Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

luận văn thạc sĩ Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở tỉnh Cà Mau hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (548.93 KB, 111 trang )

xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
ở tỉnh Cà Mau hiện nay
H NI - 2009
MC LC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC CẤP XÃ
6
1.1. Quan niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò của cán bộ, công chức cấp xã 6
1.2. Khái niệm, vai trò và nội dung xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã 18
1.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã - yêu cầu cấp bách
hiện nay 30
Chương 1: THỰC TRẠNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG
CHỨC CẤP XÃ Ở TỈNH CÀ MAU
33
2.1. Những đặc điểm lịch sử, tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến
việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở tỉnh Cà Mau 33
2.2. Ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân của ưu, khuyết điểm trong
việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở tỉnh Cà Mau 43
Chương 3: MỤC TIÊU, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP XÂY
DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ Ở TỈNH
CÀ MAU HIỆN NAY
67
3.1. Mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở tỉnh Cà
Mau hiện nay 67
3.2. Những giải pháp chủ yếu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở
tỉnh Cà Mau hiện nay 72
KẾT LUẬN


101
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CBCC : Cán bộ, công chức
CBCT : Cán bộ chuyên trách
CNH : Công nghiệp hoá
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
HĐH : Hiện đại hoá
HĐND : Hội đồng nhân dân
HTCT : Hệ thống chính trị
Nxb : Nhà xuất bản
PTTH : Phổ thông trung học
THCS : Trung học cơ sở
UBNMTTQ : Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
UBND : Uỷ ban nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Về giới tính, dân tộc, đảng viên, tôn giáo 43
Bảng 2.2: Về trình độ đào tạo 45
Bảng 2.3: Công tác xây dựng tiêu chuẩn cán bộ, công chức cấp xã 47
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gần 80 năm lãnh đạo cách mạng, đặc biệt sau Đại hội đổi mới (Đại
hội VI năm 1986) đến nay; công tác cán bộ, công chức luôn được Đảng và
Nhà nước ta chú trọng và quan tâm. Hội nghò Trung ương 3 - khoá VIII, Đảng
đã khẳng đònh: “Cán bộ là nhân tố quyết đònh đến sự thành bại của cách
mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu

then chốt trong công tác xây dựng Đảng”[16].
Đảng ta quan tâm đối với cán bộ, công chức là sự quan tâm toàn
diện, không chỉ cán bộ, công chức cấp cao, lãnh đạo, quản lý; cán bộ, công
chức ở cấp trung ương, tỉnh, huyện mà cả cán bộ công chức bình thường,
đặc biệt là cán bộ, công chức ở cơ sở, xã, phường, thò trấn; Văn kiện Đại
hội IX của Đảng đã nhấn mạnh việc nâng cao phẩm chất, năng lực của đội
ngũ cán bộ, công chức, trong đó xác đònh: “Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức với chương trình nội dung sát hợp; chú trọng đội ngũ cán
bộ xã, phường”[19, tr.217], Nghò quyết Trung ương 5 - khoá IX khẳng
đònh: “Xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở có năng lực tổ chức và vận động
nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm
thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng,
không ức hiếp; trẻ hoá đội ngũ, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp
lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở” và tại Nghò quyết Trung
ương 6 - khoá X cũng đã xác đònh: “Thực hiện mạnh mẽ chủ trương trẻ
hoá, tiêu chuẩn hoá, thể chế hoá và từng bước nhất thể hoá chức danh cán
bộ; tạo bước chuyển có tính đột phá về xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức ở cơ sở”. Tổ chức thực hiện chủ trương trên, công tác xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức cấp xã đã đạt được những kết quả quan trọng, như
đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đã được chú trọng quy hoạch đào tạo,
bồi dưỡng, các chế độ chính sách ngày càng hoàn thiện; tăng thêm về mặt
số lượng, trình độ và kiến thức các mặt được nâng lên. Tuy nhiên, bên
cạnh đó công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã vẫn là khâu
yếu kém: nội dung chương trình đào tạo còn bất cập; quy hoạch còn bị
động, chắp vá; chế độ, chính sách chưa thật sự thoả đáng… Chính điều này
dẫn đến một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức cơ sở phai nhạt lý
tưởng, giảm sút ý chí chiến đấu, suy thoái về đạo đức, lối sống, quan liêu,
tham nhũng, lãng phí…
Cấp xã (xã, phường, thò trấn) là một cấp trong hệ thống hành chính
bốn cấp của Nhà nước Việt Nam, là nơi trực tiếp thực hiện các chủ trương,

đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ cấp
trên giao, chăm lo mọi sinh hoạt và đời sống hằng ngày của nhân dân ở đòa
phương và là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Thực tiễn cho
thấy nơi đâu có quan tâm đầy đủ và làm tốt công tác cán bộ, công chức ở
cơ sở, có đội ngũ cơ sở vững mạnh thì nơi đó tình hình chính trò - xã hội ổn
đònh, kinh tế, văn hoá phát triển, quốc phòng an ninh được giữ vững.
Ngược lại, ở đâu công tác cán bộ không được quan tâm, đội ngũ cán bộ,
công chức không đủ phẩm chất, năng lực và uy tín thì sẽ gặp khó khăn, có
nhiều nơi còn tạo sơ hở cho kẻ đòch lợi dụng, gây nên “điểm nóng” về
chính trò. Điều đó cho thấy, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có vai trò rất
quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến việc xây dựng và củng cố hệ thống
chính trò ở cơ sở, tác động trực tiếp đến sự nghiệp cách mạng và đổi mới
của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Cà Mau là một tỉnh cuối cùng cực Nam của Tổ quốc, có nhiều dân
tộc, tôn giáo cùng sinh sống trên đòa bàn, có vò trí đòa lý phức tạp (là vùng
bán đảo, rừng, biển, đồng bằng và cả hải đảo) là vùng căn cứ kháng chiến
nên chòu nhiều hậu quả của chiến tranh, là vùng đất mới, là bán đảo nên
chòu nhiều thiên tai. Ngay từ khi tách tỉnh Minh Hải cũ tái lập tỉnh Cà
Mau, cùng với những cơ hội và thuận lợi, tỉnh còn thiếu hụt trầm trọng và
yếu kém của đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và đội ngũ cán bộ, công
chức cơ sở nói riêng.
Trong những năm qua, việc tổng kết, đánh giá một cách có hệ
thống và thường xuyên đội ngũ cán bộ, công chức (đặc biệt là cấp xã)
chậm được tiến hành. Nhìn chung chưa có giải pháp đồng bộ, phù hợp với
đặc thù của đòa phương nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của tỉnh
nói chung, cán bộ, công chức cấp xã.
Xuất phát từ những lý do trên, cùng với kinh nghiệm công tác của
bản thân, kết hợp với kiến thức học được trong thời gian 03 năm ở Học
viện Chính trò - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, tác giả chọn đề tài:
“Xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức cấp xã ở tỉnh Cà Mau hiện nay” để

nghiên cứu và viết luận văn thạc só.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề cán bộ, công chức cấp xã đã được nhiều nhà khoa học quan
tâm nghiên cứu. Liên quan trực tiếp đến việc nâng cao chất lượng và quản
lý đội ngũ cán bộ, công chức có một số công trình:
- Đề tài khoa học cấp Bộ: Th.S Nguyễn Thế Vònh - Vụ Chính
quyền đòa phương - Bộ Nội vụ (2007), Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở theo
Nghò quyết Trung ương 5 (khoá IX), Hà Nội.
- TS. Thang Văn Phúc và TS. Nguyễn Minh Phương (đồng chủ
biên) (2001), Cơ sở lý luận thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ công chức,
Nxb Chính trò Quốc gia, Hà Nội.
- Lê Thò Lý (2003), Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức xã trước
yêu cầu đổi mới, Luận văn Thạc sĩ, Đại học quốc gia, Hà Nội.
- Dương Hương Sơn, Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức chính quyền cấp xã ở tỉnh Quảng Trò hiện nay, Luận văn Thạc sĩ, Học
viện Chính trò Quốc gia Hồ Chí Minh.
Trần Tấn Tài, Đào tạo nguồn cán bộ quản lý hành chính nhà nước
cấp xã trên đòa bàn thành phố Cần Thơ - thực trạng và giải pháp, Luận văn
Thạc sĩ, Học viện Chính trò Quốc gia Hồ Chí Minh (2004).
Nguyễn Khắc Bộ, Nâng cao năng lực quản lý nhà nước của chính
quyền cơ sơ”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số tháng 3/2006.
Những tài liệu trên đây chừng mực nhất đònh đã đề cập đến một số
vấn đề lý luận về cán bộ, công chức; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
như: khái niệm cán bộ, công chức, một số nội dung về xây dựng cán bộ,
công chức; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức…
Đến nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu tương đối đầy
đủ và toàn diện về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của một tỉnh ở
đồng bằng sông Cửu Long nói chung và tỉnh Cà Mau nói riêng. Vì vậy, đề
tài nghiên cứu của luận văn không trùng với các công trình khoa học đã
được công bố. Mặc dù vậy, các công trình khoa học trên đây là tài liệu

tham khảo có giá trò cho việc nghiên cứu và hoàn thiện bản luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích:
Luận văn có mục đích là trên cơ sở nghiên cứu lý luận về xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã và thực tiễn xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức cấp xã ở tỉnh Cà Mau, luận văn đề xuất các giải pháp
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở tỉnh Cà Mau hiện nay.
- Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
+ Nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận về xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức ở cấp xã.
+ Phân tích, đánh giá thành tựu và chỉ ra những mặt tồn tại, hạn
chế, nhiên cứu xây dựng đội ngũ cán bộ công chức cấp xã ở tỉnh Cà Mau.
+ Đề xuất các giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã ở tỉnh Cà Mau hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu đội ngũ cán bộ, công chức cấp
xã theo Luật Cán bộ, công chức 2008.
- Qua khảo sát ở các xã ở nông thôn, đô thò ở tỉnh Cà Mau để đánh
giá việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở Cà Mau từ khi tách
tỉnh đến nay.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức
cấp xã ở tỉnh Cà Mau đến năm 2015.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghóa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng,
pháp luật của Nhà nước về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung
và cán bộ, công chức chính quyền cơ sở nói riêng.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Lòch sử - cụ thể,
phân tích - tổng hợp; điều tra xã hội học, thống kê so sánh.

