Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tại tỉnh Phú Thọ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (509.39 KB, 86 trang )

Mục lục
Mở ĐầU...........................................................................................................................................2
Chơng 1.........................................................................................................................................7
MộT Số VấN Đề Lý LUậN Về CáN Bộ, CÔNG CHứC.........................................................7
ở VIệT NAM HIệN NAY...............................................................................................................7
1.1. quan niệm về công vụ..............................................................................7
1.2. quan niệm về cán bộ, công chức...........................................................13
1.3. yêu cầu và nội dung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức...................22
Chơng 2.......................................................................................................................................35
Thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức...................................................................35
tỉnh phú thọ hiện nay........................................................................................................35
2.1. thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức tỉnh Phú Thọ hiện nay...............35
2.2. Thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tại tỉnh Phú Thọ.......40
2.3. Đánh giá chung về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tỉnh Phú Thọ51
Chơng 3.......................................................................................................................................57
Phơng hớng và giảI pháp xây dựng............................................................................57
đội ngũ cán bộ, công chức tại tỉnh phú thọ.........................................................57
3.1. phơng hớng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tại tỉnh Phú Thọ......57
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tại
tỉnh Phú Thọ.................................................................................................63
Kết luận.....................................................................................................................................87
Danh mục tài liệu tham khảo.......................................................................................94
Danh mục tài liệu tham khảo.......................................................................................99
Mở ĐầU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ XX đến nay, sự phát triển mạnh
mẽ của khoa học công nghệ đã làm biến đổi sâu sắc tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội, mở ra một thời đại mới cùng sự phát triển của kinh tế tri thức. Đặc
trng cơ bản của kinh tế tri thức là nguồn nhân lực có trí tuệ, có kỹ năng, đợc đào
tạo cơ bản, do vậy vai trò của nguồn lực con ngời ngày càng tăng, hàm lợng trí
tuệ trong các sản phẩm lao động ngày càng cao, giá trị của tri thức ngày càng đợc


khẳng định ở mỗi quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới.
Hội nhập kinh tế thế giới, đất nớc ta đã thực sự bớc vào sân chơi của kinh tế
tri thức, mặc dù điểm xuất phát về kinh tế - xã hội của đất nớc ta còn thấp, nhng
Đảng ta đã vững vàng lãnh đạo Nhà nớc và nhân dân chủ động tham gia vào quá
trình toàn cầu hóa, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh kinh tế với tất cả các quốc gia,
dân tộc, các tổ chức kinh tế trên toàn thế giới. Trong quá trình đó, tuy phải đối
mặt với những nguy cơ, thách thức ngày càng nhiều hơn, song cũng đã và đang
mở ra cho đất nớc ta những cơ hội rất lớn để đi tắt, đón đầu, giúp cho đất nớc ta
nhanh chóng thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển, tiếp tục đẩy mạnh và hoàn
thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc vì mục tiêu dân giàu, nớc
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bớc đi lên chủ nghĩa xã hội.
Mục tiêu cao cả đó do Đảng ta khởi xớng và lãnh đạo có thể trở thành hiện thực
hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó chất lợng nguồn nhân lực mà
đặc biệt là nguồn nhân lực có chất lợng cao của đất nớc là yếu tố quan trọng
nhất. Chính vì vậy trong đờng lối lãnh đạo và điều hành đất nớc, Đảng và Nhà n-
ớc ta luôn chú trọng tới việc xây dựng, phát triển nguồn nhân lực phù hợp với
tình hình thực tiễn của đất nớc trong từng giai đoạn cách mạng cũng nh yêu cầu
tất yếu khách quan của nền kinh tế tri thức. Trong đó, việc xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, làm cho đội ngũ cán bộ, công
chức của đất nớc thực sự có đủ cả đức và tài, giữ vững vai trò nòng cốt, là cái
gốc của mọi công việc [40] nh lời Bác Hồ đã dạy. Vai trò của nguồn lực cán bộ,
công chức trong nền kinh tế tri thức đợc khẳng định là nhân tố quan trọng hàng
đầu trong phát triển kinh tế xã hội, nh nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần
2
thứ IX đã xác định: "Hoàn thiện chế độ công vụ, quy chế cán bộ, công chức, coi
trọng cả năng lực và đạo đức; bảo đảm tính nghiêm túc, trung thực trong thi tuyển
cán bộ, công chức. Đào tạo, bồi dỡng cán bộ, công chức, trớc hết là cán bộ lãnh
đạo, cán bộ quản lý về đờng lối, chính sách, về kiến thức và kỹ năng quản lý hành
chính Nhà nớc. Sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức theo chức danh, tiêu
chuẩn ". Do vậy, nâng cao chất lợng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu

phát triển kinh tế tri thức có thể đợc coi là khâu đột phá trong chiến lợc phát triển
kinh tế - xã hội của đất nớc.
Phú Thọ là tỉnh thuộc khu vực miền núi trung du phía Bắc, nằm trong khu
vực giao lu giữa vùng Đông Bắc, đồng bằng sông Hồng và Tây Bắc (vị trí địa lý
mang ý nghĩa trung tâm của tiểu vùng Tây - Đông Bắc), là cầu nối giao lu
kinh tế văn hóa khoa học kỹ thuật giữa các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ với các
tỉnh miền núi Tây Bắc. Nền kinh tế của tỉnh những năm qua đã có bớc phát triển,
tuy nhiên cha ổn định vững chắc, cha tơng xứng với tiềm năng, lợi thế của vùng.
Kinh tế chủ yếu phát triển theo chiều rộng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và ứng
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn chậm; tình hình an ninh, chính
trị và trật tự xã hội còn có nhiều yếu tố tiềm ẩn khó lờng. Vì vậy, công cuộc xây
dựng và phát triển kinh tế xã hội, củng cố và tăng cờng quốc phòng an ninh; xây
dựng hệ thống chính trị ở tỉnh Phú Thọ trong sạch vững mạnh là nhiệm vụ cấp
bách, đặc biệt là phải nhanh chóng xây dựng và nâng cao chất lợng đội ngũ cán
bộ, công chức vững mạnh, đồng bộ, đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ trong thời kỳ
đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc. Trớc những yêu cầu
bức thiết và thực tế ở địa phơng nên tôi chọn đề tài: Xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức tại tỉnh Phú Thọ hiện nay làm đề tài Luận văn thạc sĩ chuyên ngành
Lý luận và lịch sử Nhà nớc và Pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề xây dựng và nâng cao chất lợng đội ngũ cán bộ, công chức đã đợc
các nhà nghiên cứu khoa học xã hội, các nhà hoạt động chính trị trong nớc và
ngoài nớc quan tâm nh Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất l ợng đội ngũ
cán bộ, công chức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc
của PGS.TS. Nguyễn Phú Trọng và PGS.TS Trần Xuân Sầm, NXB Chính trị quốc
gia, 2003; Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng đòi hỏi của Nhà n ớc
3
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân của TS. Thang Văn Phúc và
TS. Nguyễn Minh Phơng, NXB Chính trị quốc gia, 2004; Công vụ, công chức
Những khía cạnh pháp lý và hành chính của GS.TS Phạm Hồng Thái, 2004; Hệ

