nam hi vọng việc tự do hóa thị trường sẽ tạo động lực cho giới đầu tư tư nhân và quốc tế
tham gia sản xuất điện. Tuy nhiên, đây không phải là một kết quả tất yếu. Như đã đề cập ở
phần trên, nếu khơng được thực hiện tốt thì việc tự do hóa thị trường điện sẽ tạo ra những
5



bẫy giá cả nguy hiểm cho người mua và không chắc sẽ giải quyết được tình trạng khan
hiếm điện. Việc tái cơ cấu lại thị trường điện, vì thế, là một việc khó khăn, có nhiều rủi ro
và địi hỏi các nhà quản lý và hoạch định chính sách phải có kiến thức tốt (hoặc được tư
vấn tốt) về thị trường điện hiện đại và cách xây dựng nó.

Biểu đồ 1: Lộ trình cải cách thị trường điện ở VN

Kết luận:
Việt Nam trong những năm gần đây ln ở tình trạng khan hiếm điện. Việc này là việc
dễ thấy trước vì nhu cầu tiêu dùng điện của VN tăng nhanh và tương đối ổn định. Khác với
xăng dầu là cái có thể nhập khẩu tùy ý để cân bằng cung cầu, điện là mặt hàng đặc biệt và
VN phải dựa chủ yếu vào năng lực sản xuất điện trong nước. Bằng việc giữ ngành điện
trong tình trạng độc quyền và quản lý giá cả, CP đã đẩy EVN vào tình trạng kinh doanh
khơng hiệu quả và khơng có động lực phát triển năng lực sản xuất mới để đáp ứng nhu
cầu, và khơng có động lực để hoạch định chiến lược dài hạn. Những vấn đề này không
phải là lỗi của EVN – với tư cách là một tập đoàn kinh doanh. Chúng là sản phẩm tất yếu
của độc quyền. Để giải được bài toán điện, con đường duy nhất là tái cấu trúc thị trường
6


điện. Tuy nhiên, đây là con đường khó khăn và có nhiều rủi ro. Có lẽ vì vậy mà CP đang
muốn giữ một nhịp độ cải cách chậm. Điều này cũng đồng nghĩa việc khan hiếm điện và
các hệ quả bất lợi của nó đến sản xuất và sinh hoạt sẽ khơng thể được khắc phục trong
trung hạn.

IV. CÁC MƠ HÌNH QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG
ĐIỆN LỰCVÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM
1. Vì sao cần xây dựng và áp dụng mơ hình quản lý thị trường điện lực phù hợp

Tất cả mọi doanh nghiệp đều kinh doanh với mục đích có lãi, đó là một chân lý khơng
thể phủ nhận. Nhưng kinh doanh thì phải tuân thủ quy luật thị trường, các doanh nghiệp
đều phải làm ăn theo quy luật thị trường và phải chịu sự cạnh tranh khắc nghiệt của quy
luật thị trường. Do vậy, để đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh điện năng của ngành
Điện Việt Nam, nhóm chúng tơi xin giới thiệu một số mơ hình quản lý thị trường điện lực
của các nước trên thế giới, từ đó đưa ra mơ hình quản lý thị trường điện lực có thể áp dụng
tại Việt Nam, đồng thời nêu lên một số ý kiến tham khảo nhằm hồn thiện cơng tác quản
lý thị trường điện lực Việt Nam.
Quá trình kinh doanh điện năng bao gồm 3 khâu liên hoàn: Sản xuất - Truyền tải - Phân
phối điện năng xảy ra đồng thời (ngay tức khắc), từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ không
qua một khâu thương mại trung gian nào. Điện năng được sản xuất ra khi đủ khả năng tiêu
thụ vì đặc điểm của hệ thống điện là ở bất kỳ thời điểm nào cũng có sự cân bằng giữa cơng
suất phát ra và công suất tiêu thụ (không để tồn đọng).
2. Các mơ hình tổ chức kinh doanh điện năng
Cùng với những tiến bộ của khoa học kỹ thuật và quản lý, kết hợp với sự phát triển của
một số học thuyết kinh tế mới đã tạo điều kiện để nhiều công ty điện lực nghiên cứu xây
dựng, phát triển các mô hình kinh doanh mới thay thế cho mơ hình truyền thống trước đây,
như mơ hình truyền tải hộ, mơ hình thị trường phát điện cạnh tranh, mơ hình thị trường
điện cạnh tranh bán bn và bán lẻ,... Tuy nhiên, nhìn từ góc độ cạnh tranh của thị trường
có thể phân chia thành bốn loại mơ hình thị trường điện cơ bản đang được áp dụng tại các
nước trên thế giới hiện nay như sau:
Mơ hình thị trường điện độc quyền: Là mơ hình chỉ có một cơng ty nắm giữ tồn bộ
các khâu của q trình sản xuất kinh doanh điện năng từ sản xuất, truyền tải đến phân phối
cho khách hàng tiêu thụ.