6. Đóng góp mới của luận văn
- Luận văn chỉ ra được những kết quả, tồn tại, hạn chế và nguyên
nhân tồn tại, hạn chế của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở
tỉnh Cà Mau sau khi tách tỉnh đến nay.
- Đề xuất các giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã tỉnh Cà Mau đến năm 2015.
7. Ý nghóa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Về lý luận, đề tài góp phần làm phong phú thêm lý luận về xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở đòa phương.
- Về thực tiễn, luận văn là tài liệu tham khảo có giá trò cho việc đònh ra
chủ trương, chính sách xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở tỉnh Cà Mau.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn gồm 3 chương, 8 tiếât.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ, CƠNG CHỨC CẤP XÃ
1.1. QUAN NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VỊ TRÍ, VAI TRỊ CỦA CÁN BỘ, CƠNG
CHỨC CẤP XÃ
1.1.1. Quan niệm về cán bộ, cơng chức
Trên thế giới có những quan niệm khác nhau về cán bộ, công chức.
Ở Cộng hoà Pháp, công chức gồm những người được tuyển dụng và bổ
nhiệm vào ngạch, làm việc ở các công sở trong cơ quan công quyền, tổ
chức phục vụ sự nghiệp công do Chính phủ Trung ương thống nhất quản lý
[44, tr.40]. Ở Inđônêxia, công chức là những người được tuyển dụng, bổ
nhiệm làm việc trong các công sở hành chính từ trung ương đến đòa
phương, ngoài ra còn có só quan cao cấp làm việc trong quân đội, những
người đứng đầu doanh nghiệp nhà nước. Ở Canada, công chức là những
người được tuyển dụng làm việc trong bộ máy hành chính nhà nước (không
kể những người làm việc trong đơn vò hành chính sự nghiệp).

Ở Việt Nam, cán bộ, cơng chức là khái niệm thường được dùng để gọi
chung những người làm việc cho nhà nước, hoặc các tổ chức trong hệ thống
chính trị. Theo Từ điển Tiếng Việt (Viện Ngơn ngữ học, Nxb Đà Nẵng, năm
2006) cán bộ được định nghĩa là: "Người làm cơng tác nghiệp vụ chun mơn
trong cơ quan Nhà nước, Đảng và đồn thể có chức vụ. Như vậy, trong tổ
chức đảng và đồn thể, cán bộ được dùng để chỉ những người được bầu vào
các chức vụ lãnh đạo, làm cơng tác chun trách hưởng lương từ ngân sách
nhà nước". "Cơng chức là những người được tuyển dụng, bổ nhiệm giữ một
cơng vụ thường xun trong cơ quan nhà nước, hưởng lương do ngân sách
nhà nước cấp". Như vậy, khái niệm cơng chức theo Từ điển Tiếng Việt khơng
đề cập đến lực lượng làm việc trong cơ quan Đảng, tổ chức chính trị - xã hội.
Các u cầu phải "được tuyển dụng", "được bổ nhiệm" và "hưởng lương từ
ngân sách nhà nước" khơng phải là điểm đặc trưng của riêng đối tượng cơng
chức. Lực lượng cán bộ ở các cơ quan đảng cũng được bổ nhiệm và cũng
hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Với khái niệm cơng chức như vậy, thì
khơng thể phân biệt được cán bộ và cơng chức. Dẫn đến việc khó khăn cho
các cấp có thẩm quyền trong việc hoạch định chính sách cụ thể đối với đối
tượng cán bộ, cơng chức.
Hiện nay, theo văn bản quy phạm pháp luật đang có hiệu lực pháp luật
và có giá trị pháp lý cao nhất về địa vị pháp lý của cán bộ, công chức Việt
Nam là Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 được sửa đổi bổ sung một số
điều năm 2003 thì cán bộ, công chức được quy định chung tại Khoản 1, Điều
1 như sau:
1. Cán bộ, công chức quy định tại Pháp lệnh này là công dân Việt Nam,
trong biên chế, bao gồm:
a) Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong
cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương;
ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh); ở
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện);
b) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ

thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở
Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
c) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức
hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước ở Trung
ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
d) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức
hoặc giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của Nhà
nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;
đ) Thẩm phán Toà án nhân dân, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân;
e) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ
thường xuyên làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà
không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm
việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan,
hạ sĩ quan chuyên nghiệp;
g) Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong
Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân; Bí thư, Phó bí thư Đảng
uỷ; người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội xã, phường, thị trấn (sau đây gọi
chung là cấp xã);
h) Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn
nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã.
Cán bộ, công chức theo pháp luật Việt Nam phải đảm bảo tối thiểu các
điều kiện như phải là công dân Việt Nam, trong biên chế, hưởng lương từ
ngân sách hoặc các nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp, đối với công chức ở
các đơn vị sự nghiệp còn gọi là viên chức.
Pháp lệnh cán bộ, công chức không phân biệt rõ giữa cán bộ và công
chức nhưng các Nghị định số 117/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003
lại xác định công chức là những đối tượng sau:
Điều 2. Đối tượng điều chỉnh
Công chức nói tại Nghị định này là công dân Việt Nam, trong biên chế
và hưởng lương từ ngân sách nhà nước được quy định tại Điểm b, Điểm c,