thống công vụ và xu hớng cải cách của một số nớc trên thế giới của TS. Thang
Văn Phúc TS. Nguyễn Minh Phơng TS. Nguyễn Thu Huyền, NXB Chính
trị quốc gia, 2004; Về chế độ công vụ Việt Nam do PGS.TS Nguyễn Trọng Điều
chủ biên, NXB Chính trị quốc gia, 2007
Vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cũng đợc đặc biệt quan tâm
trong các luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ, cử nhân dới nhiều góc độ khác nhau
nh Luận án tiến sỹ luật học Trách nhiệm pháp lý của công chức trong điều kiện
xây dựng nhà nớc pháp quyền hiện nay của tác giả Ngô Hải Phan (2004); Luận
văn thạc sỹ luật học Nâng cao chất l ợng đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền
các xã miền núi đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh Bắc Giang hiện nay của tác giả
Lê Đình Vỹ (2005); Đề tài khoa học cấp tỉnh Nghiên cứu các giải pháp về đào tạo
nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lợng cao tỉnh Phú Thọ của ThS. Nguyễn
Quang Hậu (2008-2009); Luận văn thạc sỹ luật học Xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức hành chính nhà nớc theo yêu cầu cải cách hành chính của tỉnh Bình Ph-
ớc hiện nay của tác giả Giang Thị Phơng Hạnh (2009)
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nêu trên đều đề cập đến vấn đề cán
bộ, công chức, hoặc là ở dạng chung nhất hoặc đặt nó nằm trong từng phạm vi
nghiên cứu cụ thể đã cung cấp nhiều t liệu quý báu về cơ sở lý luận, về kiến thức,
kinh nghiệm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nớc. Tuy nhiên, ngoài
những vấn đề chung đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức thì với các
địa phơng khác nhau sẽ cần có yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức khác
nhau phù hợp thực tiễn ở các địa phơng đó trong mỗi giai đoạn cách mạng, trong
khi đó cha có công trình nào nghiên cứu việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
tại tỉnh Phú Thọ hiện nay. Chính vì vậy, đây là vấn đề bức thiết cần đợc nghiên
cứu một cách cụ thể, toàn diện trên cả phơng diện lý luận và thực tiễn nhằm góp
phần phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
4
Làm rõ một số vấn đề lý luận, đánh giá đúng thực trạng, đề xuất phơng h-

ớng và giải pháp chủ yếu xây dựng và nâng cao chất lợng đội ngũ cán bộ, công
chức trên địa bàn tỉnh Phú Thọ đáp ứng với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện đợc mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ cụ thể sau
đây:
+ Hệ thống hóa các vấn đề lý luận cơ bản về xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức.
+ Phân tích thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức ở tỉnh Phú Thọ qua đó nêu
ra những vấn đề tồn tại cần khắc phục cũng nh phân tích các nguyên nhân, hạn
chế.
+ Đề xuất phơng hớng và giải pháp xây dựng và nâng cao chất lợng đội ngũ
cán bộ, công chức ở địa bàn tỉnh Phú Thọ đáp ứng với yêu cầu mới hiện nay và
những năm tiếp theo.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tại tỉnh
Phú Thọ giai đoạn 2003-2008 và đề xuất giải pháp đến năm 2015, định hớng đến
năm 2020.
5. Phơng pháp nghiên cứu
- Dựa trên phơng pháp luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin, t tởng Hồ Chí Minh
về công tác cán bộ, quá trình nghiên cứu sử dụng phơng pháp luận Duy vật biện
chứng và Duy vật lịch sử; phơng pháp thống kê, so sánh, phân tích, quy nạp, diễn
dịch và phơng pháp thực chứng để phân tích làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
- Kế thừa có chọn lọc và phát huy kết quả các công trình nghiên cứu của các
tác giả khác có liên quan đến vấn đề đang nghiên cứu nh: Luận án, luận văn, đề
tài nghiên cứu, bài viết đăng trên các tạp chí, báo,...
6. Đóng góp khoa học và ý nghĩa của luận văn
6.1. Đóng góp khoa học của luận văn
- Khái quát có hệ thống, phân tích và đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ,
công chức của tỉnh Phú Thọ trong những năm gần đây.

5
- Đề xuất một số phơng hớng và giải pháp nhằm nâng cao chất lợng đội ngũ
cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh Phú Thọ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai
đoạn hiện nay.
6.2. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức tại tỉnh Phú Thọ, đặc biệt trong giai đoạn đẩy
mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nớc và tham gia hội nhập quốc
tế hiện nay.
- Luận văn có thể làm t liệu tham khảo trong việc nghiên cứu, giảng dạy ở
trờng chính trị tỉnh và trung tâm bồi dỡng chính trị các huyện, thành, thị uỷ trong
toàn tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chơng, 8 tiết.
6
Chơng 1
MộT Số VấN Đề Lý LUậN Về CáN Bộ, CÔNG CHứC
ở VIệT NAM HIệN NAY
1.1. quan niệm về công vụ
1.1.1. Khái quát về công vụ
Cán bộ, công chức là những vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời
sống nhà nớc và xã hội của tất cả các quốc gia vì cán bộ, công chức là những ng-
ời, trong nhiều trờng hợp, nhân danh nhà nớc, sử dụng quyền lực nhà nớc để thực
hiện nhiệm vụ, chức năng quản lý nhà nớc, thi hành pháp luật, đa pháp luật vào
đời sống xã hội, sử dụng ngân sách nhà nớc và tài sản công. Tất cả những hoạt
động đó đều trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hởng tới đời sống nhà nớc, xã hội,
đời sống cộng đồng dân c, quyền, tự do, lợi ích hợp pháp của công dân. Do đó,
khi nói đến cán bộ, công chức không thể không đề cập đến kết quả hoạt động của
ngời cán bộ, công chức thông qua chế độ công vụ, bởi công vụ là một dạng hoạt

động hay lao động đặc biệt do cán bộ, công chức của bộ máy nhà nớc thực hiện.
Khi quan niệm về công vụ ra sao thì sẽ có một quan niệm nhất định về cán bộ,
công chức tơng ứng. Nói cách khác, quan niệm về cán bộ, công chức đợc xây
dựng trên cơ sở gắn liền với quan niệm về chế độ công vụ. Bản thân kết quả thực
thi công vụ lại là sản phẩm hoạt động của ngời cán bộ, công chức. Ngợc lại, hiệu
lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nớc tuỳ thuộc vào chất lợng thực thi
công vụ của cán bộ, công chức.
Từ góc độ lao động xã hội thì công vụ là một dạng lao động xã hội đặc biệt
khác với các loại lao động xã hội khác. Công vụ là hoạt động nhà nớc do cán bộ,
công chức nhà nớc thực hiện dựa trên cơ sở quyền lực nhà nớc và pháp luật, đợc
bảo đảm bằng quyền lực nhà nớc, pháp luật và sử dụng quyền lực đó để thực thi
các nhiệm vụ, chức năng quản lý nhà nớc.
Công vụ là một khái niệm, một phạm trù mang tính lịch sử. ở mỗi giai đoạn
lịch sử khác nhau và ở mỗi chế độ nhà nớc khác nhau, nền công vụ đợc quy định
khác nhau do có những cách hiểu, quan niệm khác nhau về phạm vi khái niệm
công vụ. Phạm vi công vụ luôn phụ thuộc vào quan điểm chính trị, chế độ chính
7
trị - xã hội và bản chất của nhà nớc. Từ những góc độ khác nhau, có những quan
niệm khác nhau về công vụ, mỗi một chế độ chính trị - xã hội nhà khoa học lại
có thể đa ra quan niệm của mình về công vụ, vì đây là vấn đề lý thuyết. Lý thuyết
là nhận thức, suy nghĩ của con ngời về thực tiễn. Hoạt động của cán bộ, công
chức là có thật trong thực tiễn, còn đó là hoạt động gì, khác với các hoạt động,
hay lao động xã hội khác nh thế nào là do con ngời suy nghĩ, phản ánh nó.
Dới chế độ phong kiến, cả phơng đông và phơng tây với chính thể quân chủ
tuyệt đối, công vụ đợc xem nh một sứ mạng thiêng liêng cao cả, đợc xã hội trọng
vọng, tôn vinh và cũng là nơi quy tụ các lợi ích vật chất, quyền thế về tinh thần
đối với nhân dân. Việc tuân thủ mệnh lệnh của nhà vua tức là thực thi bổn phận
công vụ. Do đó, công vụ xét cho cùng là chế độ phục vụ nhà vua. Nhiều tác giả
khi nghiên cứu về công vụ của nhà nớc phong kiến Việt Nam đều cho rằng:
Công vụ ngày xa là việc quan, là một công việc ai cũng xem là quan trọng, một

