HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I
NGUYỄN THẾ DUẨN
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ
QUẬN TÂY HỒ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Quản lý Kinh tế
Mã số: 60340410
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS MAI VĂN BƯU
Hà Nội, tháng 6 năm 2015
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố
trong bất cứ công trình nào.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thế Duẩn
i
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Luận văn này, em xin trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc
Học viện Chính trị khu vực I đã tạo điều kiện cho em trong suốt quá trình học tập;
Cảm ơn sự giúp đỡ, hướng dẫn của Thầy cô giáo Khoa Quản lý kinh tế, Ban Đào
tạo sau Đại học; Cảm ơn lãnh đạo Quận ủy, UBND, Ban Tổ chức quận ủy và phòng
Nội vụ quận Tây Hồ. Đặc biệt em xin cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của PSG, TS.
Mai Văn Bưu, đã giúp em trong quá trình hoàn thành Đề tài Luận văn. Bản thân em
đã cố gắng song do năng lực, điều kiện còn hạn chế không tránh khỏi những thiếu
sót. Vì vậy em rất mong nhận được những ý kiến góp ý của Thầy cô giáo, cơ quan
quản lý để em hoàn thiện hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn!
Học viên
Nguyễn Thế Duẩn
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
iii
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại của sự nghiệp cách
mạng, “là cái gốc của mọi công việc”, Đảng và Nhà nước ta luôn chăm lo, xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức gắn với nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã khẳng định “công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay
kém”[ Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia , tr.273]. Nghị
quyết Đại hội VIII, Đại hội IX và Đại hội X của Đảng đã đặt vấn đề xây dựng đội ngũ
cán bộ là công việc hệ trọng của sự nghiệp đổi mới đất nước. Việc xây dựng đội ngũ
cán bộ “vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí
tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân”
[ Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ I X, tr.141] đang là mối quan tâm hàng đầu và là điều kiện
sống còn của Đảng và Nhà nước ta.
Kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, nền kinh tế Việt Nam đã có
những chuyển biến quan trọng, từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung chuyển
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì thế chức năng, nhiệm
vụ của Nhà nước cũng có những thay đổi đáng kể. Chức năng mới, nhiệm vụ mới
đòi hỏi phải tiến hành cải cách nền hành chính nhà nước, mà nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu là phải xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và cán bộ,
công chức quản lý nhà nước về kinh tế nói riêng có đủ phẩm chất, trình độ và năng
lực trong quản lý nền kinh tế thị trường.
Trong những năm gần đây, đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về
kinh tế bước đầu đã được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về kinh tế thị trường, về
quản lý nhà nước, hành chính, pháp luật, ngoại ngữ, … Tuy nhiên so với yêu cầu,
nhiệm vụ mới đang đặt ra, chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà
nước về kinh tế hiện nay chưa đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn. Về năng lực xây dựng
chính sách, tổ chức điều hành, thực thi công vụ còn hạn chế, thiếu cán bộ khoa học,
chuyên gia giỏi, cộng với xu hướng cạnh tranh, thu hút nhân tài từ khu vực kinh
2
tế nước ngoài và kinh tế tư nhân đang làm cho chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức quản lý nhà nước về kinh tế chậm được cải thiện. Mặt khác, vẫn còn một bộ
phận cán bộ, công chức sa sút về phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm, biểu
hiện là bệnh quan liêu, hách dịch và tham nhũng
Quận Tây Hồ được thành lập ngày 28 tháng 10 năm 1995, nằm ở phía Tây
Bắc của thành phố Hà Nội. Theo định hướng phát triển của Thủ đô Hà Nội đến
năm 2020, toàn bộ quận Tây Hồ nằm trong khu vực Thành phố trung tâm và
được xác định là trung tâm văn hoá, du lịch, dịch vụ và là vùng bảo vệ cảnh quan
thiên nhiên của Thủ đô Hà Nội. Đây là thời cơ cũng là thách thức đối với Đảng
bộ, chính quyền quận Tây Hồ. Vì vậy, công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế -
xã hội, củng cố hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ quan trọng
và cấp bách hàng đầu, đặc biệt là phải nhanh chóng xây dựng và nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế vững mạnh, đồng
bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ mới.
Xuất phát từ thực tế trên, tôi chọn đề tài “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức quản lý nhà nước về kinh tế quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội” cho luận
văn Thạc sỹ, chuyên ngành Quản lý Kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua đã có một số công trình, đề tài nghiên cứu khoa học liên
quan đến nội dung của đề tài này. Dưới đây là một số công trình tiêu biểu:
- Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết về chiến lược cán bộ thời kỳ
đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước (Nghị quyết Trung ương 3, khóa VII; Nghị quyết
Trung ương 3, 7 khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 6, khóa IX, Nghị quyết Trung
ương 9, khóa X);
- Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ, năm 1997), đề tài cấp
Bộ: Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức;
- Trần Huy Sáng (1999), Luận án Tiến sỹ Kinh tế, Học Viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh: Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước
về kinh tế ở các huyện (qua thực tế các huyện ngoại thành Hà Nội);
3
- GS.TS Nguyễn Phú Trọng, PGS.TS Trần Xuân Sầm (2003), đề tài nghiên cứu
khoa học, công nghệ cấp Nhà nước: Luận chứng khoa học cho việc nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước;
- Lê Khắc Ngọc (2008), Luận văn Thạc sỹ Kinh tế, Học Viện Chính trị
-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh: Giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
quản lý nhà nước về kinh tế cấp cơ sở tỉnh Thanh Hóa;
- Trần Văn Tuấn, Bộ trưởng Bộ Nội vụ “Tiếp tục đổi mới tổ chức bộ máy
Nhà nước và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong tình hình hiện nay”. Tạp
chí Cộng sản, Số 22 (142) năm 2007; “Để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức”. Tạp chí Cộng sản, Số 22 (166) năm 2008;
- Vũ Khoan, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ “Công tác cán bộ trong tình
hình mới”. Tạp chí Xây dựng Đảng, mục Lý luận - Thực tiễn - Kinh nghiệm. Địa
chỉ ; cập nhật ngày 05 tháng 6 năm 2008.
