Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Thực hiện và Ảnh hưởng của AFTA đến VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.56 KB, 6 trang )

I. Cam kết của Việt Nam trong AFTA
Trở thành thành viên của ASEAN từ năm 1995, bắt đầu thực hiện Hiệp định ưu đãi thuế
quan có hiệu lực chung (CEPT) nhằm thiết lập AFTA từ năm 1996 nhưng Việt Nam chỉ
thực sự cắt giảm thuế quan từ năm 1999 khi nhóm các mặt hàng đầu tiên từ Danh mục
loại trừ tạm thời (TEL) được chuyển vào cắt giảm thuế quan theo CEPT. Theo quy định
của Hiệp định CEPT, các mặt hàng của Việt Nam được chia thành 2 nhóm chính:
• Nhóm các mặt hàng cắt giảm và xoá bỏ thuế quan: chiếm hầu hết các mặt
hàng, có lộ trình giảm thuế từ năm 1996, giảm thuế suất xuống mức 0-5% vào
năm 2006 và xoá bỏ thuế quan vào năm 2015, với một số mặt hàng được linh
hoạt đến 2018. Ngoài ra, các mặt hàng công nghệ thông tin (phù hợp với diện
mặt hàng của WTO) sẽ được xoá bỏ thuế quan trong 3 năm: 2008-2010. Đồng
thời các mặt hàng thuộc lĩnh vực ưu tiên hội nhập (12 lĩnh vực) sẽ được xoá bỏ
sớm hơn là vào năm 2012 (thay vì 2015), trong đó có 9 lĩnh vực hàng hoá
gồm: gỗ và sản phẩm gỗ, ôtô, cao su, dệt may, sản phẩm nông nghiệp, thuỷ
sản, điện tử, công nghệ thông tin, y tế (thiết bị, thuốc men).
• Nhóm hàng nông sản nhạy cảm: gồm 89 dòng thuế là các mặt hàng nông sản
chưa chế biến, gồm một số loại gạo, hoa quả, thực phẩm, đường. Những mặt
hàng này không phải xoá bỏ thuế quan, có lộ trình giảm thuế từ năm 2004
xuống mức thuế suất cao nhất là 5% vào năm 2013 (trừ mặt hàng đường là
2010).
Để bảo vệ sức khỏe con người, môi trường, giá trị văn hóa, đạo đức hay an ninh, quốc
phòng, các nước được phép loại trừ (không phải cắt giảm thuế) những mặt hàng vì mục
đích này. Trên cơ sở đó, mỗi nước đã tự xây dựng một Danh mục các mặt hàng để loại
trừ khỏi phạm vi thực hiện CEPT (GEL) và đã đưa vào đó những mặt hàng mang tính
bảo hộ. Chính vì vậy, trong vài năm gần đây, các nước đã ráo riết rà soát danh mục GEL
để đưa vào cắt giảm thuế những mặt hàng không phù hợp. Từ năm 2005 đến nay, Việt
Nam đã đưa nhiều mặt hàng GEL vào thực hiện CEPT, trong đó quan trọng nhất là các
thiết bị truyền phát (rađa, điện thoại di động…), đồ uống có cồn (rượu, bia) và ô tô, xe
máy. Danh mục GEL hiện nay của Việt Nam vẫn còn các mặt hàng mà các nước ASEAN
cho là không phù hợp, gồm: thuốc lá (thuốc lá điếu và nguyên liệu), xăng dầu.
Nhằm tiến tới tự do hóa hoàn toàn (ít nhất là về mặt thuế quan), ASEAN đã quyết định