phần là vì những chế tài mà các nhà cầm quyền có thể sử dụng, nhng phần vì đối
với xã hội, đối với tâm lý thông thờng của con ngời, những ngời đợc lên những
chức vị cao cũng đều đợc mọi tầng lớp xã hội kính trọng [33].
- Trong nhà nớc t sản, công vụ xét về bản chất là sự phục vụ cho quyền lực
công. Tuy nhiên, do sự khác nhau trong tổ chức nhà nớc nên ngay trong các nhà
nớc t sản cũng tồn tại một số quan niệm khác nhau về công vụ. Tiêu biểu là hai
quan niệm về công vụ làm cơ sở cho hai chế độ công vụ cơ bản sau đây:
Thứ nhất, chế độ công vụ chức nghiệp. Trong chế độ này, công vụ đợc quan
niệm nh một chức nghiệp, do đó nó đợc duy trì liên tục và ổn định không phụ
thuộc vào sự thay đổi của chính trị. Ngời công chức đợc đào tạo, tuyển chọn một
cách kỹ lỡng vào công vụ và đợc đảm bảo suốt đời. Hệ thống công vụ này đợc
gọi là hệ thống chức nghiệp. Công chức đợc coi nh một loại ngời chuyên làm
công việc nhà nớc, địa vị của họ đợc tôn vinh. Các nớc theo chế độ chức nghiệp
điển hình là Pháp, Đức, Canada,...
Quan niệm này đã coi công vụ là một nghề nghiệp của con ngời, nên nền
công vụ này trở nên cứng nhắc, khó thay đổi. Trong bản thân nền công vụ chia ra
nhiều thứ bậc theo văn bằng, tạo nên sự trì trệ, khó thích ứng với sự biến động.
Chế độ công vụ theo chức nghiệp dẫn đến sự ổn định của nền hành chính, nhng
lại làm cho nó thiếu năng động, cuối cùng có thể dẫn đến kìm hãm sự phát triển
8
về kinh tế. Hạn chế này khiến các quốc gia đang phát triển có nền công vụ chức
nghiệp phải liên tục cải cách và tiếp thu các yếu tố tiến bộ của nền công vụ việc
làm [51].
Thứ hai, quan niệm công vụ là một công việc nhất thời, một việc làm. Căn
cứ để tuyển dụng, sắp xếp công chức chỉ dựa vào công việc, vào chức vụ ngời đó
đảm nhiệm chứ không phải dựa vào bản thân ngời công chức đó. Ngời ta coi việc
tìm kiếm công việc trong các cơ quan, tổ chức nhà nớc cũng không khác gì tìm
kiếm công việc trong một doanh nghiệp t. Ngời ta quan niệm công vụ là một việc
làm chứ không phải là một nghề nghiệp, nên việc tuyển chọn công chức đợc tiến
hành theo nhu cầu của công việc. Vì vậy, các cơ quan nhà nớc có thể thay đổi vị

trí công chức theo yêu cầu công việc và theo công trạng, năng lực của bản thân
từng công chức. Chế độ công vụ này tạo ra sự cạnh tranh nội bộ giữa các công
chức, đồng thời có sự cạnh tranh giữa những ngời trong công vụ và ngoài công
vụ. Các nớc có nền công vụ theo chế độ việc làm là Mỹ, Hà Lan và các quốc gia
chịu ảnh hởng của Mỹ.
Do đặc điểm này mà nền công vụ việc làm (chức vụ) không tạo ra sự ổn
định cần thiết cho nền hành chính, đội ngũ công chức không có tính liên tục và
kế thừa. Tuy vậy, nền công vụ này rất năng động và có hiệu suất cao, do tận dụng
đợc hết mọi khả năng của ngời công chức [51].
- Đối với các nớc đang phát triển, mới giành đợc độc lập, nền công vụ ở các
nớc này thờng mang đặc trng hỗn hợp, chịu ảnh hởng từ nhiều nền công vụ khác,
công vụ phong kiến, công vụ chức nghiệp, công vụ việc làm, cũng nh bản sắc
riêng của quốc gia đó. Nền công vụ cha đợc định hình, thờng nghiêng về mô hình
công vụ nớc nào nó chịu ảnh hởng nhiều nhất, thông thờng là nớc cai trị trớc kia.
- Trong nhà nớc xã hội chủ nghĩa trớc đây, có ý kiến cho rằng tồn tại một
nền công vụ riêng, với đặc trng của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa trong đó
Đảng cộng sản giữ vai trò lãnh đạo. Đội ngũ nhân sự trong tổ chức Đảng cũng
nh trong Nhà nớc đều do Đảng bố trí sắp xếp, quản lý, cùng hởng quy chế pháp
lý chung với các đối tợng cán bộ Đảng, tổ chức xã hội. Việc luân chuyển nhân
lực từ ngành này sang ngành khác, từ trung ơng đến địa phơng, từ tổ chức Đảng,
tổ chức xã hội sang cơ quan nhà nớc và ngợc lại rất đơn giản, không cần thi
tuyển, kiểm tra, sát hạch và chuyển đổi chuyên môn nghề nghiệp do yêu cầu
9
của tổ chức, do tổ chức phân công. Do vậy, không tạo ra sự ổn định và tính
chuyên nghiệp của nền công vụ, ngời công chức không tích lũy đợc kinh nghiệm,
không thích nghi với công việc [51].
ở Việt Nam, hoạt động do các cán bộ, công chức, viên chức trong bộ máy
của Nhà nớc, Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức xã hội khác thực
hiện đều là hoạt động phục vụ lợi ích công, lợi ích chung của xã hội, của cộng
đồng. Điều này bắt nguồn từ bản chất nhà nớc ta là nhà nớc của nhân dân, do