Phát điện

Phát điện
Mua bán giữa các công ty


Bán buôn/Truyền tải
(a)Ngành dọc

Bán buôn/Truyền tải
(b) Phân phối bán lẻ riêng

Công ty phân phối

Công ty phân phối
7

Khách hàng

Khách hàng


Hình 1. Mơ hình thị trường điện độc quyền
Mơ hình Thị trường điện cạnh tranh phát điện nhưng chỉ có một đại lý mua bn: Là
mơ hình chỉ có một người mua duy nhất từ nhiều nhà máy phát điện. Toàn bộ điện năng
sản xuất ra phải bán cho đại lý mua buôn và đại lý này thực hiên chức năng phân phối độc
quyền cho khách hàng tiêu thụ.
IPP

IPP

IPP

Đại lý mua buôn
Công ty phân phối


Công ty phân phối

Khách hàng

Công ty phân phối

Khách hàng

Khách hàng

Hình 2. Mơ hình Thị trường điện cạnh tranh phát điện có một đại lý mua bn
Mơ hình Thị trường cạnh tranh phát điện và cạnh tranh bán bn: Là mơ hình mà các
cơng ty phân phối có thể mua điện từ nhiều cơng ty bán bn khác nhau tuy nhiên vẫn độc
quyền trong khâu phân phối cho các khách hàng dùng điện.

IPP

IPP

IPP

IPP

Đại lý mua buôn

IPP

IPP

Đại lý mua buôn


CT PP

CT PP

CT PP

CT PP

CT PP

CT PP

KH

KH

KH

KH

KH

KH

8


Hình 3. Mơ hình Thị trường cạnh tranh phát điện và cạnh tranh bán buôn
IPP: Nhà máy điện độc lập CT PP: Cơng ty phân phối KH: Khách hàng

Mơ hình Thị trường điện cạnh tranh hồn tồn: Là mơ hình mà ở đó tất cả các khách
hàng đều có quyền lựa chọn nhà cung cấp điện chứ không bắt buộc phải mua qua các nhà
phân phối độc quyền. Giá cả ở đây hoàn toàn được xác định dựa trên mối quan hệ cung
cầu điện năng.
IPP