Điểm e Khoản 1 Điều 1 của Pháp lệnh Cán bộ, công chức, làm việc trong các
cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội sau đây:
1. Văn phòng Quốc hội;
2. Văn phòng Chủ tịch nước;
3. Các cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
4. Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp;
5. Cơ quan đại diện nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước
ngoài;
6. Đơn vị thuộc Quân đội nhân dân và Công an nhân dân;
7. Bộ máy giúp việc thuộc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở
trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện.
Ngoại trừ những đối tượng được xác định là viên chức ở Điểm d,
Khoản 1, Điều 1 của Pháp lệnh Cán bộ, công chức thì những đối tượng còn lại
là cán bộ. Cán bộ có những điểm khác biệt cơ bản so với công chức theo quy
định của các văn bản trên như được bổ nhiệm và làm việc theo nhiệm kỳ,
không phân biệt cơ quan họ công tác là cơ quan nhà nước hay các tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, cán bộ không nằm trong biên chế của bộ
máy nhà nước. Xét về mặt nguyên tắc nếu họ (cán bộ) không được bầu cử ở
các nhiệm kỳ tiếp theo thì họ sẽ không tiếp tục hoạt động trong cơ quan nhà
nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
Luật về Cán bộ, công chức năm 2008, có hiệu lực thi hành vào ngày
1/1/2010 cũng có những quy định phân biệt rõ giữa cán bộ và công chức tại
điều 4 như sau:
1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

2. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan,
đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên
nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà
không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản
lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong
biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ
lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
Như vậy, Luật Cán bộ, công chức là một sự kế thừa và phát triển những
quy định trước đây về cán bộ, công chức. Khái niệm cán bộ, khái niệm công
chức đã được luật hoá. Luật Cán bộ, công chức có hiệu lực sẽ là cơ sở pháp lý
cơ bản để phân định rõ giữa cán bộ và công chức. Việc phân định rõ cán bộ,
công chức sẽ tạo điều kiện thuận lợi để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây
dựng các chính sách đối với cán bộ, công chức một cách phù hợp, phát huy
được vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ, công chức Việt Nam trong hệ
thống chính trị.
1.1.2. Quan niệm, đặc điểm cán bộ cấp xã
Sự nhận thức đối với quan niệm về cán bộ, công chức cấp xã ở Việt
Nam cũng nằm trong sự vận động chung của quan niệm về cán bộ, công chức
Việt Nam qua từng thời điểm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật cụ
thể như đã phân tích ở mục 1.1.1 của luận văn. Bên cạnh đó, quan niệm về
cán bộ, công chức cấp xã có những đặc thù. Các quy định liên quan đến cán
bộ, công chức xã được điều chỉnh bởi các văn bản như Quyết định số
112/HĐBT ngày 15/10/1981 quy định về chức năng, nhiệm vụ của chính
quyền cấp xã; Thông tư 477/TCCP ngày 10/12/1981 hướng dẫn thực hiện
Quyết định số 112/HĐBT ngày 15/10/1981; Nghị định số 50/CP ngày
26/7/1995 quy định về số lượng và chế độ chính sách của cán bộ công tác

Đảng, chính quyền, đoàn thể ở cấp xã; Thông tư 97/TTLB/TCCP-BTC ngày
16/8/1995 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 50/CP ngày 26/7/1995. Pháp
lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 không quy định cụ thể về cán bộ, công
chức cấp xã mà chỉ quy định chung về cán bộ, công chức. Trong các văn bản
trên chỉ rõ những chức danh nào là cán bộ công tác tại xã được hưởng sinh
hoạt phí chứ không nêu khái niệm về cán bộ và công chức cấp xã. Trải qua
một thời gian tương đối dài, lực lượng cán bộ, công chức cấp xã chưa được
quan tâm đúng mức.
Năm 2003, Uỷ ban thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều
của Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 mới quy định chung về cán bộ,
công chức cấp xã: Cán bộ, công chức quy định tại Pháp lệnh này là công dân
Việt Nam, trong biên chế, bao gồm:
g) Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong
Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân; Bí thư, Phó bí thư Đảng
uỷ; người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội xã, phường, thị trấn (sau đây gọi
chung là cấp xã);
h) Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn
nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã (Khoản 1, Điều 1, Pháp lệnh Cán bộ,
công chức năm 2003).
Mặc dù quy định trên cũng chưa phân định rõ quan niệm về cán bộ và
công chức cấp xã nhưng trên cơ sở tiêu chí chung để phân biệt giữa cán bộ và
công chức và Nghị định 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 về cán bộ, công
chức cấp xã thì chúng ta vẫn có thể xác định được những đối tượng là cán bộ,
công chức cấp xã. Cán bộ cấp xã bao gồm cán bộ chuyên trách và không
chuyên trách. Cán bộ chuyên trách gồm:
1. Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ (sau
đây gọi chung là cán bộ chuyên trách cấp xã), gồm có các chức vụ sau đây:
a) Bí thư, Phó Bí thư đảng uỷ, Thường trực đảng uỷ (nơi không có Phó
Bí thư chuyên trách công tác đảng), Bí thư, Phó Bí thư chi bộ (nơi chưa thành
lập đảng uỷ cấp xã);

b) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
c) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân;
d) Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ, Chủ tịch Hội Nông dân và
Chủ tịch Hội Cựu chiến binh.
Cán bộ không chuyên trách gồm:
a) Trưởng Ban Tổ chức đảng, Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra đảng,
Trưởng Ban Tuyên giáo và 01 cán bộ Văn phòng Đảng uỷ;
b) Phó Trưởng công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy);
c) Phó Chỉ huy trưởng quân sự;
d) Cán bộ kế hoạch - giao thông - thuỷ lợi - nông, lâm, ngư, diêm nghiệp;
đ) Cán bộ lao động - thương binh và xã hội;
e) Cán bộ dân số - gia đình và trẻ em;
g) Thủ quỹ - văn thư - lưu trữ;
h) Cán bộ phụ trách đài truyền thanh;
i) Cán bộ quản lý nhà văn hoá;
k) Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc; Phó các đoàn thể cấp xã:
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông
dân, Hội Cựu chiến binh;
l) Chủ tịch Hội Người cao tuổi; Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Việt Nam.
(Trích khoản 3, điều 2, Nghị định 121/2003/NĐ-CP ngày 23/10/2003
quy định về chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức cấp xã).
Luật Cán bộ, công chức năm 2008 đã quy định cụ thể cán bộ và công
chức xã tại Điều 4 và Điều 61: là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức
vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí
thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội. Cán bộ
cấp xã có các chức vụ sau đây:
a) Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ;
b) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
c) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân;

d) Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
đ) Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
e) Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
g) Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị
trấn có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân
Việt Nam);
h) Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
Từ những quy định trên đây cho thấy đội ngũ cán bộ cấp xã có những
đặc điểm sau:
Về tiêu chuẩn, cán bộ cấp xã có tiêu chuẩn chung được quy định tại
Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/1/2004. Hầu hết cán bộ xã đều đảm
nhận vị trí chủ chốt tại xã kể cả công tác Đảng, chính quyền và đoàn thể. Nên
tiêu chuẩn về chính trị là một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất. Tiêu
chuẩn chính trị đảm bảo cho cán bộ xã đủ phẩm chất để lãnh đạo các mặt
công tác quan trọng.
Nguồn hình thành cán bộ cấp xã rất đa dạng. Do cán bộ được bầu cử
nên các tổ chức chính trị - xã hội như: Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể
là nơi cung cấp nguồn cán bộ cho xã. Cũng xuất phát từ lý do trên nên cán bộ
xã thường xuyên biến động, thay đổi vị trí công tác do yêu cầu thực hiện
nhiệm vụ chính trị tại địa phương.
Trong thực tế, trình độ chuyên môn của cán bộ không đồng đều.
Nguyên nhân là do cán bộ hình thành từ cơ chế bầu cử nên tiêu chuẩn chuyên
môn chưa được chú ý đúng mức. Cán bộ Mặt trận và đoàn thể chưa có chuyên
môn phù hợp. Tuy nhiên, do cán bộ được sự tín nhiệm nên được giữ những
trọng trách quan trọng mặc dù có thể chưa đủ tiêu chuẩn theo quy định. Từ
thực tế đó đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải có kế hoạch chuẩn hoá lực
lượng cán bộ này.
1.1.3. Quan niệm, đặc điểm công chức cấp xã
Công chức cấp xã được quy định tại Khoản 2, Điều 2, Nghị định
114/2003/NĐ-CP như sau:

2. Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn,
nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã (gọi chung là công chức cấp xã),
gồm có các chức danh sau đây:
a) Trưởng công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy);
b) Chỉ huy trưởng quân sự;
c) Văn phòng - Thống kê;
d) Địa chính - Xây dựng;
đ) Tài chính - Kế toán;
e) Tư pháp - Hộ tịch;
g) Văn hoá - Xã hội.
Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ
một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã, trong biên
chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Công chức cấp xã có các chức danh
sau đây:
a) Trưởng Công an;
b) Chỉ huy trưởng Qn sự;
c) Văn phòng - thống kê;
d) Địa chính - xây dựng - đơ thị và mơi trường (đối với phường, thị
trấn) hoặc địa chính - nơng nghiệp - xây dựng và mơi trường (đối với xã);
đ) Tài chính - kế tốn;
e) Tư pháp - hộ tịch;
g) Văn hóa - xã hội.
Như vậy, kể từ ngày 01/01/2010 thì các đối tượng là cán bộ, cơng chức
đã được xác định rõ và luật chỉ điều chỉnh đối với các chức danh cán bộ chủ
chốt, hay cán bộ chun trách. Các đối tượng là cán bộ khơng chun trách
theo Nghị định 121/2003/NĐ-CP chưa được Luật quy định.
Qua đó cho thấy đội ngũ cơng chức cấp xã có những đặc điểm sau:
Cơng chức xã theo quy định tại Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày
16/1/2004 của Bộ Nội vụ phải có trình độ chun mơn phù hợp từ trung cấp
trở lên. Chính từ quy định này nên cơng chức xã có sự đồng nhất và tương đối