Các công trình trên đã đề cập đến nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, về đội ngũ cán bộ, công chức quản
lý nhà nước về kinh tế nói riêng. Tuy nhiên cho đến nay chưa có công trình nào
nghiên cứu riêng về đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế quận
Tây Hồ, thành phố Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của Luận văn đề xuất một số định hướng và giải pháp
hoàn thiện công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh
tế cấp quận ở quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội.
Để đạt được mục đích nói trên, Luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa có bổ sung cơ sở lý luận về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
quản lý nhà nước về kinh tế cấp quận ở Việt Nam;
- Phân tích thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước
về kinh tế cấp quận ở quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội;
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
quản lý nhà nước về kinh tế cấp quận ở quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội.
4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu: Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản
lý nhà nước về kinh tế cấp quận, xét trên hai mặt chủ yếu:
- Tổ chức xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế ở
các khâu tuyển dụng, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm,
luân chuyển và bộ máy quản lý cán bộ, công chức.
- Cơ chế chính sách đối với đội ngũ cán bộ, công chức.
* Phạm vi nghiên cứu: Quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội. Thời gian nghiên
cứu, khảo sát thực trạng là giai đoạn 2010-2014 và đề xuất giải pháp đến năm 2020,
định hướng đến năm 2030.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác-Lênin vận dụng vào điều kiện thực tế tại địa phương.
- Kế thừa có chọn lọc kết quả các công trình nghiên cứu liên quan.
- Ngoài ra, còn sử dụng một số phương pháp: phân tích, tổng hợp, hệ thống,
so sánh, thống kê dựa trên những tài liệu, tư liệu, báo cáo, kết luận, … của địa
phương và toàn quốc.
6. Đóng góp của luận văn
- Khẳng định sự cần thiết phải xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý
nhà nước về kinh tế cấp quận ở quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội trong giai đoạn
hiện nay. Góp phần hoàn thiện khung lý luận về xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức quản lý nhà nước về kinh tế tại cấp quận ở nước ta.
- Đánh giá một cách thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý
nhà nước về kinh tế cấp quận ở quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội.
- Đề xuất các giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về
kinh tế cấp quận ở quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội đến năm 2020.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
Luận văn được kết cấu thành 3 chương.
5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ
CẤP QUẬN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1. ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
KINH TẾ CẤP QUẬN
1.1.1. Khái niệm đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế
cấp quận
* Cán bộ là khái niệm quen thuộc trong đời sống chính trị, xã hội. Khái niệm
cán bộ thường được hiểu theo hai nghĩa: Cán bộ là người làm công tác có nghiệp vụ
chuyên môn trong cơ quan nhà nước; cán bộ là người làm công tác có chức vụ trong
một chính quyền, một tổ chức, phân biệt với người thường, không có chức vụ [ Từ
điển tiếng Việt, tr.125-126].
Hay cụ thể hơn: Cán bộ là người làm công tác, có nghiệp vụ chuyên môn trong
một cơ quan, một tổ chức của hệ thống chính trị, có trình độ đào tạo từ trung cấp trở lên;
cán bộ là người làm công tác có chức vụ, phân biệt với người không có chức vụ, trong
các cơ quan, tổ chức, của hệ thống chính trị [12, tr.315].
Hệ thống chính trị ở nước ta dựa trên nguyên tắc cơ bản “tất cả quyền lực
thuộc về nhân dân”, là hệ thống tổ chức mà qua đó nhân dân lao động thực hiện
quyền lực chính trị của mình. Hệ thống đó bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên. Vì vậy, nói đến cán bộ là nói tới
những người công tác trong các cơ quan, đơn vị, tổ chức thuộc hệ thống chính trị.
* Công chức: Khái niệm công chức gắn liền với chế độ công chức ra đời ở các
nước tư bản phương Tây, từ nửa cuối thế kỷ XIX. Công chức được hiểu là những
công dân được tuyển dụng bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong một công
sở của Nhà nước ở Trung ương hay địa phương, ở trong nước hay ở ngoài nước, đã
được xếp vào một ngạch và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước [10, tr.12].
Theo Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998, bổ sung sửa đổi một số điều
6
năm 2003 thì những người làm việc trong các cơ quan nhà nước nhưng theo chế độ
hợp đồng lao động, tập sự hoặc được bổ nhiệm làm quản lý trong các doanh nghiệp
Nhà nước nhưng không hưởng lương từ ngân sách, không theo chế độ tuyển dụng
thì không phải là công chức.
Luật cán bộ, công chức được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam công bố ngày 28-11-2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2010, quy định:
“Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức
vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội Trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau
đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”
[ Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam ].
“Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ,
chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính
trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân
đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc
phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan,
hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp
công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau
đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị
sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp
công lập theo quy định của pháp luật” [ Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam ].
“Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt
Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính
trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức
danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước” [ Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam ].
7
* Cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế
Quản lý nhà nước về kinh tế là sự tác động của các cơ quan QLNN có chức năng,
thẩm quyền nhất định đối với các quá trình kinh tế, các đơn vị kinh tế cơ sở, các
ngành, địa phương, vùng kinh tế cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân thông qua
pháp luật, chính sách, công cụ, lực lượng vật chất và tài chính, ở tất cả các lĩnh vực,
các thành phần kinh tế nhằm mục tiêu định trước. Trong xu thế mới hiện nay, vai
trò của QLNN ngày càng quan trọng. Song, vai trò đó có được phát huy hay không
còn phụ thuộc vào đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy QLNN về kinh tế.
Quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta không có bộ máy riêng. Bộ máy
QLNN về kinh tế là một bộ phận cán bộ, công chức chuyên về QLNN về kinh tế
trong hệ thống bộ máy QLNN nói chung.