IPP

IPP

IPP

IPP

IPP

CT PP

Bán lẻ

KH

KH

Lưới truyền tải,
thị trường bán buôn
Bán lẻ

CT PP


CT PP

CT PP

Lưới phân phối,
thị trường bán lẻ
KH

KH

KH

KH

Hình 4. Mơ hình Thị trường cạnh tranh hồn tồn
Trên cơ sở nghiên cứu những mơ hình thị trường điện lực được các nước trên thế giới
áp dụng, thực hiện đánh giá những điều kiện cơ bản của thị trường điện lực Việt Nam hiện
tại từ đó thực hiệnchủ trương của Đảng và Nhà nước trong thời gian đến theo là: “Từng
bước hình thành thị trường điện cạnh tranh trong nước, đa dạng hoá phương thức đầu tư và
kinh doanh điện, khuyến khích nhiều thành phần kinh tế tham gia, không biến độc quyền
nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp. Nhà nước chỉ giữ độc quyền khâu truyền tải
điện, xây dựng và vận hành các nhà máy thuỷ điện lớn, các nhà máy điện ngun tử”.
3. Mơ hình thị trường điện lực Việt Nam
Qua tham khảo một số mơ hình quản lý kinh doanh điện năng của các nước trên thế
giới gắn liền với việc xem xét thực trạng mô hình quản lý độc quyền nhà nước cũng như
hoạt động sản xuất kinh doanh ngành Điện Việt Nam. Với những định hướng phát triển
của ngành Điện trong thời gian tới cần thiết phải xây dựng một mơ hình quản lý phù hợp
nhằm đáp ứng được yêu cầu phát triển thị trường điện lực và nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh. Có thể xem xét biến động của từng đối tượng tham gia vào thị trường điện
trong giai đoạn 2005-2010 để xây dựng mơ hình hợp lý, cụ thể như sau:

- Đối với EVN: do đặc thù của ngành điện Việt Nam trong điều kiện hiện nay là
mức cung khó có thể đáp ứng được cầu điện năng trong giai đoạn này. EVN cần chủ động
điều tiết các nguồn phát đảm bảo cân bằng hệ thống, do vậy có thể trở thành người mua
duy nhất của các nhà máy điện.
- Đối với các nhà máy điện: từng bước thực hiện cổ phần hoá các nhà máy điện,
chuyển các nhà máy điện thuộc EVN thành các nhà máy điện độc lập. Các nhà máy điện
chỉ bán điện trực tiếp cho EVN thông qua chào giá cạnh tranh. Tuy nhiên trong điều kiện
9


phát triển hơn của hệ thống lưới điện, các khách hàng lớn cũng có thể mua trực tiếp từ các
nhà máy điện.
- Đối với các công ty truyền tải: với bản chất là độc quyền tự nhiên, do vậy Nhà
nước vẫn nắm giữ thực hiện các hoạt động truyền tải điện từ người mua duy nhất (EVN)
đến các công ty điện lực.
- Đối với các công ty phân phối điện năng: thực hiện chuyển đổi trở thành đơn vị
độc lập với EVN dưới hình thức Cơng ty mẹ - Cơng ty con. Do việc chuyển đổi thị trường
điện thực tế không ảnh hưởng nhiều đến hoạt động của các công ty phân phối điện do vậy
vẫn giữ nguyên chức năng kinh doanh là độc quyền phân phối điện năng cho khách hàng.
- Do cần đảm bảo tính phù hợp của một số hoạt động độc quyền trong mơ hình như:
EVN độc quyền mua điện từ các nhà máy điện độc lập, độc quyền bán điện cho các công
ty phân phối điện năng, các công ty phân phối độc quyền bán điện cho khách hàng cuối
cùng do vậy cần thiết phải có một cơ quan đứng ra kiểm sốt hoạt động này với tư cách
hoàn toàn độc lập.
- Đối với khách hàng: Tiếp tục chịu mua điện từ một công ty phân phối điện duy
nhất trong phạm vi địa lý do bởi các cơ sở hạ tầng của ngành điện trong giai đoạn này có
thể chưa đáp ứng được yêu cầu của khách hàng mua điện trực tiếp từ nhà sản xuất theo mơ
hình của thị trường điện cạnh tranh hồn tồn. Tuy nhiên đối với các khách hàng có phụ
tải lớn có thể mua điện trực tiếp từ các nhà máy điện hoặc thông qua lưới truyền tải của
EVN.

Từ những quan điểm trên, có thể xây dựng một mơ hình quản lý thị trường điện lực
Việt Nam trong giai đoạn 2005-2010 như sau:

Các nhà máy điện độc lập

Cơ quan
kiểm soát

EVN

CT PP

Khách hàng lớn

CT PP

CT PP

Khách hàng

Khách hàng

Hình 5. Mơ hình quản lý thị trường điện lực Việt Nam
Với mong muốn cải tổ, phát hiện và khắc phục một số "lỗ hổng" trong ngành điện, Bộ
Công Thương đã xây dựng đề án thiết kế tổng thể thị trường điện cạnh tranh và tái cơ cấu
ngành điện. Trong đó, Bộ Cơng Thương đề nghị trước mắt tách khâu sản xuất - truyền tải
ra khỏi tập đoàn điện lực.
10