không chỉ dừng lại ở việc giảm thuế xuống 0-5% mà sẽ xóa bỏ thuế quan vào năm 2010
đối với ASEAN 6 (gồm Brunei, Indonesia, Malaysia, Philipin, Singapore và Thái Lan) và
năm 2015 với một số linh hoạt đến 2018 (7% tổng số dòng thuế) đối với CLMV. Như
vậy, với Việt Nam, đến năm 2015, cơ bản các mặt hàng sẽ được xóa bỏ thuế quan trong
khuôn khổ này.
II. Quá trình thực hiện cam kết
Ngày 28/7/1995, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN và cam kết
tham gia AFTA. Thời hạn hoàn thành AFTA của Việt Nam năm 2006. Việt Nam bắt đầu
thực hiện lộ trình giảm thuế quan tham gia AFTA từ ngày 1/1/1996, khi đưa 875 mặt
hàng đầu tiên vào thực hiện CEPT. Tất cả những mặt hàng này đều đã nằm ở khung thuế
suất 0-5%.
Đầu năm 1998, Việt Nam công bố lịch trình giảm thuế để thực hiện AFTA vào năm
2006. Trên thực tế thì đến cuối năm 2002, 5.500 mặt hàng (chiếm khoảng 86% tổng số
mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu) đã được vào chương trình cắt giảm. Toàn bộ các
mặt hàng này đã ở thuế suất dưới 20% và có lộ trình cắt giảm trong thời kỳ 2002-2006.
Trong số đó, 65% đã ở mức thuế 0-5%.
Theo số liệu của tờ Dow Jones, vào những ngày đầu năm 2003, mức thuế suất trung bình
của Việt Nam chỉ hơn 2% một chút, và Việt Nam đang là nước có mức thuế suất trung
bình thấp thứ 3 ASEAN, sau Singapore và Brunei.
Theo đúng lộ trình thì việc cắt giảm thuế tham gia AFTA đã được áp dụng chính thức tại
Việt Nam từ ngày 1/1/2003. Tuy nhiên, ngày 10/1/2003, Bộ Tài chính đã thông báo việc
cắt giảm đó sẽ được thực hiện lùi lại 7 tháng, vào ngày 1/7.
Đến ngày 1/7, 1.416 mặt hàng thuộc TEL được chuyển sang IL. Đa số đó là những mặt
hàng hiện đang được bảo hộ với mức thuế suất rất cao (30-100%), hoặc đang được quản
lý bằng hạn ngạch như xi măng , giấy , hàng điện tử, điện gia dụng , cơ khí, vật liệu xây
dựng
III. Tác động của AFTA tới Việt Nam
Đối chiếu nội dung của AFTA cũng như những tác động có thể có của nó đối với các
nước thành viên nói chung, đối chiếu với tình hình cụ thể và tiến trình thực hiện AFTA
của Việt Nam, AFTA có thể có những tác động trên các mặt chính sau:

1. Thương mại
1.1. Nhập khẩu:
Trong những năm gần đây, hàng hóa từ ASEAN vào Việt Nam chiếm khoảng 25% kim
ngạch nhập khẩu (NK), trong đó nguyên vật liệu dùng cho sản xuất và hàng công nghiệp
chiếm tỷ trọng lớn. Các mặt hàng này đã có thuế suất dưới 5% trước khi thực hiện CEPT.
Vì vậy, AFTA không có tác động trực tiếp tới việc NK những mặt hàng này.
Một số hàng NK có kim ngạch đáng kể ở Việt Nam như xăng dầu, xe máy chưa được
đưa vào danh sách giảm thuế ngay nên trước mắt sẽ nằm ngoài phạm vi tác động của
AFTA.
Về lâu dài, Việt Nam chắc chắn phải đưa thêm những mặt hàng từ danh mục loại trừ tạm
thời có thuế suất trên 20% vào diện cắt giảm ngay, và loại trừ dần các hàng rào phi thuế
quan (nhất là những hạn chế về số lượng nhập khẩu). Khi đó, rất có thể NK, nhất là
những mặt hàng tiêu dùng từ các nước ASEAN vào Việt Nam sẽ tăng lên nếu những mặt
hàng cùng loại sản xuất trong nước không cạnh tranh lại được.
1.2. Xuất khẩu:
a. Xuất khẩu sang các nước ASEAN khác:
Về lý thuyết và dài hạn, AFTA có tác động làm tăng sức cạnh tranh của hàng hóa Việt
Nam trên thị trường ASEAN nhờ giảm thuế quan và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan.
Song trong vài năm tới, khả năng AFTA làm tăng kim ngạch xuất khẩu (XK) của Việt
Nam sang các nước này không lớn do số lượng mặt hàng hưởng thuế suất CEPT hiện tại
chỉ chiếm 20% kim ngạch XK sang ASEAN, hơn nữa, cơ cấu hàng hóa của VN và
ASEAN lại tương đồng, công nghệ thua kém hơn, khác biệt chủ yếu nhờ vào tính độc
đáo, mấu mã nên chỉ mang tính bổ sung, không cạnh tranh trực diện với các đối tác.
Ngoài ra, việc tái xuất thông qua Singapore (chiếm 2/3 doanh số buôn bán) lại chủ yếu
vào các thị trường thuế quan đối với hàng hóa Việt Nam vốn dĩ đã thấp.
Có thể kết luận rằng: Chỉ khi nào Việt Nam tạo được sự dịch chuyển cơ cấu sản xuất và
XK theo hướng tạo ra được nhiều chủng loại hàng hóa có sức cạnh tranh và nằm trong
danh mục cắt giảm của CEPT, các doanh nghiệp Việt Nam mới có thêm thuận lợi về yếu
tố giá cả khi muốn XK sang ASEAN.
b. Về phần XK sang các nước ngoài ASEAN:

Về dài hạn, AFTA có tác động gián tiếp làm tăng kim ngạch XK của Việt Nam sang các
thị trường ngoài ASEAN do nhập được đầu vào cho sản xuất XK với giá rẻ hơn từ các
nước ASEAN. Mặt khác, với tư cách một thành viên của AFTA, Việt Nam có điều kiện
để khai thác những lợi thế mới trong quan hệ thương mại với nước lớn.
Ví dụ, Việt Nam sẽ được hưởng hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập của Mỹ (General
System of Preference - GSP). Bởi GSP quy định "giá trị một sản phẩm được sản xuất tại
một nước thành viên của một hiệp hội kinh tế, khu vực thương mại tự do (như AFTA) thì
được coi là sản phẩm của một nước" và một sản phẩm NK vào Mỹ được hưởng GSP nếu
"giá trị nguyên liệu NK để sản xuất ra nó chiếm dưới 65% giá trị sản phẩm sau khi hoàn
thành thủ tục hải quan vào Mỹ".
Điều đó có nghĩa là các nước ASEAN có thể nhập nguyên liệu từ các nước thành viên
khác để sản xuất hàng XK sang Mỹ, và hàng XK sẽ được hưởng GSP nếu giá trị nguyên
liệu dưới 65% giá trị sản phẩm. Và do đó, AFTA giúp Việt Nam tăng cường tiếp cận và
thâm nhập thị trường Mỹ - đất nước có kim ngạch NK vượt 1000 tỷ USD mỗi năm.
2. Đầu tư nước ngoài
2.1. Đầu tư từ các nước ASEAN khác
AFTA có tác động phân công lại các nguồn lực trong khu vực theo hướng hợp lý hóa.
Khi không còn bảo hộ, một số ngành công nghiệp của một số nước sẽ bộc lộ sự thua kém
về khả năng cạnh tranh, để tồn tại, hoặc để thu được nhiều lợi nhuận hơn, các nhà kinh
doanh trong những ngành này sẽ đầu tư sang các nước ASEAN khác có các yếu tố thuận
lợi hơn, trong đó có Việt Nam.
Ngoài ra, với tiến trình hiện thức hóa Khu vực đầu tư ASEAN (AIA), các nhà đầu tư
ASEAN nói riêng và các nhà đầu tư nước ngoài nói chung sẽ có nhiều thuận lợi về thủ
tục hành chính và tâm lý khi đầu tư vào Việt Nam.
2.2. Đầu tư nước ngoài từ các nước khác
Về lý thuyết, một khu vực thương mại tự do sẽ làm tăng đầu tư từ ngoài khu vực. Đó là
bởi các nhà đầu tư có thể sản xuất hàng hóa tại một hay một số nước và đưa ra tiêu thụ ở
tất cả các nước thành viên với mức thuế thấp và hàng rào thuế quan dần được dỡ bỏ. Khi
các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào một nước, họ sẽ có một thị trường tiềm năng rộng
lớn hơn nhiều lần nước đó.