Vậy có thể hiểu: Cán bộ, công chức QLNN về kinh tế là những người làm
việc trong bộ máy nhà nước thực hiện chức năng QLNN về kinh tế. Hay nói cách
khác đó chính là bộ phận cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước thực hiện
chức năng QLNN về kinh tế.
1.1.2. Cơ cấu đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế cấp quận
Đội ngũ cán bộ, công chức QLNN về kinh tế có thể phân loại theo những
tiêu chí khác nhau, tùy thuộc vào đặc điểm và mục đích nghiên cứu.
Dựa vào vị trí, tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ, công chức QLNN về kinh tế
người ta chia thành 3 nhóm: Nhóm các nhà hoạch định chính sách kinh tế; nhóm các
chuyên gia phân tích kinh tế; nhóm các nhân viên nghiệp vụ - kỹ thuật.
Dựa vào phân cấp quản lý, đội ngũ cán bộ, công chức QLNN về kinh tế được
phân thành 3 loại: Cán bộ, công chức QLNN về kinh tế cấp Trung ương; cán bộ, công
chức QLNN về kinh tế cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và quận, huyện; cán
bộ, công chức QLNN về kinh tế cấp xã, phường, thị trấn.
Theo cấp bậc quản lý của hệ thống, đội ngũ này được phân thành: Nhóm cấp
cao; nhóm cấp trung; nhóm cấp cơ sở.
8
Dựa vào lĩnh vực, ngành nghề phân chia đội ngũ này thành cán bộ, công
chức QLNN về kinh tế thành: ngành công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, dịch
vụ, tài chính, …
Cách phân phân loại trên chỉ có ý nghĩa tương đối vì trong thực tế, nhất là ở
cấp quản lý trung gian và cấp cơ sở, đội ngũ cán bộ, công chức QLNN về kinh tế
còn kiêm nhiệm rất nhiều công việc khác.
Từ khái niệm và cách phân loại cán bộ, công chức QLNN về kinh tế có thề
xác định cán bộ, công chức QLNN về kinh tế cấp quận bao gồm những người làm
việc trong các cơ quan, đơn vị sau:
- Thường trực HĐND, UBND quận (Chủ tịch và các Phó chủ tịch).
- Văn phòng HĐND & UBND quận
- Phòng Nội vụ
- Phòng Tài chính - Kế hoạch
- Phòng Kinh tế
- Phòng Lao động, Thương binh và Xã hội
- Phòng Tài nguyên và Môi trường
- Phòng Tư pháp
- Thanh tra
- Phòng Quản lý đô thị
- Thanh tra xây dựng
Sự phân chia theo cấp độ phòng, ban trên đây cũng chỉ mang tính tương đối và đại
diện. Thực tế, còn phụ thuộc vào quy định tổ chức hành chính của Chính phủ trong
từng giai đoạn và phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế - xã hội của từng địa phương.
1.1.3. Vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế
cấp quận
Ngày nay các quốc gia trên thế giới đều ý thức được tầm quan trọng của
nguồn tài nguyên nhân lực trong công cuộc phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Với vai trò là những người hoạch định chính sách và quản lý các sự vụ công, đội
ngũ cán bộ, công chức nhà nước là lực lượng quan trọng, dẫn đường cho công cuộc
9
phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ, công
chức nhà nước là yếu tố quyết định đến hiệu quả hoạt động của Nhà nước, đến năng
lực cạnh tranh của mỗi quốc gia.
Trong nền kinh tế thị trường, vai trò QLNN về kinh tế có xu hướng tăng lên.
Sự vận hành của hệ thống chính sách và các công cụ quản lý kinh tế có hiệu quả
hay không phần lớn phụ thuộc vào khả năng, trình độ của đội ngũ cán bộ, công
chức QLNN về kinh tế. Nước ta đang từng bước xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, vì vậy, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức QLNN về kinh tế
ngày càng nổi trội, là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định đến sự thành
công hay thất bại của sự nghiệp đổi mới đất nước. Vai trò đó được thể hiện như sau:
- Cán bộ, công chức QLNN về kinh tế có vai trò quyết định trong việc hoạch
định đường lối, chiến lược, chủ trương, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chính
sách, cơ chế quản lý và hệ thống pháp luật kinh tế trong phạm vi cả nước, từng
ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương.
- Là bộ phận quan trọng trong quá trình triển khai và tổ chức thực hiện
đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước; là đội ngũ tiếp thu, chọn lọc, tổng
kết thực tiễn, góp phần hoàn thiện đường lối, chiến lược phát triển kinh tế.
- Là đội ngũ đảm nhiệm phần lớn các hoạt động kinh tế - xã hội của bộ máy
nhà nước, mà trước hết là việc thực hiện các chức năng quản lý như: dự báo, kế
hoạch, tổ chức. điều khiển, kiểm tra, điều chỉnh, …
- Là những người trực tiếp tạo môi trường, điều kiện và sử dụng công cụ,
thực lực kinh tế để quản lý, điều tiết nền kinh tế thị trường.
Ngày nay, trong điều kiện kinh tế thị trường và xu thế hội nhập kinh tế quốc
tế, mọi quốc gia phải luôn có những điều chỉnh linh hoạt về cơ chế, chính sách để
khai thác những lợi thế, hạn chế yếu tố bất lợi và phải phù hợp với luật pháp, quy
định, thông lệ quốc tế. Vì vậy, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức QLNN về kinh
tế càng trở nên quan trọng và được thể hiện:
- Các mô hình phát triển kinh tế trên thế giới ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp
hơn, việc lựa chọn con đường đi đúng đắn, phù hợp với thực tế khách quan trong
10
nước và quốc tế phụ thuộc nhiều vào đội ngũ cán bộ, công chức QLNN về kinh tế.
- Sản xuất xã hội ngày càng phát triển toàn diện khiến cạnh tranh trên thị
trường càng quyết liệt, làm tăng nhanh số lượng các phương án quản lý, vì vậy việc
lựa chọn phương án tối ưu trở nên khó khăn, phức tạp hơn. Đòi hỏi đội ngũ cán bộ,
công chức QLNN về kinh tế phải có có tài năng, có trình độ để có thể lựa chọn
được những phương án tốt nhất.