4. Kết luận và kiến nghị
Dựa trên những đặc điểm tình hình hoạt động của ngành điện hiện nay để áp dụng
thành cơng mơ hình thị trường điện lực này trong thời gian tới, đảm bảo nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh, hiệu quả đầu tư, chất lượng và độ tin cậy điện năng… về phía Nhà
nước cũng như EVN cần phải xem xét những mặt sau:
Về phía Nhà nước:
- Cần ban hành kịp thời hệ thống các văn bản dưới luật liên quan hướng dẫn các
hoạt động điện lực.
- Phân định ranh giới giữa chức năng điều tiết và chức năng quản lý nhà nước để
không bị phân tán, chồng chéo.
- Tách phần hoạt động cơng ích ra khỏi hoạt động kinh doanh của các công ty phân
phối điện.
- Quy định rõ cơ chế giá bán điện phù hợp.
Về phía ngành Điện:
- Thực hiện đầu tư mới cũng như bảo dưỡng các cơng trình nguồn điện, lưới điện
nhằm đảm bảo chất lượng, độ tin cậy và an toàn cung cấp điện, đáp ứng yêu cầu tăng
trưởng của phụ tải.
- Đảm bảo mức cơng suất dự phịng cần thiết khoảng 20-30% cơng suất cao điểm.
- Hồn thiện hệ thống thông tin liên lạc, đưa vào vận hành mạng viễn thơng điện
lực, hồn chỉnh hệ thống điều khiển từ xa (SCADA).
- Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật đáp ứng yêu cầu phát triển, đặc
biệt trong lĩnh vực quản lý điều độ hệ thống điện.

V. Thuận lợi và khó khăn của Việt Nam khi xóa bỏ Độc Quyền
điện xây dựng thị trường điện cạnh tranh
Cuối năm 2004, Luật Điện lực được thông qua để tạo khung pháp lý cho chương trình
cải cách tồn diện ngành điện lực mà trọng tâm là việc phát triển một thị trường điện cạnh
tranh.
Theo Luật Điện lực, lộ trình phát triển thị trường điện ở Việt Nam được chia thành ba
giai đoạn.

Giai đoạn thứ nhất là tạo cạnh tranh trong hoạt động phát điện. Các nhà máy điện sẽ
phải cạnh tranh để bán điện cho một công ty mua điện duy nhất. Cơng ty này sau đó sẽ độc
quyền bán điện cho các đơn vị phân phối và doanh nghiệp có lượng tiêu thụ điện lớn. Như
vậy, ở giai đoạn này, khơng có cạnh tranh trong hoạt động mua điện của các cơng ty phân
phối cũng như khơng có cạnh tranh trong việc người sử dụng cuối cùng mua điện từ bên
bán lẻ. Giai đoạn thứ nhất này dự kiến sẽ diễn ra từ năm 2009 đến 2014.
Trong giai đoạn thứ hai, mơ hình cơng ty mua điện bán điện duy nhất sẽ được thay thế
bằng thì trường bán bn (bán sỉ). Nhiều công ty phân phối điện sẽ cạnh tranh mua điện từ
nhiều nhà máy phát điện theo cơ chế mở, trong đó mọi nhà máy phát điện có thể chào bán
điện lên lưới quốc gia và mọi công ty phân phối có thể chào mua điện từ lưới. Như vậy,
tính cạnh tranh sẽ được thiết lập trong thị trường điện bán buôn, trong khi các công ty
phân phối vẫn duy trì vị thế độc quyền trong thị trường bán lẻ. Năm 2015 đến 2022 là thời
gian dự kiến triển khai thị trường bán buôn cạnh tranh.
11