đạt chuẩn về trình độ chun mơn nghiệp vụ.
Cơng chức xã phải thơng qua tuyển dụng và phụ trách những lĩnh vực
cơng tác cụ thể nên nhìn chung có sự đảm bảo về tiêu chuẩn và tính ổn định
trong cơng tác. Tính ổn định của cơng chức cấp xã cao hơn so với cán bộ cấp xã.
Cơng chức xã trực tiếp tham mưu cho lãnh đạo UBND cấp xã trong việc điều
hành, chỉ đạo cơng tác. Chất lượng của cơng chức cấp xã sẽ góp phần quyết định
đến hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính nhà nước ở cấp xã.
Đội ngũ cán bộ, cơng chức cấp xã đặc biệt quan trọng trong việc thực
hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và là lực lượng chiếm số
lượng hết sức đơng đảo trong tổng số biên chế hiện nay. Chính vì vậy, việc
xác định rõ đặc điểm, vị trí, vai trò của cán bộ, cơng chức cấp xã là vấn đề cần
thiết để có chủ trương, chính sách phù hợp.
1.1.4. Vị trí, vai trò của cán bộ, cơng chức cấp xã
Cán bộ, công chức có một vò trí, vai trò rất quan trọng, là chủ thể
thực thi pháp luật để quản lý mọi mặt của đời sống xã hội nhằm thực hiện
các chức năng, nhiệm vụ mà Nhà nước đề ra; giữ gìn trật tự kỷ cương xã
hội, đấu tranh ngăn chặn, phòng ngừa, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật
và tội phạm, bảo vệ lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động; điều hành
các hoạt động kinh tế, chính trò, văn hóa, xã hội trong quá trình hoạt động
của bộ máy nhà nước.
Xuất phát từ đặc điểm của mình, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
ngoài những vò trí, vai trò chung của cán bộ, công chức còn có những vò trí,
vai trò sau:
- Một là, cán bộ, công chức cấp xã là người trực tiếp tuyên truyền,
phổ biến các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
nhà nước đến nhân dân; làm cho các tầng lớp nhân dân hiểu đúng, hiểu
đầy đủ các chủ trương, chính sách đó:
+ Trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đang tiến hành xây dựng
nhà nước pháp quyền, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghóa, tăng cường mối
quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân; vì vậy, vai trò này của

đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã càng có ý nghóa quan trọng, đảm bảo cho
nhân dân biết và nắm được các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước, trên cơ sở đó sẽ tham gia, đóng góp vào việc thực hiện thắng lợi các
chủ trương, chính sách đó.
+ Để làm được điều đó, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã phải tiến
hành nhiều hình thức, biện pháp khác nhau như thông qua các buổi tuyên
truyền, nói chuyện tại cuộc họp thôn, xóm, khu dân cư, tổ đoàn kết, trung
tâm học tập cộng đồng hoặc thông qua các buổi đối thoại trực tiếp với
nhân dân để giải quyết các vấn đề mới phát sinh như liên quan đến việc
bồi thường thiệt hại, giải phóng mặt bằng, quy hoạch… Đồng thời, nó còn
đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã phải có những hiểu biết nhất
đònh về lý luận và am hiểu tình hình thực tế của đòa phương, cũng như nắm
bắt được đặc điểm, tâm lý của từng lớp dân cư thuộc phạm vi quản lý của
mình.
- Hai là, cán bộ, công chức cấp xã là người có vai trò rất quan trọng
trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, huy
động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng
đồng dân cư:
+ Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được nhân dân
nắm bắt, nhận thức mới chỉ là khởi đầu, điểm xuất phát để kiểm nghiệm
được tính đúng đắn của chủ trương, đường lối đó; điều kiện đủ là phải tổ
chức thực hiện trong thực tiễn; muốn làm được điều đó không có ai khác là
cán bộ, công chức cấp xã, bởi cán bộ, công chức cấp xã là người tiếp xúc
nhiều nhất, hiểu rõ nhất, giải quyết nhiều việc nhất của nhân dân.
+ Để thực hiện tốt vò trí, vai trò này; đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã phải có khả năng tổ chức, bố trí, sử dụng, tập hợp và lôi cuốn mọi
người vào hoạt động; phải có khả năng xử lý các tình huống phát sinh, đó là
các tình huống về tài chính, về thiên tai, đòch họa, do va chạm xóm giềng,
dòng tộc, tình huống nảy sinh khi ra những quyết đònh sai trái với cấp trên…;

phải có khả năng kiểm tra, đánh giá hoạt động của mình và khả năng tổng
kết, sơ kết việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách.
+ Cán bộ, công chức cấp xã có vai trò đảm bảo cho các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước thực hiện một cách nghiêm túc, thông
qua việc xử lý, đấu tranh ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật kòp
thời, hiệu quả, góp phần ổn đònh tình hình an ninh - chính trò, trật tự an toàn
xã hội tại từng đòa bàn thôn, xóm, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính
trò đề ra.
- Ba là, cán bộ, công chức cấp xã là người nắm bắt kòp thời, phản
ánh đầy đủ các tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để Đảng, Nhà nước có
cơ sở khoa học sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các chủ trương, chính sách
có tính khả thi, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước:
+ Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước khi ban hành
muốn đảm bảo tính khả thi phải xuất phát từ thực tiễn cuộc sống; muốn
vậy, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, cán bộ, công chức cấp
xã nói riêng phải nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, để mọi
chủ trương, chính sách khi ban hành đều vì lợi ích của nhân dân, dựa trên ý
kiến của nhân dân; qua đó sẽ phát huy được tính tích cực, chủ động của
mỗi con người, làm cho mọi tiềm năng sáng tạo được phát triển, mọi người
dân đều được tham gia vào các quá trình chính trò, xã hội, các vấn đề nảy
sinh được phát hiện kòp thời, các khó khăn sớm được tháo gỡ, tạo sự phát
triển mạnh mẽ của đất nước.
+ Thực tiễn cách mạng của đất nước đã khẳng đònh, chính từ vai trò
của cán bộ, công chức cấp xã trong việc nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của
nhân dân, nên Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách
đúng, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Đảng đã ban hành nhiều nghò quyết
quan trọng như Nghò quyết về khoán sản phẩm trong nông nghiệp; công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc… Nhà nước cũng đã ban
hành nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh có hiệu quả các mặt của đời sống -