- Sự xuất hiện của hệ thống thông tin mới gồm cả thông tin quản lý đã và
đang được mở rộng, đòi hỏi cán bộ, công chức QLNN về kinh tế phải có đủ năng
lực xử lý thông tin để có thể ra quyết định một cách có hiệu quả.
- Sự đổi mới trong bản thân hệ thống quản lý từ cơ cấu kinh tế, cơ chế quản
lý, bộ máy quản lý đòi hỏi cán bộ, công chức QLNN về kinh tế phải vừa đổi mới
kiến thức, nâng cao nghiệp vụ, kỹ năng quản lý, vừa nâng cao trách nhiệm quản lý,
lãnh đạo, ở tất cả các khâu, các cấp quản lý.
1.1.4. Yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về
kinh tế cấp quận
1.1.4.1. Yêu cầu về chất lượng đối với đội ngũ cán bộ, công chức quản lý
nhà nước về kinh tế cấp quận
Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước cùng với tác động của kinh tế
thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi cán bộ, công chức QLNN về kinh tế
phải đáp ứng những tiêu chuẩn mới, khác căn bản so với thời kỳ trước đây. Vì vậy,
ngoài tiêu chuẩn chung đối với cán bộ, công chức cần xây dựng tiêu chuẩn cụ thể
đối với từng loại cán bộ, công chức trong từng lĩnh vực công tác. Tiêu chuẩn cán
bộ, công chức là cơ sở để thực hiện các khâu từ tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, sử
dụng, đề bạt, bổ nhiệm, quản lý cán bộ, nhằm tạo động lực mạnh mẽ trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cán bộ, công chức QLNN về kinh tế cấp quận phải đảm bảo những yêu cầu sau:
* Về phẩm chất: Phẩm chất là nền tảng làm nên giá trị của cán bộ, công
chức. Bao gồm phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức.
- Về phẩm chầt chính trị: Phẩm chầt chính trị là yếu tố cơ bản, có ý nghĩa
11
quan trọng đối với tất cả cán bộ, công chức. Biểu hiện cao nhất, tập trung nhất về phẩm
chất chính trị của từng cán bộ, công chức QLNN về kinh tế cấp quận hiện nay là nắm
vững, quán triệt được quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng. Phải có khả năng cụ thể
hóa quan điểm, đường lối vào nội dung quản lý, phù hợp với tình hình, đặc điểm kinh
tế - xã hội của địa phương.
Phẩm chất chính trị không trừu tượng, khó hiểu mà phải được thể hiện ở
những việc làm, những đóng góp và cống hiến của người cán bộ, công chức vào sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Cán bộ, công chức QLNN cấp quận là một bộ phận của cán bộ, công chức
nói chung, vì vậy, phải đảm bảo những yêu cầu về phẩm chất chính trị cho mỗi cán
bộ, công chức nói chung là:
Trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chấp hành
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tích cực đóng
góp cho công cuộc đổi mới đất nước.
Có quan điểm, lập trường tư tưởng vững vàng, có bản lĩnh và kiên định thực
hiện nhiệm vụ được giao. Có ý chí vươn lên, có khả năng làm giàu cho tập thể, xã
hội, gia đình và bản thân. Làm giàu theo nghĩa đầy đủ nhất là giàu về tri thức, về
đạo đức, lối sống và giàu có về đời sống vật chất.
Năng động, sáng tạo trong công việc; có khả năng tự hoàn thiện, tự quản lý,
tự đánh giá kết quả công việc của bản thân; biết quản lý, đánh giá đúng cán bộ cấp
dưới; biết tạo sự đồng thuận trong công việc, có khả năng biến nhận thức của mình
thành nhận thức chung của mọi người, tạo được lòng tin và lôi cuốn mọi người
tham gia, có uy tín đối với đồng nghiệp và bạn bè.
- Về phẩm chất đạo đức, lối sống: Cán bộ, công chức QLNN về kinh tế cấp
quận ngoài những yêu cầu về phẩm chất đạo đức của người cán bộ cách mạng còn
đòi hỏi những phẩm chất, đạo đức theo tiêu chuẩn sau:
Sống và làm việc theo tiêu chuẩn đạo đức của một công dân. Lấy việc
gương mẫu sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật là tiêu chuẩn đạo đức cơ
bản, phải luôn gương mẫu trước nhân dân. Đồng thời mỗi cán bộ, công chức phải
12
tích cực học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Phải liêm khiết, khiêm tốn, trung thực, thẳng thắn, không vụ lợi. Vì cán bộ,
công chức QLNN về kinh tế là những người thường xuyên tiếp xúc với những vấn
đề kinh tế, gắn liền với lợi ích vật chất. Đặc biệt đối với cấp quận là vấn đề quản lý
đất đai, quản lý các dự án trên địa bàn, Nếu cán bộ, công chức không giữ được
phẩm chất đạo đức tốt rất dễ dẫn đến việc lợi dụng chức quyền, nhũng nhiễu nhằm
thu lợi cho bản thân.
Phải biết chăm lo cho mọi người, tập thể, cộng đồng biểu hiện qua việc làm phải
công bằng, công tâm, khách quan, có văn hóa, tôn trọng và yêu thương con người.
* Về năng lực chuyên môn, trình độ tổ chức quản lý
Năng lực của cán bộ quản lý là khả năng hoàn thành có kết quả một loại hoạt
động nhất định. Năng lực được chia thành hai nhóm: năng lực chuyên môn và năng
lực tổ chức quản lý.
- Về năng lực chuyên môn
Có kiến thức chuyên môn về lĩnh vực được giao trách nhiệm quản lý, biết sử
dụng và tập hợp các chuyên gia giỏi, các cán bộ chuyên môn dưới quyền.