nhân dân và vì nhân dân, mục tiêu chung của hệ thống chính trị là xây dựng một
xã hội dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Hoạt động của
tất cả các chủ thể đó suy cho cùng đều đợc bảo đảm bằng ngân sách nhà nớc. Vì
vậy, có thể nói rằng đây là hoạt động công vụ với nghĩa đầy đủ nhất của từ và
chỉ có thể hiểu nh vậy mới thấy đợc đặc thù của chế độ chính trị ở nớc ta Chế
độ chính trị có một đảng lãnh đạo nhà nớc và xã hội.
Điều 2 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định Hoạt động công vụ của
cán bộ, công chức là việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức
theo quy định của Luật này và các quy định khác có liên quan, qua đó có thể
nhận thấy công vụ có những đặc điểm chính sau đây:
Một là, công vụ trớc hết là hoạt động có tính chất phục vụ. Toàn bộ hoạt
động của bộ máy hành chính - nhà nớc thực chất có tính chất phục vụ. Bản thân
hoạt động hành pháp thực chất là nhằm đa pháp luật do quyền lập pháp ban hành
vào đời sống, do đó dới góc độ này, nó mang tính chất phục vụ quyền lập pháp.
Đồng thời, quyền hành pháp còn mang tính chất phục vụ dân chúng và cả hoạt
động t pháp, vì trong cơ quan t pháp vẫn có công chức làm việc. Nhng tính chất
phục vụ ở đây gắn với nhà nớc, do nhà nớc thông qua bộ máy các cơ quan nhà n-
ớc, các cán bộ, công chức, viên chức thực hiện, do đó tính chất phục vụ ở đây,
trực tiếp hay gián tiếp đều gắn với tính quyền lực và pháp lý.
Hai là, hoạt động công vụ có tính chuyên nghiệp. Tính chất này xuất phát từ
yêu cầu chuyên môn hóa của khách thể quản lý, của công vụ nhà nớc, đặc biệt
trong điều kiện khoa học, công nghệ phát triển cao của thế giới hiện đại. Nó
đồng thời là điều kiện cần thiết bảo đảm cho hoạt động công vụ có khả năng giải
quyết đợc các vấn đề nảy sinh trong việc thực hiện các chức năng của Nhà nớc
trong điều kiện hiện nay. Tính chuyên nghiệp đợc hiểu cả ở hai mặt: là hoạt động
10
đòi hỏi phải có kiến thức chuyên môn về các ngành và lĩnh vực quản lý, đồng
thời đòi hỏi cả hiểu biết về khoa học quản lý. Thực tiễn chế độ công vụ nớc ta
đang phát triển theo hớng coi công vụ là một nghề tơng tự nh chế độ công vụ
chức nghiệp, tuy có kết hợp ít nhiều với chế độ công vụ theo việc làm.

Ba là, hoạt động công vụ có thể không trực tiếp làm ra của cải vật chất cho
xã hội nhng bảo đảm các điều kiện, hỗ trợ, tổ chức quản lý hoạt động sản xuất
của cải vật chất. Nói cách khác, đó là hoạt động quản lý con ngời, nhằm tác động
lên con ngời hoặc phục vụ con ngời. Đây là hoạt động của những ngời làm quản
lý chuyên nghiệp - công chức, những ngời thực hiện hoạt động hành chính - nhà
nớc theo cách nói thông dụng hiện nay; và của cả những ngời có uy tín và năng
lực quản lý đợc bầu - cán bộ. Ngoài ra, công vụ còn bao gồm cả hoạt động của
các chuyên gia trong các lĩnh vực hoạt động khác của Nhà nớc nh: giáo dục (giáo
viên), khoa học - công nghệ (nghiên cứu viên, kỹ s, kiến trúc s...), y tế (bác sĩ...),
văn hóa nghệ thuật (họa sĩ, nhạc sĩ, nhà văn...). Đây lại không phải là hoạt động
quản lý con ngời, mà là hoạt động trực tiếp làm ra những sản phẩm tinh thần cho
xã hội, tuy không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất.
Bốn là, hoạt động công vụ nhà nớc đợc bảo đảm bằng ngân sách nhà nớc.
Đặc trng cơ bản của nhà nớc là nhà nớc đặt ra thuế và thu thuế để nuôi dỡng bộ
máy nhà nớc, đảm bảo sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội Đây là một đặc
điểm rất quan trọng để phân biệt hoạt động công vụ với hoạt động sản xuất kinh
doanh hay thực hiện các dịch vụ xã hội. Vì vậy, mọi hoạt động công vụ của cán
bộ, công chức không vì mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận và đợc bảo đảm hoạt động
bằng ngân sách nhà nớc.
1.1.2. Các nguyên tắc của công vụ nhà nớc
Các nguyên tắc của công vụ nhà nớc là những t tởng chủ đạo, chi phối toàn
bộ nền công vụ nhà nớc. Bản chất công vụ khác nhau nên có những nguyên tắc
mang tính chính trị xã hội khác nhau. Các nguyên tắc của công vụ nhà nớc đ-
ợc xác định bởi nội dung hoạt động công vụ, nghĩa là suy cho cùng, đợc xác định
bởi tính chất của nhà nớc, bởi bản chất giai cấp và tính xã hội của nhà nớc. Khi
nghiên cứu vấn đề này cũng cần phải thấy đợc mối liên hệ giữa bản chất nhà nớc
với bản chất của nền công vụ nhà nớc.
11
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về công vụ nhà nớc nên cũng có sự không
thống nhất về các nguyên tắc của công vụ nhà nớc, nhng nhìn chung, từ quan

niệm coi công vụ nhà nớc chỉ là hoạt động của cán bộ, công chức nhà nớc thì các
nguyên tắc của công vụ nhà nớc nh sau:
- Thứ nhất, công vụ nhà nớc có nhiệm vụ, bổn phận phục vụ nhân dân, nhà
nớc, xã hội nói chung, thể hiện ở chỗ thực hiện công vụ nhà nớc là thực hiện
nhiệm vụ và chức năng nhà nớc; cán bộ, công chức nhà nớc phải chịu sự kiểm tra
của nhân dân và của cơ quan quyền lực nhà nớc; cán bộ, công chức thực thi công
vụ nhằm mục đích phục vụ nhân dân, phục vụ nhà nớc.
- Công vụ nhà nớc đợc thực hiện trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ.
Nguyên tắc này thể hiện trớc hết là các cơ quan nhà nớc ở trung ơng xác định
danh mục các chức vụ trong cơ quan, tổ chức nhà nớc, định ra các phơng thức
tuyển chọn, thăng chức, giáng chức và thuyên chuyển cán bộ, công chức; quy
định các ngạch, bậc công chức và chế độ đãi ngộ chung. Khi quyết định những
vấn đề quan trọng đó, các cơ quan trung ơng cần phải tham khảo ý kiến của các
cơ quan nhà nớc ở địa phơng và các tổ chức xã hội, có phân cấp quản lý cán bộ,
công chức rõ ràng, xuất phát từ các nguyên tắc phân biệt chức năng của Đảng và
nhà nớc, phát huy tính tự chủ, tự quản địa phơng, xem trọng ý kiến và d luận xã
hội
- Đảm bảo dân chủ trong nền công vụ nhà nớc bởi đây là hoạt động có tính
chất phục vụ, đáp ứng các yêu cầu của công dân, do đó nhân dân có thể tham gia
vào việc đa ra các quyết định của các cơ quan nhà nớc và giám sát hoạt động của
các cơ quan nhà nớc đó.
- Công khai và bình đẳng trong công vụ nhà nớc đòi hỏi các cơ quan nhà n-
ớc phải công khai hóa các hoạt động công vụ nhà nớc, phải minh bạch trong
công vụ, trừ những vấn đề có liên quan tới bí mật quốc gia, bí mật công vụ và
liên quan tới an ninh quốc gia.
- Đảm bảo bình đẳng trong hoạt động công vụ. Đây là nguyên tắc có liên
quan mật thiết với nguyên tắc dân chủ và công khai bởi mọi công dân đều có khả
năng tham gia nền công vụ tùy theo năng lực chuyên môn và phẩm hạnh, sức
khỏe của mình mà không lệ thuộc vào bất kỳ điều kiện khác nào. Khi đã gia nhập
nền công vụ thì cán bộ, công chức đều bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ

12
công vụ, không bị phân biệt đối xử trong hoạt động công vụ giữa những ngời
khác nhau về giới tính, dân tộc và tôn giáo
- Nguyên tắc hiến định trong hoạt động công vụ là đảm bảo tính pháp chế.
Điều 12 Hiến pháp 1992 quy định: Nhà nớc quản lý xã hội bằng pháp luật, không
ngừng tăng cờng pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan nhà nớc, tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh
chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm,
các vi phạm hiến pháp. Nguyên tắc này đòi hỏi mọi cơ quan nhà nớc, mọi cán bộ,
công chức khi thực thi công vụ đều phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và
pháp luật, tôn trọng pháp luật và đặt công vụ nhà nớc trong một trật tự pháp luật.
Tóm lại, công vụ nhà nớc là một dạng lao động của xã hội, nhằm thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của nhà nớc, lợi ích của nhân dân, của tập thể, của cá nhân.
Hoạt động công vụ luôn gắn liền với quyền lực nhà nớc, đợc pháp luật điều
chỉnh, chủ yếu do cán bộ, công chức nhà nớc nhân danh quyền lực nhà nớc thực
hiện, nhng đồng thời hoạt động công vụ cũng mang tính phục vụ và có sự tham
gia, giám sát của nhân dân.
1.2. quan niệm về cán bộ, công chức
1.2.1. Quan niệm về cán bộ
Thuật ngữ cán bộ đợc sử dụng khá lâu tại các nớc xã hội chủ nghĩa và bao
hàm một diện rất rộng các loại nhân sự thuộc khu vực nhà nớc và các tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị xã hội. Thuật ngữ khi đó thờng dùng là cán bộ, công
nhân viên chức, bao quát tất cả những ngời làm công hởng lơng từ nhà nớc, kể
từ những ngời đứng đầu một cơ quan tới các nhân viên phục vụ nh lái xe, bảo vệ
hay lao công tạp vụ.
Do những điều kiện lịch sử nhất định, suốt một thời gian dài trong đời sống
chính trị - pháp lý ở Việt Nam tồn tại một tập hợp khái niệm cán bộ, công nhân,
viên chức không có sự phân biệt rạch ròi từng khái niệm cũng nh quy chế pháp
lý đối với từng nhóm. Pháp lệnh cán bộ công chức năm 1998 (sửa đổi bổ sung
năm 2003) đề cập tới ba đối tợng cán bộ, công chức, viên chức nhng không thể

hiện rõ ai là cán bộ, ai là công chức, ai là viên chức mà quy định chung các đối t -
ợng cán bộ, công chức là công dân Việt Nam, trong biên chế. Có thể nói, thuật
13
ngữ cán bộ đợc sử dụng nh là một ớc lệ, cha thể hiện tính chất hành chính, cha rõ
nội hàm của khái niệm. Đây cũng là một hạn chế của Pháp lệnh cán bộ, công
chức.
Cụ thể hóa Pháp lệnh cán bộ, công chức, Chính phủ đã ban hành các Nghị
định số 114/2003/NĐ-CP về cán bộ, công chức xã, phờng, thị trấn; Nghị định số
115/2003/NĐ-CP về chế độ công chức dự bị; Nghị định số 116/2003/NĐ-CP về
tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong đơn vị sự nghiệp của Nhà
nớc, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; Nghị định số 117/2003/NĐ-CP về
tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nớc. Trên
cơ sở nghiên cứu quy định của pháp lệnh và các nghị định, chúng ta có thể hiểu
cán bộ là những ngời do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong các
cơ quan nhà nớc, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ơng, ở cấp
tỉnh và cấp huyện.
Cùng với xu hớng toàn cầu hóa về kinh tế, những thành tựu của sự phát triển
kinh tế - xã hội chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cờng mở rộng giao lu
hợp tác nhiều mặt với các nớc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại,
đồng thời, công cuộc cải cách hành chính ngày nay đặt ra nhu cầu chuyên biệt
hóa trong sự điều chỉnh pháp luật ngày càng rõ nét, đòi hỏi phải có sự thống nhất
về nhận thức trong sự phân định các khái niệm có liên quan. Luật cán bộ, công
chức đợc Quốc hội ban hành tháng 11/2008, có hiệu lực từ ngày 01/01/2010 đã
quy định cụ thể:
Cán bộ là công dân Việt Nam, đợc bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức
vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nớc, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ơng, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ơng
(sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau
đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hởng lơng từ ngân sách nhà nớc.
[44]

Nh vậy, đến nay khái niệm cán bộ đã đợc quy định cụ thể, rõ ràng, xác định
rõ nội hàm, đó là những ngời giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong các cơ
quan nhà nớc thuộc hệ thống chính trị Việt nam, từ trung ơng đến cấp huyện,
quận và tơng đơng. Tùy góc độ và mục tiêu xem xét có thể phân biệt đội ngũ cán
bộ thành các nhóm khác nhau:
14
- Xét về loại hình có thể phân thành: cán bộ đảng, đoàn thể; cán bộ nhà nớc;
cán bộ kinh tế và quản lý kinh tế; cán bộ khoa học kỹ thuật.
- Xét theo tính chất và chức năng, nhiệm vụ có thể phân thành: nhóm chính
khách; nhóm lãnh đạo, quản lý; nhóm chuyên gia; nhóm công chức, viên chức.
+ Nhóm chính khách: Những cán bộ lãnh đạo ở tầm vĩ mô của đất nớc còn
đợc gọi là những nhà lãnh đạo chính trị cấp quốc gia hoặc là các chính khách.
Các nhà chính trị có thể đợc phân loại theo những căn cứ khác nhau nh: nhà
chính trị chuyên nghiệp và nhà chính trị không chuyên nghiệp; nhà chính trị
tham gia bộ máy nhà nớc và nhà chính trị không tham gia bộ máy nhà nớc. Họ
không thuộc đội ngũ công chức nhà nớc và ở mức độ nhất định, họ có vị trí độc
lập trong quan hệ với nền hành chính nhà nớc.
Do hoàn cảnh và điều kiện chính trị - xã hội đặc thù của Việt Nam nên
trong đời sống xã hội cũng nh trong các chế định pháp lý cha có sự phân định rõ
ràng chức danh và trách nhiệm của các nhà hoạt động chính trị. Vấn đề chất lợng
của đội ngũ cán bộ, công chức và đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị
cấp quốc gia có tầm quan trọng đặc biệt đối với công cuộc đổi mới. Do đó, bồi d -
ỡng, đào tạo và rèn luyện để hình thành rõ nét tâm lý, ý thức của các nhà lãnh
đạo chính trị để họ đạt tới tầm chính khách, đồng thời có quy chế hợp lý để các
chính khách thực hiện tốt vai trò, sứ mệnh của mình là việc làm hết sức cần thiết
nhằm góp phần nâng cao chất lợng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nớc.
+ Nhóm cán bộ lãnh đạo, quản lý: bao gồm những ngời giữ chức vụ và trách
nhiệm điều hành trong một cơ quan, tổ chức, đơn vị, có ảnh hởng lớn đến hoạt
động của tổ chức, có vai trò quyết định và định hớng, điều khiển hoạt động của
cả bộ máy.