Đến giai đoạn thứ ba, dự kiến là từ 2023 trở đi, các nhà máy điện có thể cạnh tranh bán
điện cho khách hàng sử dụng cuối cùng một cách trực tiếp hay gián tiếp qua công ty phân
phối theo sự lựa chọn của mình. Khi đó, cạnh tranh sẽ được thiết lập ở cả hoạt động sản
xuất, bán buôn và bán lẻ điện năng. Hệ thống truyền tải và điều độ, với đặc tính độc quyền
tự nhiên, sẽ được vận hành dưới hình thức một cơng ty độc lập thuộc sở hữu nhà nước.
Trên thực tế tiến trình tái cơ cấu Ngành điện vẫn thực hiện một cách chậm chạp bởi vẫn có
nhiều ý kiến chưa thống nhất.
* Thuận lợi:

Khi phá thế độc quyền sẽ thúc đẩy đầu tư trong nước và nước ngoài tham gia sản
xuất điện. Các nhà đầu tư sẽ chọn công nghệ, nhà máy để tiết kiệm trong đầu tư làm sao
giá thành đầu tư hợp lý nhất, giá bán hợp lý và lợi nhuận cao. Hơn nữa, việc tập trung
nguồn vốn cho EVN thì kéo theo tiến độ xây dựng nhà máy sẽ chậm và đầu mối ấy khơng
đủ sức gánh. Có sự cạnh tranh sẽ có sự thi đua, giảm giá thì rõ ràng có lợi cho các hộ dùng

điện, người tiêu dùng.

Được sự ủng hộ của công chúng. Bởi họ tin rằng giá điện sẽ giảm khi thực hiện tái
cơ cấu điện làm cho đời sống ổn định hơn.

Các nhà đầu tư sản xuất ra điện sẽ bán điện trên hệ thống điều phối quốc gia đến tận
tay người tiêu dùng. Khi đó, người tiêu dùng có quyền lựa chọn nhà cung cấp nào cung
cấp tốt nhất, rẻ nhất, chất lượng cao nhất.
* Khó khăn

Hiện nay có rất nhiều nhà máy sản xuất điện nhưng thực chất cung vẫn chưa đáp
ứng được cầu trên thị trường. Chủ trương thu hút các doanh nghiệp ngoài EVN tham gia
đầu tư nguồn điện đến nay chỉ thành công trong lĩnh vực thủy điện. Hiện cả nước có gần
200 dự án thủy điện do các doanh nghiệp trong nước làm chủ đầu tư. Tuy nhiên, hầu hết
chỉ là những dự án rất nhỏ, với công suất từ vài trăm kilowatt đến vài megawatt, trong khi
xây dựng những nhà máy nhiệt điện công suất lớn mới là hướng giải quyết nhanh nhất cho
vấn đề thiếu điện, lại không mấy được quan tâm. Nếu không kể hai nhà máy điện Phú Mỹ
2 và 3, đến nay mới có tập đồn Dầu khí (PetroVietnam) và tập đồn Than - Khống sản
(TKV) đầu tư vào nhiệt điện. Cịn các nhà đầu tư trong và ngồi nước khác thì vẫn đang
do dự, mặc dù rất muốn bỏ ra hàng tỉ đô la Mỹ để xây những nhà máy điện công suất đến
2.000 - 3.000 MW.

Đến nay, xây dựng nhà máy điện khơng cịn là lĩnh vực độc quyền và mọi thành
phần kinh tế đều có thể tham gia. Tuy nhiên, nhà đầu tư lại chỉ có thể bán sản phẩm của
mình cho EVN, đơn vị kiểm sốt gần như tồn bộ mạng lưới truyền tải và phân phối. Đây
là điểm mấu chốt làm hạn chế khả năng thu hút vốn đầu tư vào lĩnh vực phát triển nguồn
điện.