Có kiến thức khoa học quản lý hiện đại, có phương pháp làm việc chuyên
nghiệp ở mọi cấp quản lý; có kiến thức về kinh tế thị trường; kiến thức về kinh tế
học, Luật kinh tế, thị trường tài chính,…
Trong hoạt động quản lý phải biết xuất phát từ thực tế sản xuất, thực tế của
địa phương, thực tế đời sống kinh tế - xã hội để tìm lời giải, biện pháp cụ thể, tránh
giáo điều, sách vở.
Trong điều kiện kinh tế hiện nay, cán bộ, công chức QLNN về kinh tế cần phải
có kiến thức về luật pháp quốc tế; có trình độ ngoại giao, ngoại ngữ, tin học để có thể cập
nhật những thông tin mới, bổ sung những tri thức mới của nhân loại.
Ngoài những yêu cầu chung nói trên, cán bộ, công chức QLNN về kinh tế cấp
quận, huyện còn cần phải am hiểu về địa phương, hiểu biết về phong tục, tập quán, con
người của địa phương và có khả năng truyền đạt, thuyết phục người dân.
- Về trình độ tổ chức quản lý
13
Là người có bản lĩnh, có khả năng nhạy cảm, linh hoạt, khả năng quan sát
nắm được các nhiệm vụ từ tổng thể tới chi tiết để tổ chức cho hệ thống hoạt động
đồng bộ, có hiệu quả.
Là người bình tĩnh, tự chủ nhưng quyết đoán, dứt khoát trong công việc, có kế
hoạch làm việc rõ ràng và tiến hành công việc nhất quán theo kế hoạch.
Là người năng động, sáng tạo, tháo vát, phản ứng nhanh nhạy, dám nghĩ,
dám làm, dám mạo hiểm, dám chịu trách nhiệm, luôn biết lường trước mọi tình
huống có thể xảy ra, biết tập trung tiềm lực vào các khâu yếu, biết tận dụng thời cơ
có lợi cho hệ thống.
Là người có tác phong đúng mực, thông cảm và hiểu cấp dưới, có thái độ chân
thành, đồng thời biết xây dựng tập thể đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau.
Biết sử dụng, đánh giá đúng người, đúng việc; biết xử lý tốt các mối quan hệ
trong và ngoài hệ thống, với người dưới quyền và với cấp trên, …
1.1.4.2. Yêu cầu về số lượng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về
kinh tế cấp quận
Khi có tổ chức bộ máy sẽ đòi hỏi về mặt số lượng cán bộ, công chức phù hợp
để vận hành. Đối với cơ quan hành chính cấp quận, số lượng cán bộ, công chức
thực hiện theo chỉ tiêu biên chế hàng năm do Ban Thường vụ Thành ủy quy định.
Ban tổ chức quận và phòng Nội vụ quận giúp Ban Thường vụ quận và Thường trực
UNBD quận trực tiếp quản lý đội ngũ này. Hàng năm, căn cứ vào việc dự báo số
lượng, yêu cầu công việc và năng lực cán bộ, công chức hiện có để xác định chỉ tiêu
biên chế nhằm đảm bảo đúng, đủ về số lượng cán bộ, công chức, đáp ứng yêu cầu
hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị tại địa phương.
1.1.4.3. Yêu cầu về cơ cấu đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về
kinh tế cấp quận
Cơ cấu cán bộ, công chức phải đủ theo ba độ tuổi để đảm bảo tính kế thừa,
chuyển tiếp giữa các thế hệ. Thông thường được phân theo ba nhóm tuổi: dưới 30
tuổi; từ 30 đến 50 tuổi (với nam) và đến 45 (với nữ); từ 50 đến 60 tuổi (với nam) và
đến 55 tuổi (với nữ).
14
Đảm bảo cơ cấu hợp lý về giới tính, dân tộc, lãnh thổ …trong tình hình hiện
nay, cơ cấu cán bộ, công chức phải ưu tiên nâng dần tỷ lệ cán bộ, công chức nữ,
người dân tộc thiểu số.
Cơ cấu hợp lý về lĩnh vực, ngành nghề được đào tạo của đội ngũ cán bộ, công
chức QLNN về kinh tế đảm bảo phù hợp với đặc thù ở mỗi cơ quan, đơn vị.
Đảm bảo tỷ lệ thích hợp giữa các nhóm cán bộ, công chức QLNN về kinh
tế: nhóm lãnh đạo, quản lý; nhóm cán bộ, công chức tham mưu, thừa hành và nhóm
cán bộ, công chức có tính chất phục vụ…
Việc xác định cơ cấu cán bộ, công chức QLNN về kinh tế cấp quận trong từng
thời kỳ được xây dựng trên cơ sở định hướng quy hoạch phát triển chung của cấp
Thành phố và căn cứ vào vị trí, đặc điểm, tình hình cụ thể của quận.
1.2. XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ KINH TẾ CẤP QUẬN
1.2.1. Khái niệm, mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý
nhà nước về kinh tế cấp quận
1.2.1.1 Khái niệm xây dựng đôi ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về
kinh tế cấp quận
Xây dựng đôi ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế cấp quận là
quá trình chính quyền cấp quận thực hiện đồng bộ các hoạt động từ xác định tiêu
chuẩn, quy hoạch, tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng đến sử dụng, đánh giá và tạo động
lực làm việc cho đội ngũ cán bộ, công chức nhằm phát triển đội ngũ cán bộ,công
chức về số lượng chất lượng và cơ cấu hà hiệu quả công tác, dưới sự lãnh đạo Đảng
ủy cấp quận.
1.2.1.2 Mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về
kinh tế.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế nhằm hình
thành và phát triển đội ngũ công chức đáp ứng tốt nhất yêu cầu về số lượng, chất
lượng và cơ cấu cho sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội.
Sự nghiệp phát triển kinh tế cần có đội ngũ những cán bộ công chức quản lý
15
kinh tế không chỉ có phẩm chất đạo đực tốt, có lòng trung thành với Đảng và nhân
dân mà còn cần có năng lực chuyên môn, nhất là năng lực quản lý kinh tế.