Thông thờng, cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý đợc hiểu tơng đồng vì cán
bộ lãnh đạo, quản lý đều phải là ngời giỏi nghiệp vụ chuyên môn, có khả năng tổ
chức công việc và đoàn kết tập thể.
Tuy nhiên, khái niệm lãnh đạo và khái niệm quản lý không hoàn toàn đồng
nhất với nhau. Vì khái niệm lãnh đạo thờng dùng để chỉ khả năng định hớng
xác định mục đích lâu dài và khả năng lôi cuốn, thúc đẩy mọi ngời, thờng đợc
gắn liền với việc thiết lập đờng lối, chính sách. Còn quản lý dùng để chỉ khả
năng tổ chức, xác định mục tiêu cụ thể để thi hành các đờng lối chính sách ấy.
15
Chức năng quản lý là sự tiếp tục của chức năng lãnh đạo, là bớc đi kế tiếp của
lãnh đạo, đó là khâu tất yếu để thực hiện sự lãnh đạo. Trên thực tế, sự phân biệt
này chỉ là tơng đối nhng lại rất cần cho công tác tổ chức cán bộ, làm cơ sở cho
việc xác định tiêu chuẩn, chức năng của ngời cán bộ lãnh đạo và ngời cán bộ
quản lý.
+ Nhóm chuyên gia: gồm những ngời giỏi một nghề, một ngành, có trình độ
lý thuyết cao và năng lực hành động thực tiễn, năng lực nghiên cứu, sáng tạo, giải
quyết một vấn đề lý luận hay thực hành. Họ phải có trình độ văn hóa rộng, hiểu
biết chuyên môn sâu, có năng lực và vốn trí tuệ ngoại ngữ để cập nhật những
thông tin mới. Đây là nhóm nhân lực bậc cao của xã hội, có vai trò nh một bộ
phận mũi nhọn của sự phát triển. ở bất cứ lĩnh vực, ngành nghề nào, nếu thiếu
chuyên gia thì công việc ở đó không thể đạt tới trình độ, chất lợng cao, vì vậy khi
nói đến đỉnh cao của chất lợng đội ngũ cán bộ công chức phải nói đến chuyên
gia.
+ Nhóm công chức, viên chức: bao gồm những ngời đợc tuyển dụng để trực
tiếp thực thi các công việc hàng ngày của cơ quan, tổ chức, đợc hởng lơng theo
ngạch bậc, trình độ và chức vụ. Đây là nhóm có số lợng đông đảo trong toàn bộ
đội ngũ cán bộ, công chức.
1.2.2. Quan niệm về công chức
Công chức là thuật ngữ đợc sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới
để chỉ những ngời đợc tuyển dụng, bổ nhiệm vào làm việc thờng xuyên trong các

cơ quan nhà nớc và hởng lơng từ ngân sách nhà nớc. Tuy nhiên, do tính đặc thù
của từng quốc gia nên quan niệm về công chức ở các nớc không hoàn toàn thống
nhất. Sự khác nhau này thể hiện trong các quan điểm dới đây:
- Quan điểm thứ nhất thờng xuất phát ở các nớc xã hội chủ nghĩa. Do đồng
nhất hoạt động công vụ với hoạt động quản lý của Đảng, đoàn thể dẫn đến quan
niệm về khái niệm công chức không chỉ bao gồm các đối tợng làm việc trong cơ
quan nhà nớc (cả lập pháp, hành pháp và t pháp) mà cả trong các tổ chức Đảng,
đoàn thể, thậm chí trong cả các đơn vị sản xuất.
- Quan điểm thứ hai cho rằng, công chức bao gồm những ngời làm việc
trong bộ máy nhà nớc nói chung, tơng ứng với quan niệm công vụ là hoạt động
16
của toàn bộ bộ máy nhà nớc (bao gồm hoạt động của công chức trong cơ quan
quyền lực, xét xử, kiểm sát và cơ bản nhất là trong các cơ quan quản lý nhà nớc).
- Quan điểm thứ ba cho rằng, công chức bao gồm những ngời hoạt động
trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp của Nhà nớc và bộ máy phục vụ của các
cơ quan nhà nớc khác, giữ một công vụ thờng xuyên, ổn định.
- Quan điểm thứ t thuần túy cho rằng, công chức chỉ bao gồm những đối t-
ợng phục vụ trong bộ máy hành chính, giữ một chức vụ thờng xuyên và ổn định,
quan niệm này xuất phát từ chỗ coi công vụ nhà nớc chỉ là hoạt động của các cơ
quan hành chính.
Từ những quan niệm trên về công chức, mà ở những nớc khác nhau cũng có
những quy định khác nhau về đối tợng này.
ở Pháp, khái niệm công chức rất rộng, ngời công chức đợc phân thành hai
loại. Loại thứ nhất là những nhân viên công chức làm việc thờng xuyên trong bộ
máy nhà nớc, bị chi phối bởi Luật công chức; loại thứ hai là những nhân viên
công chức bị chi phối bởi Luật lao động, bởi bản hợp đồng và luật t. Họ đợc nhà
nớc hoặc cộng đồng lãnh thổ bổ nhiệm vào một công việc thờng xuyên trong các
công sở hay công sở tự quản, kể cả các bệnh viện [42].
ở Trung Quốc, một nớc theo thể chế Cộng hòa dân chủ nhân dân, chế độ
một Đảng lãnh đạo, khái niệm công chức nhà nớc dùng để chỉ những ngời công

tác trong các cơ quan hành chính nhà nớc các cấp, từ nhân viên phục vụ. Gồm hai
loại: Công chức lãnh đạo là những ngời thừa hành quyền lực hành chính nhà nớc,
đợc bổ nhiệm theo các trình tự luật định, chịu sự điều chỉnh của Hiến pháp, Điều
lệ công chức và Luật tổ chức chính quyền các cấp; và công chức nghiệp vụ là
những ngời thi hành chế độ thờng nhiệm, do cơ quan hành chính các cấp bổ
nhiệm và quản lý căn cứ vào Điều lệ công chức, họ chiếm tuyệt đại đa số công
chức nhà nớc, chịu trách nhiệm quán triệt, chấp hành chính sách và pháp luật
[42].
ở Mỹ, công chức bao gồm tất cả những nhân viên trong ngành hành chính
của Chính phủ, kể cả những ngời đợc bổ nhiệm về Chính trị nh Bộ trởng, Thứ tr-
ởng, trợ lý Bộ trởng, ngời đứng đầu các cơ quan Chính phủ. Tuy nhiên, khái niệm
công chức trong diện điều chỉnh của Luật Công chức lại không bao gồm những
17
công chức đợc bổ nhiệm về chính trị, họ đợc gọi là công chức chức nghiệp. Đặc
điểm của công chức Mỹ là không mang tính thờng xuyên liên tục mà tồn tại hệ
thống thải loại; việc tuyển chọn, bổ nhiệm công chức chủ yếu theo công trạng
thực tế, công chức chỉ đợc tuyển dụng vào một công việc cụ thể mà không có con
đờng chức nghiệp [42].
ở Cộng hòa Liên bang Đức, công chức Đức bao gồm những nhân viên làm
việc trong các cơ quan, tổ chức văn hóa, nghệ thuật giáo dục và nghiên cứu khoa
học quốc gia, nhân viên công tác trong các doanh nghiệp công ích do nhà nớc
quản lý, các nhân viên, quan chức làm việc trong các cơ quan chính phủ, giáo s
đại học, giáo viên trung học, tiểu học, bác sỹ, hộ lý bệnh viện, nhân viên lái xe
lửa [42].
ở Việt Nam, khái niệm công chức đợc hình thành gắn liền với sự phát triển
của nền hành chính nhà nớc. Văn bản có tính pháp lý đầu tiên quy định về công
chức là Sắc lệnh số 76/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 20/5/1950, tại Điều
1 quy định công chức là những công dân Việt Nam đợc chính quyền nhân dân
tuyển để giữ một chức vụ thờng xuyên trong các cơ quan chính phủ, ở trong hay
ngoài nớc, trừ trờng hợp riêng biệt do Chính phủ quy định. Sau đó, do nhu cầu