xã hội như Bộ Luật dân sự, Bộ Luật hình sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Hôn
nhân và gia đình, Luật Cư trú, Luật Phòng chống tham nhũng…
Tóm lại, bất cứ ở đâu và lúc nào, đội ngũ cán bộ, công chức cũng
có vò trí, vai trò hết sức to lớn; với tư cách là một bộ phận quan trọng,
chiếm số lượng tương đối lớn thì đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có vò
trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với chế độ, sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
1.2. KHÁI NIỆM, VAI TRỊ VÀ NỘI DUNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN
BỘ, CƠNG CHỨC CẤP XÃ
1.2.1. Khái niệm, vai trò của của việc xây dựng đội ngũ cán bộ,
cơng chức cấp xã
Khái niệm từ “xây dựng”: Theo cuốn Đại từ điển Tiếng Việt của
Nguyễn Như Ý thì từ “xây dựng” có 3 nghĩa chính: Làm nên, gây dựng nên;
tạo ra các giá trị tinh thần có nội dung nào đó; thái độ, ý kiến có tinh thần
đóng góp, làm tốt hơn, thái độ xây dựng [85, tr.1856].
Để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, cán bộ, công
chức cấp xã nói riêng có chất lượng thì phải trải qua nhiều khâu, nhiều
công đoạn khác nhau, từ việc xác đònh chủ trương, mục tiêu, đến việc xây
dựng tiêu chuẩn, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố
trí, sử dụng, xây dựng và thực hiện chính sách cán bộ. Quá trình đó được
coi là xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức.
Như vậy, có thể hiểu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là
toàn bộ các mặt công tác, hoạt động, từ việc xác đònh mục tiêu đến xây
dựng và thực hiện chính sách đối với cán bộ, công chức, được tiến hành
bởi các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền, nhằm tạo nên một đội
ngũ cán bộ, công chức cấp xã đồng bộ, có số lượng và cơ cấu hợp lý, có
phẩm chất chính trò, đạo đức, trình độ, năng lực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
chính trò ở cơ sở trong từng giai đoạn cách mạng.
Từ khái niệm này, ta có thể thấy xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã có một số đặc điểm sau:

+ Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có nhiều nội dung
khác nhau, các nội dung đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá
trình thực hiện, không được xem nhẹ nội dung nào.
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã được tiến hành bởi
các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền như Ban Thường vụ cấp ủy
huyện, UBND cấp huyện, trong đó cơ quan có vai trò tham mưu quan trọng
là Ban Tổ chức và Phòng Nội vụ cấp huyện.
+ Đối tượng được xây dựng là đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã nhằm tạo ra một đội
ngũ cán bộ, công chức cấp xã có chất lượng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
chính trò đặt ra đối với từng xã, phường, thò trấn.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức cấp xã giữ vai trò hết sức quan
trọng trong tình hình hiện nay, góp phần xây dựng hệ thống chính trò ở cơ sở
vững mạnh toàn diện. Bởi vì, con người và tổ chức luôn có mối quan hệ
biện chứng với nhau. Con người sáng lập ra tổ chức, là yếu tố động nhất
trong tổ chức, con người hoạt động hiệu quả thì tổ chức hoạt động hiệu
quả; nhưng khi tổ chức thành lập thì nó tác động trở lại con người, làm con
người phát triển đi lên và ngược lại kìm hãm sự phát triển của con người;
con người sống trong tổ chức thì sức mạnh được nhân lên gấp bội và ngược
lại thì sức mạnh của con người sẽ yếu đi.
Đối với đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã cũng vậy, lực lượng này
có quan hệ mật thiết với hệ thống chính trò ở cơ sở. Hoạt động của hệ
thống chính trò ở cơ sở có chất lượng và hiệu quả hay không phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, tính khoa học, hợp
lý trong thiết kế bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức…; trong đó đội ngũ
cán bộ, công chức cấp xã là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp nhất.
1.2.2. Nội dung xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức cấp xã
1.2.2.1. Mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức cấp xã
- Mục tiêu chung: Xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức cấp xã nhằm
tạo ra một đội ngũ cán bộ, cơng chức đồng bộ, có số lượng, cơ cấu hợp lý,