Nâng cao năng lực quản lý kinh tế và hiệu quả công tác của đội ngũ cán bộ
công chức quản lý kinh tế là mục tiêu quan trọng, là tiêu chí đánh giá chủ yếu công
tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức.
1.2.2. Nội dung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về
kinh tế cấp quận
1.2.2.1. Xây dựng tiêu chuẩn cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế
cấp quận
Khâu đầu tiên, hết sức quan trọng trong công tác cán bộ là việc xác định cho
rõ hệ tiêu chuẩn của từng loại hình cán bộ, công chức. Đây có thể coi là thước đo, là
căn cứ để thực hiện các khâu trong công tác cán bộ. Nếu không xây dựng được hệ
tiêu chuẩn phù hợp sẽ rất khó tiến hành quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng, đánh
giá cán bộ một cách chuẩn xác.
Tiêu chuẩn đánh giá cán bộ, công chức là những yêu cầu cụ thể, chi tiết đặt
ra cho mỗi loại cán bộ, công chức trên cơ sở những quy định về đức, về tài mà mỗi
cán bộ, công chức cần có. Dựa vào những tiêu chuẩn này, các cơ quan quản lý có
thẩm quyền xem xét đánh giá, quy hoạch, đào tạo, sử dụng, bổ nhiệm, cán bộ,
công chức hoặc để các thành viên tham gia bầu cử lựa chọn người để bầu vào cơ
quan lãnh đạo; mặt khác cũng là căn cứ, là mục tiêu để mỗi cán bộ, công chức tự
rèn luyện, phấn đấu nhằm hoàn thiện bản thân.
Việc xây dựng và cụ thể hóa tiêu chuẩn cán bộ, công chức phải được xuất
phát từ những quan điểm, nguyên tắc cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước về công tác cán bộ; đồng thời phải căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng
trong từng thời kỳ nhất định, vào vai trò, chức năng nhiệm vụ của từng loại tổ chức,
từng chức danh cán bộ.
Tiêu chuẩn chung của cán bộ, công chức QLNN về kinh tế cấp quận
trong thời kỳ mới của sự nghiệp cách mạng, trước hết là “có tinh thần yêu nước
16
sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Không tham
nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật.
Trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín
nhiệm. Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; có trình độ văn hóa, chuyên môn,
đủ năng lực và sức khỏe để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
được giao” [28]. Các tiêu chuẩn đó có quan hệ mật thiết với nhau. Coi trọng cả
đức và tài, trong đó đức là “gốc”.
Trong thực tế, cần lưu ý phân biệt rõ giữa điều kiện và tiêu chuẩn cán bộ, công
chức. Điều kiện là những yếu tố cần, yếu tố bắt buộc phải có đối với mỗi cán bộ, công
chức; tiêu chuẩn bao hàm nội dung rộng hơn, đầy đủ hơn, là thước đo chất lượng của cán
bộ, công chức. Khắc phục tình trạng lấy điều kiện cần có của cán bộ, công chức như
bằng cấp, học vị, độ tuổi, quá trình công tác,… để thay thế cho những tiêu chuẩn như
phẩm chất đạo đức, kiến thức, năng lực công tác, …
Đối với cán bộ giữ chức vụ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân ở
quận, huyện còn phải: Có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp
công nhân, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác - Lê-
nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Có năng lực dự báo và định hướng sự phát triển, tổng
kết thực tiễn, tham gia xây dựng đường lối, chính sách, pháp luật; có khả năng
thuyết phục được nhân dân tổ chức thực hiện. Có ý thức và khả năng đấu tranh bảo
vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Gương
mẫu về đạo đức, lối sống. Có tác phong dân chủ, khoa học, có khả năng tập hợp
quần chúng, đoàn kết cán bộ. Có kiến thức về khoa học lãnh đạo quản lý. Bên cạnh
đó, cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước và đoàn thể cần được học tập có hệ thống ở các
trường của Đảng; có kinh nghiệm qua hoạt động thực tiễn [18].
1.2.2.2. Quy hoạch đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế cấp quận
Trong Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
17
nước, Đảng ta đã chỉ rõ: “Quy hoạch cán bộ là một nội dung trọng yếu của công tác
cán bộ, đảm bảo cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, chủ động, có tầm nhìn xa, đáp
ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài ”[4].
* Mục đích của công tác quy hoạch cán bộ là
- Tạo sự chủ động, có tầm nhìn chiến lược trong công tác cán bộ; khắc phục tình
trạng hẫng hụt trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, bảo đảm tính kế thừa, phát triển
và sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ, giữ vững đoàn kết nội bộ
và sự ổn định chính trị.
- Chuẩn bị từ xa và tạo nguồn cán bộ dồi dào làm căn cứ để đào tạo, bồi dưỡng,
xây dựng đội ngũ cán bộ đảm nhận các chức danh lãnh đạo, quản lý các cấp trong hệ
thống chính trị vững vàng về chính trị, trong sáng về đạo đức, thành thạo về chuyên
môn, nghiệp vụ, có trình độ và năng lực, nhất là năng lực trí tuệ và thực tiễn tốt, đủ về
số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước [2].
Quy hoạch đội ngũ cán bộ, công chức QLNN về kinh tế cấp quận, huyện là
quá trình thực hiện đồng bộ các chủ trương, biện pháp để tạo nguồn và xây dựng
đội ngũ trên cơ sở dự báo nhu cầu cán bộ nhằm đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ chính
trị của địa phương. Quy hoạch đội ngũ cán bộ, công chức QLNN về kinh tế cấp
quận, huyện phải xuất phát từ mục tiêu, kế hoạch hoạt động của toàn bộ hệ thống
quản lý. Xuất phát từ chức năng quản lý và cơ cấu tổ chức bộ máy để xây dựng quy
hoạch, từ đó xác định số lượng cán bộ, công chức từ nguồn bên trong và nguồn bên
ngoài hệ thống; có kế hoạch tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng và đánh
giá cán bộ, công chức bên cạnh công tác quy hoạch.