Mơ hình tái cơ cấu ngành điện chưa thống nhất. Thực tế có nhiều rối rắm trong khâu
này. Để hình thành thị trường điện cạnh tranh, Bộ Công thương đã đưa ra phương án tách

ngay khâu phát điện, truyền tải, điều độ ra khỏi Tập đồn điện lực Việt Nam (EVN) và
EVN chỉ cịn nắm giữ khâu phân phối điện. Tuy nhiên, Hiệp Hội Năng Lượng Việt Nam
(VEA) khơng đồng tình với quan điểm này và cho rằng, không nhất thiết phải xé nhỏ EVN
bằng việc chia tách các nhà máy điện thuộc EVN để giảm quyền lực của tập đồn này.
Chính phủ chỉ cần tách khâu mua bán điện và điều độ hệ thống điện quốc gia ra khỏi EVN
là đủ điều kiện để hình thành một thị trường điện cạnh tranh lành mạnh.
Trong đề án trình Thủ tướng, Hiệp hội đề xuất tách khâu mua bán điện ra khỏi EVN để
trở thành Tổng Công ty Mua Bán Điện Quốc Gia. Theo phân tích của cơ quan này, lúc đó,
các Tổng Cơng ty, tập đoàn kinh tế, các nhà máy điện độc lập, trong đó có EVN chào bán
12


điện cạnh tranh với Tổng Công ty này. Tổng Công ty mua bán điện không chịu sự chi phối
mà chịu sự chỉ đạo của Chính phủ thơng qua Bộ Tài chính hoặc các Bộ ngành khác liên
quan. Ngồi ra, cần tách điều độ hệ thống điện ra khỏi EVN để trở thành Cty điều độ hệ
thống điện quốc gia trực thuộc Chính phủ. Lúc đó, điều độ hệ thống điện hoạt động độc
lập, khách quan trên cơ sở lợi ích chung của đất nước, của nhân dân. Đây là cơ sở để bước
đầu tạo ra thị trường điện cạnh tranh lành mạnh. Đối với các nhà máy phát điện của EVN,
VEA đề xuất tổ chức lại thành từ 3 đến 5 Tổng Công ty phát điện, nhưng vẫn thuộc EVN
quản lý.

Muốn xây dựng Tổng công ty mua bán điện quốc gia hoạt động hiệu quả thì phải
tách tổng cơng ty này ra khỏi EVN. Nói khác đi là phải xé nhỏ EVN. Tuy nhiên, việc này
cũng khơng dễ. Nếu nhóm các nhà máy có cùng tính chất vào trong một cơng ty thì các
cơng ty thủy điện sẽ có chi phí biến đổi thấp hơn nhiều so với các cơng ty nhiệt điện. Vì
vậy, cơng ty nhiệt điện sẽ thất bại trong cạnh tranh. Để việc cạnh tranh sau cải cách thị
trường diễn ra bình đẳng và lành mạnh thì cấu trúc chi phí của các doanh nghiệp sản xuất
điện phải tương đối giống nhau. Việc chia tách này hoàn tồn khơng đơn giản, nhưng lại
hết sức quan trọng mà nếu làm khơng đúng sẽ khiến q trình cạnh tranh sau cải cách trở
nên què quặt.

Tuy phải trải qua nhiều khó khăn thử thách nhưng Ngành điện cần sớm thực hiện tái cơ
cấu bởi sẽ mang lại lợi ích chung cho cộng đồng va cho quốc gia.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bambooweb,Electricitymarket,

Electricity

market.html.
13


2. World Energy Council, Development of competitive electricity market in te Baltic

3.
4.
5.
6.
7.

States, , 2001.
Ths.Nguyễn Thành Sơn, Hồn thiện phân tích báo cáo tài chính của Cơng ty Điện
lực 3, NXB Đà Nẵng, 2005.
Nguyễn Anh Tuấn, Trần Đăng Khoa, Định hướng xây dựng thị trường điện cạnh
tranh của Tổng Công ty Điện lực Việt Nam, Tạp chí Điện và đời sống số 65, 2004.
Hội Điện lực, Nghiên cứu lộ trình hình thành và phát triển thị trường điện lực Việt
Nam, 2004.
Tổng Công ty Điện lực Việt Nam, Đề án tổng thể sắp xếp đổi mới và phát triển các
doanh nghiệp của Tổng Công ty Điện lực Việt Nam giai đoạn 2004-2010, 2004.
.


8. TS. Nguyễn Thuấn, Kinh tế công cộng, NXB Thống Kê, 2004.

14


15



×