Áp dụng lý thuyết đó vào AFTA và Việt Nam, thì các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư
vào Việt Nam, họ sẽ không chỉ nghĩ đến một thị trường với 80 triệu dân, mà còn tính đến
cả thị trường ASEAN với trên 500 triệu người.
Tuy nhiên, để tận dụng được những cơ hội thu hút đầu tư từ các nước khác mà AFTA
đem lại, Việt Nam cần phải tiếp tục cải thiện một cách đồng bộ và toàn diện môi trường
đầu tư. Thuế thấp sẽ mất đi ý nghĩa thu hút đầu tư nước ngoài nếu không đi kèm với sự
ổn định chính trị, xã hội, luật đầu tư nước ngoài thông thoáng, nguồn lao động giá rẻ và
có tay nghề cao…
3. Công nghiệp
Về lâu dài, khi các ngành công nghiệp của những nước thành viên không còn được bảo
hộ, AFTA sẽ làm thay đổi cơ cấu công nghiệp khu vực theo hướng chuyên môn hóa và
phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý hơn. Nhưng đây là sự thay đổi và phân bổ mang
tính động và phụ thuộc chủ yếu vào sự lựa chọn và nỗ lực chủ quan của từng nước.
Tuy vậy, AFTA cũng tạo cho chúng ta điều kiện và thời gian để chuẩn bị và vươn lên để
có thể đứng vững và phát triển vì:
Thứ nhất, mọi thời hạn thực hiện và hoàn thành AFTA/CEPT đối với Việt Nam được
cộng thêm 3 năm;
Thứ hai, cũng như các nước ASEAN khác, Việt Nam không cần phải đưa ngay một lúc
tất cả các danh mục hàng hóa vào chương trình giảm thuế. Những mặt hàng nào có tỷ
trọng NK cao và có khối lượng giá trị tiêu thụ lớn trên thị trường nội địa có thể sẽ đưa
vào giảm thuế chậm hơn;
Thứ ba, sau khi một mặt hàng được giảm thuế, các hàng rào phi thuế quan (nếu có đối
với mặt hàng đó) sau đó 5 năm mới phải xóa bỏ;
Thứ tư, việc cắt giảm thuế NK đối với một số nguyên liệu, sản phẩm đầu vào sẽ làm giảm
chi phí sản xuất và do vậy, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh cho một số sản phẩm
công nghiệp.
Trên cơ sở định hướng phát triển công nghiệp theo cơ chế kinh tế mở, Nhà nước cần tạo
môi trường thuận lợi và đầu tư thích đáng, đồng thời áp dụng các biện pháp bảo hộ hợp lý
trong thời gian cho phép để các ngành có tiềm năng phát triển có thể cạnh tranh không
những trên thị trường trong nước mà còn trong khu vực và trên thế giới.

4. Ngân sách nhà nước
Tham gia AFTA và thực hiện chương trình cắt giảm thuế quan theo CEPT chắc chắn sẽ
tác động tới nguồn thu cho ngân sách, ít nhất là trong giai đoạn đầu khi Việt Nam thực sự
cắt giảm thuế quan, tức là từ 1/7 năm nay. Theo số liệu những năm gần đây, NK từ các
nước ASEAN chiếm khoảng 20-23% kim ngạch NK của Việt Nam, trong khi đó, thuế
NK (trừ dầu thô) đóng góp khoảng 25% tổng số thu ngân sách. Như vậy, về mặt số học
đơn thuần, khi cắt giảm thuế quan, rõ ràng nguồn thu ngân sách sẽ bị giảm.
Về dài hạn, AFTA sẽ làm tăng hiệu quả sản xuất trong nước. Như vậy, cơ sở để tính toán
rằng, về dài hạn, phần giảm của thuế NK do thực hiện CEPT sẽ được bù lại bằng tăng thu
do kim ngạch buôn bán tăng và tăng thu từ các loại thuế khác như thuế giá trị gia tăng,
thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập công ty
Tóm lại, tham gia ASEAN và AFTA là bước đi tất yếu đầu tiên của Việt Nam trên con
đường hội nhập với khu vực và thế giới. Sự kiện này mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội
mới cũng như nhiều thách thức to lớn. Cơ hội và thách thức đan xen lẫn nhau, đòi hỏi sự
nỗ lực cả tầm vĩ mô và vi mô để khai thác triệt để các cơ hội và hạn chế đến mức thấp
nhất ảnh hưởng tiêu cực do các thách thức đưa đến.
Không nên coi việc thực hiện AFTA như một quá trình hay hành động riêng biệt, mà phải
đặt nó trong lộ trình hội nhập và tự do hóa thương mại tổng thể, trong đó, mục tiêu nhất
quán được xác định bởi khuôn khổ WTO.

×