* Yêu cầu quy hoạch cán bộ, công chức QLNN về kinh tế cấp quận
- Tuân thủ các nguyên tắc về công tác cán bộ của Đảng. Nắm vững các quan
điểm, mục tiêu, nguyên tắc, tiêu chuẩn và các giải pháp về công tác cán bộ của thời kỳ
đổi mới.
- Quy hoạch đảm bảo tính hệ thống giữa các cấp, lấy quy hoạch cấp dưới là cơ
sở cho quy hoạch cấp trên, quy hoạch cấp trên tạo điều kiện thực hiện tốt quy hoạch
18
cấp dưới. Quy hoạch cán bộ, công chức QLNN về kinh tế cấp quận, huyện phải gắn
với quy hoạch chung, mặt bằng chung của đội ngũ cán bộ, công chức toàn quận, huyện
và các khâu trong công tác cán bộ nhằm đạt được cơ cấu cán bộ hợp lý, bố trí kết hợp 3
độ tuổi, đảm bảo tính hiệu quả, khả thi cao.
- Trên cơ sở phân tích thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức hiện có và nguồn
cán bộ, dự báo được yêu cầu sắp tới để có phương án quy hoạch mang tính hệ thống,
cơ bản, lâu dài, phát hiện những cán bộ trẻ có triển vọng từ hoạt động thực tiễn. Tạo
môi trường bình đẳng về điều kiện và cơ hội để cán bộ được rèn luyện, phấn đấu và
trưởng thành.
- Quy hoạch đảm bảo tính khoa học, thực tiễn và khách quan, vừa tạo nguồn để
đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ, vừa tạo động lực thúc đẩy cán bộ phấn đấu vươn lên;
vừa mang tính nhất quán, khoa học nhưng không cứng nhắc, khép kín. Thực hiện quy
hoạch “động” và “mở” một cách linh hoạt, một chức danh có thể quy hoạch nhiều
người, một người có thể quy hoạch nhiều chức danh, đồng thời phải luôn xem xét,
đánh giá để bổ sung, điều chỉnh hàng năm.
* Quy trình quy hoạch cán bộ, công chức QLNN về kinh tế cấp quận
- Xây dựng tiêu chuẩn cán bộ, công chức QLNN về kinh tế cấp quận, huyện: từ
những yêu cầu chung đối với cán bộ, công chức QLNN về kinh tế cấp quận, huyện đã
trình bày ở phần trên (mục 1.2.2.1) mỗi địa phương căn cứ vào thực trạng đội ngũ cán
bộ, điều kiện về kinh tế, văn hóa, xã hội tại địa phương mình để xây dựng những tiêu
chuẩn cụ thể làm căn cứ đánh giá, quy hoạch cán bộ, công chức QLNN về kinh tế.
- Trên cơ sở tiêu chuẩn cán bộ, yêu cầu nhiệm vụ chính trị và kết quả công tác
cụ thể, tiến hành điều tra, khảo sát, đánh giá, phân tích thực trạng tình hình đội ngũ cán
bộ, công chức QLNN về kinh tế cấp quận, huyện trên các mặt: số lượng, chất lượng
(trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị, QLNN, quản lý kinh tế ), cơ cấu
(giới tính, tuổi, ngành, vùng, ).
- Dự báo nhu cầu cán bộ, công chức QLNN về kinh tế cấp quận, huyện cho
từng thời kỳ được căn cứ vào nhiệm vụ chính trị, mô hình tổ chức và cơ chế quản lý.
Dự báo nhu cầu cán bộ, công chức không chỉ là về số lượng hoặc các chức danh mà
19
quan trọng hơn là cơ cấu cán bộ, công chức và đặc biệt là yêu cầu về năng lực, trình độ
chuyên môn, lý luận chính trị, tin học, ngoại ngữ, …
- Xác định nguồn bổ sung cho đội ngũ cán bộ, công chức QLNN về kinh tế cấp
quận, huyện. Đối tượng của nguồn bổ sung được xác định theo phương châm “động” là
sau mỗi kỳ kiểm điểm, đánh giá cán bộ, công chức có điều chỉnh bổ sung nhân tố mới,
đồng thời đưa ra khỏi quy hoạch những cán bộ không còn đủ tiêu chuẩn; và “mở” là
nguồn cán bộ quy hoạch không chỉ khép kín trong mỗi địa phương, đơn vị mà được
mở rộng không hạn chế ở cơ quan, đơn vị với điều kiện đáp ứng được các tiêu chuẩn
và yêu cầu đặt ra. Khi lập nguồn bổ sung cần chú ý đến các đối tượng chính sách: con
em gia đình có công với cách mạng, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số, …
- Quy trình xây dựng quy hoạch phải đảm bảo mở rộng dân chủ, khách quan trong việc
phát hiện nguồn, lấy kết quả nhận xét đánh giá cán bộ thường xuyên và định kỳ hàng
năm làm cơ sở để lựa chọn cán bộ đưa vào quy hoạch. Quy hoạch phải đạt được cơ cấu
hợp lý như bố trí kết hợp giữa 3 độ tuổi, thực hiện trẻ hóa, độ tuổi trung bình khóa sau
thấp hơn khóa trước, có tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ dân tộc thiểu số thích hợp.
- Thực hiện và quản lý quy hoạch: trên cơ sở quy hoạch cần xây dựng và thực
hiện tốt các kế hoạch tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, kế hoạch luân
chuyển cán bộ, công chức và kế hoạch sắp xếp, bố trí cán bộ dự nguồn vào các vị trí
theo yêu cầu quy hoạch.
- Kiểm tra, tổng kết, nhằm nâng cao chất lượng công tác quy hoạch: qua kiểm
tra, đánh giá để kịp thời có những biện pháp xử lý tình huống và điều chỉnh quy hoạch;
sau mỗi nhiệm kỳ tiến hành tổng kết, rút kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả công tác
quy hoạch cán bộ, công chức.