bổ sung nhân lực trong bộ máy nhà nớc ngày càng tăng, thực tiễn khi đó không
có đủ nguồn nhân lực phù hợp với những tiêu chuẩn quy định đối với công chức
theo Quy chế nên suốt một thời gian dài sau đó, chế độ công chức dần đợc thay
thế bằng chế độ cán bộ, công nhân viên chức bao gồm tất cả những ngời làm
việc trong các cơ quan nhà nớc, cơ quan Đảng, tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế
nhà nớc. Tất cả đều thuộc biên chế nhà nớc, đợc gọi là cán bộ, công nhân viên
chức nhà nớc chung chung, không phân biệt ai là cán bộ, công nhân, viên chức
theo cách quan niệm có tính truyền thống đã hình thành trớc đó. Do vậy, pháp luật
không tiếp tục đi theo hớng điều chỉnh có tính chuyên biệt đối với từng đối tợng
lao động phục vụ trong các cơ quan, tổ chức sự nghiệp của nhà nớc.
Thuật ngữ công chức đợc sử dụng trở lại tại Nghị định số 169/HĐBT ngày
25/5/1991 của Hội đồng Bộ trởng về công chức báo hiệu xu hớng mới trong sự
điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động công vụ và về công chức. Theo quy
định tại Nghị định số 95/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 và Nghị định số
117/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 về tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ,
18
công chức trong các cơ quan nhà nớc nhằm cụ thể hóa Pháp lệnh cán bộ công
chức 1993 và sửa đổi bổ sung năm 2003, công chức nói tại nghị định này và các
văn bản hớng dẫn thi hành đã đề cập một cách rõ ràng hơn về khái niệm cán bộ,
công chức nhng vẫn cha có sự phân biệt giữa công chức hành chính với công
chức sự nghiệp.
Trớc yêu cầu khách quan của tiến trình cải cách nền hành chính nhà nớc và
đòi hỏi chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức nhà nớc, Luật Cán bộ, công chức
của nớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã đợc Quốc hội thông qua ngày
13/11/2008, có hiệu lực từ ngày 01/01/2010 đã quy định rõ: Công chức là công
dân Việt Nam, đợc tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ
quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nớc, tổ chức chính trị - xã hội ở trung -
ơng, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà
không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong
cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan

chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập
của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nớc, tổ chức chính trị - xã hội, trong biên chế
và hởng lơng từ ngân sách nhà nớc; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo,
quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lơng đợc bảo đảm từ quỹ lơng của đơn
vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật [44].
Từ quy định trên, ta thấy khái niệm công chức theo pháp luật Việt Nam có
điểm khác biệt lớn so với các nớc, công chức không chỉ bao gồm những ngời làm
việc trong hệ thống hành chính nhà nớc mà còn bao gồm cả những ngời làm việc
cho các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội nh các Ban Xây dựng Đảng;
các tổ chức đoàn thể (ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Nông
dân, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn
Việt Nam); các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân dân.
Đây là đặc trng cơ bản nhất của công chức nớc ta, xuất phát từ đặc thù của thể
chế chính trị và tổ chức bộ máy nhà nớc, Đảng, đoàn thể của nớc ta. Theo đó,
công chức đợc phân loại dựa trên các tiêu chí sau:
* Theo trình độ đào tạo: Công chức đợc chia làm ba loại:
- Công chức loại A: là ngời đợc bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ đào
tạo chuyên môn giáo dục đại học và sau đại học
19
- Công chức loại B: là ngời đợc bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ đào
tạo chuyên môn giáo dục nghề nghiệp.
- Công chức loại C: là ngời đợc bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ đào
tạo chuyên môn dới giáo dục nghề nghiệp.
Cách phân loại này có ý nghĩa nhất định về lý luận và thực tiễn trong việc
tiêu chuẩn hóa trình độ chuyên môn của công chức, khuyến khích họ phấn đấu
học tập, nâng cao trình độ, thăng tiến theo chức nghiệp.
* Theo ngạch công chức: gồm bốn loại:
- Công chức loại A: gồm những ngời đợc bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên
cao cấp hoặc tơng đơng;
- Công chức loại B: gồm những ngời đợc bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên

chính hoặc tơng đơng;
- Công chức loại C: gồm những ngời đợc bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên
hoặc tơng đơng;
- Công chức loại D: gồm những ngời đợc bổ nhiệm vào ngạch cán sự hoặc t-
ơng đơng và ngạch nhân viên.
* Theo vị trí công tác: Công chức đợc phân ra làm hai loại:
- Công chức lãnh đạo, chỉ huy;
- Công chức chuyên môn, nghiệp vụ.
Việc phân loại công chức nh trên là việc làm có ý nghĩa thiết thực về mặt lý
luận và thực tiễn đối với việc cơ cấu, quy hoạch, quản lý công chức trong hoạt
động công vụ. Trên cơ sở cách phân loại này để có những tiêu chí khác nhau
trong việc đánh giá, sử dụng, đề bạt, xử lý công chức vi phạm một cách thích
hợp, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới xây dựng nhà nớc pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
1.2.3. Đặc trng của đội ngũ cán bộ, công chức
Hoạt động quản lý nhà nớc chủ yếu đợc vận hành thông qua nền công vụ và
đội ngũ cán bộ, công chức nhà nớc, do vậy, cán bộ, công chức có những đặc trng
sau đây:
20
1.2.3.1. Là chủ thể của nền công vụ, có trách nhiệm thực thi công vụ và
đợc Nhà nớc đảm bảo các điều kiện cần thiết, quyền lợi chính đáng để có khả
năng và yên tâm thực thi công vụ.
Đội ngũ cán bộ, công chức nhà nớc là hạt nhân cơ bản của nền công vụ, là
chủ thể thực sự tiến hành các công vụ cụ thể và là yếu tố đảm bảo cho nền công
vụ hoạt động, vận hành có hiệu quả mà không thể chuyển giao cho bất kỳ tổ
chức, cá nhân nào bên ngoài. Họ là những ngời trực tiếp thi hành quyền lực nhà
nớc, lao động của họ thực chất là lao động quyền lực, khác với lao động sản xuất,
kinh doanh và các dạng lao động xã hội khác; đợc trao quyền để thực thi công
vụ, đồng thời có bổn phận phục vụ xã hội, công dân và chịu những ràng buộc
nhất định do liên quan đến chức trách đang đảm nhiệm.