có phẩm chất chính trị đạo đức, lối sống tốt; có trình độ và năng lực chun
mơn đáp ứng u cầu nhiệm vụ chính trị ở cơ sở trong từng giai đoạn cách
mạng.
- Mục tiêu cụ thể:
Một là: Tạo ra một đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có số lượng,
cơ cấu hợp lý:
+ Tính hợp lý trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp
xã biểu hiện ở việc tinh giản biên chế một cách tối ưu, đảm bảo gọn nhẹ,
hoạt động có chất lượng, trong đó mỗi cá nhân cán bộ, công chức phát huy
được hết năng lực, sở trường của mình, có thể đảm đương tốt nhiệm vụ
được giao, đảm bảo cho bộ máy hoạt động thông suốt và hiệu quả. Tính
hợp lý còn biểu hiện ở chỗ số lượng cán bộ, công chức không qúa đông,
nếu không sẽ gây dư thừa, lãng phí nguồn nhân lực, đồng thời cũng không
quá ít, vì nó tạo ra sức ép lớn trong công việc, gây ra sự mệt mỏi, căng
thẳng trong cán bộ, công chức.
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã sẽ tạo ra một đội ngũ
cán bộ, công chức cấp xã có cơ cấu hợp lý, đó là sự cân đối giữa các thành
phần dân tộc, giai cấp, nghề nghiệp, giới tính, độ tuổi; sự hợp lý đó sẽ tạo
nên sức mạnh tổng hợp, tính năng động, phối hợp nhòp nhàng, hài hòa và
sự kế thừa, phát triển trong đội ngũ cán bộ, công chức; đặc biệt hiện nay
với chủ trương của Đảng và Nhà nước là tăng tỷ lệ trẻ, tỷ lệ nữ trong đội
ngũ cán bộ, công chức cấp xã, thì công tác này sẽ biến chủ trương đó
thành kết quả trong thực tế.
Hai là: Tạo ra một đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có phẩm chất
chính trò, đạo đức, lối sống tốt:
+ Về phẩm chất chính trò: Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có
lòng yêu nước sâu sắc, kiên đònh mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghóa xã hội; chấp hành tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước, quyết tâm tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới. Có bản lónh
chính trò vững vàng, không dao động trước những khó khăn, thách thức và

những biến động của tình hình thế giới và trong nước. Có ý thức giữ vững
và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Kiên quyết
đấu tranh chống các quan điểm lệch lạc, sai trái của các thế lực thù đòch.
+ Về phẩm chất đạo đức, lối sống:
Có đạo đức cách mạng thì cán bộ, công chức mới có khả năng hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao, mới được nhân dân tin yêu và giúp đỡ, như
Hồ Chí Minh khẳng đònh: “Cũng như sông thì có nguồn, mới có nước,
không có nguồn thì cạn; cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo; người
cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân” [54, tr.252-253]. Tuy nhiên, trong thời
gian qua tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống trong một bộ phận không
nhỏ cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng, làm giảm sút lòng tin của
nhân dân, Đảng ta đánh giá: “Đó là một nguy cơ lớn liên quan đến sự sống
còn của Đảng, của chế độ’’ [4, tr.253]. Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức không thể không chú ý về đạo đức, lối sống. Trong giai đoạn
hiện nay, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có phẩm chất, đạo
đức tốt phải đáp ứng được yêu cầu:
Có tinh thần trách nhiệm cao, gương mẫu, đi đầu trong công
tác; xử lý hài hòa các lợi ích, đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc
lên trên hết. Liên hệ mật thiết với nhân dân, tôn trọng và bảo vệ
quyền làm chủ của nhân dân. Có lối sống trong sạch, lành mạnh,
có kỷ cương, kỷ luật. Không quan liêu, tham nhũng, lãng phí và
kiên quyết đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng
phí và các tiêu cực khác [4, tr.289-290].
Ba là: Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã còn tạo ra một
đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có trình độ năng lực chuyên môn:
Cán bộ, công chức có phẩm chất chính trò, đạo đức tốt mà không có
năng lực thì trong quá trình thực hiện nhiệm vụ sẽ gặp rất nhiều khó khăn,
thậm chí thất bại, như V.I.Lênin đề cập: “Chỉ dựa vào tinh thần xung kích,
vào tinh thần phấn khởi và nhiệt tình không thôi, thì không thể làm được

cái gì cả” [48, tr.253] và Lênin cũng cho rằng: “Lòng trung thành được kết
hợp với năng lực hiểu biết về con người, về năng lực giải quyết những vấn
đề tổ chức, thì chỉ có lòng trung thành đó mới có thể rèn luyện ra những tổ
chức lớn” [dt 13, tr.20].
Đối với Hồ Chí Minh, bên cạnh những đòi hòi về đạo đức cách
mạng, Người còn chú trọng đến việc nâng cao trình độ năng lực đối với
cán bộ, công chức, Người đã nói: “Năng lực của con người không phải
hoàn toàn tự nhiên mà có, mà phần lớn do công tác, do luyện tập mà có”
[53, tr.21]. Như vậy, năng lực khôg phải là phẩm chất bẩm sinh, mà phải
thông qua một quá trình rèn luyện, phấn đấu trong học tập, đặc biệt trong
hoạt động thực tiễn.
Vì vậy, bên cạnh những yêu cầu về phẩm chất chính trò, đạo đức,
lối sống thì xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã phải tạo ra được

×