1.2.2.3. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về
kinh tế cấp quận
Đào tạo là quá trình tác động đến con người nhằm làm cho họ lĩnh hội và nắm
vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, … một cách có hệ thống để chuẩn bị cho họ
thích nghi với cuộc sống và khả năng tiếp nhận một sự phân công lao động nhất định,
góp phần vào việc phát triển xã hội, duy trì và phát triển nền văn minh loài người. Về
20
cơ bản, đào tạo là giảng dạy và học tập trong nhà trường, gắn với giáo dục đạo đức,
nhân cách. Ngoài ra, trình độ được đào tạo (trình độ học vấn) còn phụ thuộc vào việc tự
đào tạo của mỗi người, thể hiện ở việc tự học tập và tham gia các hoạt động xã hội, lao
động sản xuất và tích lũy kinh nghiệm. Chỉ khi nào quá trình đào tạo được biến thành
quá trình tự đào tạo một cách tích cực, tự giác thì việc đào tạo mới có hiệu quả cao.
Tùy theo tính chất chuẩn bị cho cuộc sống và cho lao động, người ta phân biệt đào tạo
chuyên môn và đào tạo nghề nghiệp. Hai loại này gắn bó và hỗ trợ cho nhau với những
nội dung do các đòi hỏi của sản xuất, của các quan hệ xã hội, của tình trạng khoa học,
kỹ thuật và văn hóa của đất nước quy định [ Từ điển tiếng Việt].
Trong nhiều trường hợp, hai khái niệm “đào tạo” và “bồi dưỡng” được sử dụng
đồng thời. Theo nghĩa gốc, đào tạo là “làm cho trở thành người có năng lực theo những
tiêu chuẩn nhất định, còn bồi dưỡng là “làm tăng thêm năng lực phẩm chất”. Nghĩa là
hai hoạt động này cùng hướng tới một mục tiêu nhưng có điểm khác nhau là đào tạo là
công việc biến cái “không” thành cái “có”, cái chưa đủ “chuẩn” thành đủ “chuẩn”, còn
bồi dưỡng là công việc làm tăng thêm giá trị cái đã có.
Như vậy, đào tạo cán bộ, công chức là việc cử họ tham gia các khóa học
(thường là hơn 12 tháng) nhằm học tập các kỹ năng nghề nghiệp hay kiến thức liên
quan đến một lĩnh vực cụ thể, để họ có khả năng đảm nhận được một công việc nhất
định; bồi dưỡng cán bộ, công chức là việc tham gia các lớp học ngắn hạn (thường là
dưới 12 tháng) nhằm nâng cao trình độ, kỹ năng đã được đào tạo.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức QLNN về kinh tế cấp quận,
huyện trong giai đoạn hiện nay được tập trung theo hướng sau:
+ Đào đạo, bồi dưỡng kiến thức về lý luận chính trị, bao gồm những hiểu biết
về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
+ Đào đạo, bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ của ngành, lĩnh vực
mà cán bộ, công chức đang công tác.
+ Đào đạo, bồi dưỡng kiến thức về quản lý hành chính nhà nước, quản lý kinh
tế. Nhóm kiến thức này cũng tập trung theo hướng liên quan trực tiếp đến ngành, lĩnh
vực công tác.
21
Ngoài ra, để đáp ứng yêu cầu xây dựng nền hành chính hiện đại, cán bộ, công
chức QLNN về kinh tế nói chung và cán bộ, công chức QLNN về kinh tế cấp quận,
huyện nói riêng còn cần phải được trang bị đầy đủ những kiến thức về ngoại ngữ, công
nghệ thông tin và đặc biệt là kiến thức về khoa học quản lý hiện đại, kinh tế thị trường,
hiểu biết về luật pháp, thông lệ quốc tế,
1.2.2.4. Tuyển dụng, bố trí sử dụng, đề bạt, luân chuyển đội ngũ cán bộ,
công chức quản lý nhà nước về kinh tế cấp quận
* Tuyển dụng cán bộ, công chức QLNN về kinh tế cấp quận
Tuyển dụng cán bộ, công chức là khâu quan trọng, mở đầu trong công tác tổ
chức - cán bộ. Nếu làm tốt công tác tuyển dụng sẽ lựa chọn được những người có đủ
năng lực, phù hợp với vị trí, chức danh công tác, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức nói chung cũng như cán bộ, công chức QLNN về kinh tế nói riêng.
Những yêu cầu cơ bản của việc tuyển dụng cán bộ, công chức nói chung:
+ Xuất phát từ nhu cầu công việc mà tuyển người phù hợp.
+ Bảo đảm tiêu chuẩn chức danh cần tuyển.
+ Bảo đảm công minh, bình đẳng và thực hiện công khai.
Để đảm bảo công khai, công bằng và khách quan công tác tuyển dụng cán bộ, công
chức phải được thực hiện thông qua hình thức thi tuyển. Việc tuyển dụng phải được
thông báo, đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, đồng thời niêm yết công
khai tại địa điểm tiếp nhận hồ sơ của cơ quan, đơn vị tuyển dụng. Việc thực hiện chế
độ ưu tiên trong tuyển dụng và xét tuyển (thông qua kiểm tra sát hạch bằng hình thức
vấn đáp) cũng phải được tuân thủ chặt chẽ theo đúng quy định đối với một số đối
tượng cụ thể.
Nội dung thi tuyển cần phải bám sát yêu cầu chức danh cần tuyển, xác định yêu
cầu đối với công việc đó là gì, thực hiện như thế nào, kiến thức cơ bản và kỹ năng cần
thiết để hoàn thành công việc đó. Ngoài ra, cần chú trọng kiến thức hành chính nhà
nước và sự hiểu biết về chức năng, nhiệm vụ của tổ chức mà thí sinh dự tuyển.
Ngoài yêu cầu chung về trình độ đào tạo theo tiêu chuẩn chức danh đã quy
định, mỗi đơn vị, địa phương còn cần có thêm quy định cụ thể (không trái với