Để thực hiện công vụ, ngời cán bộ, công chức nhà nớc đợc cung cấp những
điều kiện cần thiết để tiến hành các hoạt động công vụ nh trụ sở, phơng tiện,...;
đợc đảm bảo các quyền lợi vật chất và tinh thần nh hởng lơng từ ngân sách nhà
nớc tơng xứng với chức trách nhiệm vụ đợc giao, sự đảm bảo này có tính ổn định,
lâu dài, thực tế là suốt đời nếu nh họ không vi phạm kỷ luật buộc thôi việc hoặc
bị truy tố trớc pháp luật.
1.2.3.2. Là lực lợng lao động chuyên nghiệp, có tính chuyên môn hóa cao
với các hoạt động diễn ra thờng xuyên, liên tục trên phạm vi rộng và mang
tính phức tạp.
Các cơ quan nhà nớc từ Trung ơng đến địa phơng đều đợc tổ chức và hoạt
động theo những nguyên tắc nhất định nhằm quản lý, điều hành xã hội theo pháp
luật và bằng pháp luật, trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị, xã
hội với các mặt hoạt động hết sức phong phú và phức tạp vì lợi ích của nhà n ớc
và của toàn xã hội, đảm bảo cho xã hội ổn định và phát triển. Tất cả các hoạt
động đó đều diễn ra hàng ngày, trực tiếp hoặc gián tiến liên quan đến cuộc sống
của tất cả mọi ngời dân, chính vì vậy, ngay từ khi tuyển dụng, các cơ quan nhà n-
ớc đã yêu cầu ngời dự tuyển phải có chuyên môn, có đủ tiêu chuẩn về độ tuổi,
phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống Do vậy, đội ngũ cán bộ, công chức là lực
lợng lao động mang tính chuyên nghiệp, thực hiện công vụ thờng xuyên, liên tục,
có trình độ chuyên môn hóa cao để giải quyết các vấn đề thuộc phạm vi mình
quản lý, điều hành một cách nhanh chóng, kịp thời, có hiệu quả.
21
1.2.3.3. Đội ngũ cán bộ, công chức nhà nớc tơng đối ổn định, luôn mang
tính kế thừa và không ngừng đợc nâng cao về chất lợng.
Khác với công chức của các nớc theo chế độ công vụ việc làm, cán bộ, công
chức nớc ta hoạt động ổn định và đợc bảo hộ bằng biên chế nhà nớc. Đội ngũ
cán bộ, công chức không ngừng đợc đào tạo, bồi dỡng nâng cao về trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển khách quan của xã hội.
Việc tuyển dụng nguồn nhân lực chất lợng cao, thu hút, khuyến khích nhân tài
không ngừng đợc chú trọng nhằm đảm bảo đợc đội ngũ kế cận và hạn chế đến

mức thấp nhất những sai lầm có thể xảy ra trong tuyển dụng cán bộ, công chức
nhà nớc.
1.2.3.4. Luôn trung thành với Đảng, Chính phủ, với Tổ quốc và nhân dân.
Đây là đặc điểm cơ bản của đội ngũ cán bộ, công chức xuất phát từ truyền
thống tốt đẹp của nhân dân ta và từ đặc điểm lịch sử, quá trình đấu tranh cách
mạng ở Việt Nam. Nhà nớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời từ thắng
lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 do nhân dân thực hiện dới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Về phơng diện pháp lý, Nhà nớc ta là thiết
chế quyền lực do nhân dân bầu ra theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu nhằm
phục vụ lợi ích của nhân dân, bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân. Do
vậy, ngoài việc thực hiện các đờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nớc, trong
hoạt động của mình, các cơ quan nhà nớc, cán bộ, công chức phải luôn tôn trọng
nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe và
chịu sự giám sát của nhân dân.
1.3. yêu cầu và nội dung xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức
1.3.1. Yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay
Tại hội nghị Ban Chấp hànhTrung ơng ng lần thứ ba (khoá VIII), Đảng ta
đã xác định mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của thời kỳ cụng
nghip hoỏ, hin i hoỏ là: Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức các cấp từ
Trung ơng đến cơ sở, đặc biệt là cán bộ đứng đầu, có phẩm chất và năng lực, có
bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trờng giai cấp công nhân, đủ về số l-
ợng, đồng bộ về cơ cấu, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa các
22
thế hệ cán bộ nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hóa hiện đại
hóa đất nớc, giữ vững độc lập tự chủ, đi lên chủ nghĩa xã hội; bảo đảm có đủ
nguồn cán bộ để mỗi nhiệm kỳ có thể đổi mới khoảng 30%- 40% số cán bộ lãnh
đạo Đảng, Nhà nớc, đoàn thể các cấp, cán bộ lãnh đạo lực lợng vũ trang; phấn
đấu đến năm 2020 số cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng trở lên bằng khoảng
4% dân số cả nớc nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới của nền công vụ chuyên

nghiệp. Cụ thể:
- Về số lợng: Trên cơ sở phân định rõ từng loại cán bộ, công chức với các
loại lao động khác để xác định số lợng cán bộ, công chức nhà nớc một cách hợp
lý dựa trên dân số và trình độ, yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nớc.
- Về cơ cấu: Trên cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan,
tổ chức bộ máy nhà nớc trong những điều kiện mới để xây dựng cơ cấu đội ngũ
cán bộ, công chức khoa học, hợp lý về trình độ, ngạch bậc, lứa tuổi, giới tính, dân
tộc... trong cả đội ngũ và trong mỗi cơ quan, đơn vị.
- Về chất lợng: Để thực hiện tốt công cuộc xây dựng đất nớc trong thời kỳ
mới, đội ngũ cán bộ, công chức phải đáp ứng các yêu cầu sau:
+ Về năng lực:
Năng lực chuyên môn: Trớc hết, cán bộ, công chức phải có kiến thức
chuyên môn về lĩnh vực đợc giao trách nhiệm quản lý; có kiến thức cơ bản về
quản lý nhà nớc, về pháp luật từ đó có ý thức tuân thủ pháp luật, áp dụng pháp
luật khi thi hành công vụ, có sự chủ động, linh hoạt xử lý các vấn đề trên cơ sở
pháp luật; Có bản lĩnh nghề nghiệp, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm
về hành vi công vụ của mình. Chủ động xây dựng kế hoạch thực hiện nhiệm vụ;
có chính kiến, phát kiến tham mu đề xuất với lãnh đạo trong các lĩnh vực đợc
giao. Mặt khác, phải có trình độ ngoại giao, ngoại ngữ, tin học để có thể sử dụng
tốt các phơng tiện khoa học kỹ thuật hiện đại và thực hiện tốt việc giao dịch với
các đối tác nớc ngoài.
Năng lực tổ chức quản lý: Ngời cán bộ, công chức phải là ngời có bản
lĩnh, có khả năng quan sát nắm đợc các nhiệm vụ từ tổng thể tới chi tiết để tổ
chức cho hệ thống hoạt động đồng bộ có hiệu quả; Bình tĩnh, tự chủ nhng quyết
đoán dứt khoát trong công việc, có kế hoạch làm việc rõ ràng và tiến hành công
việc nhất quán theo kế hoạch; Năng động, sáng tạo, phản ứng nhanh nhạy, dám
23
nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, luôn biết lờng trớc mọi tình huống có thể
xảy ra, biết tập trung dồn đúng tiềm lực vào các khâu yếu, biết tận dụng thời cơ
có lợi cho hệ thống; Có tác phong đúng mực, thông cảm và hiểu cấp dới, có thái

độ chân thành, đồng thời hớng cho cấp dới tác phong cộng tác, giúp đỡ lẫn nhau;
Biết sử dụng đúng ngời, đánh giá đúng ngời, biết xử lý tốt các mối quan hệ trong
và ngoài hệ thống, quan hệ tốt, đúng mực với ngời dới quyền và với cấp trên.
+ Về phẩm chất chính trị, đạo đức:
Trong mọi giai đoạn cách mạng, phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị là
yêu cầu quan trọng cơ bản nhất đối với đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là trong
bối cảnh hiện nay, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế kèm theo những mặt trái
của cơ chế kinh tế thị trờng cùng các tác động tiêu cực nảy sinh hàng ngày đặt ra
yêu cầu đội ngũ cán bộ, công chức phải tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác-
Lê nin, t tởng Hồ Chí Minh, quan điểm đờng lối của Đảng, chính sách và pháp
luật của Nhà nớc, tích cực trong công cuộc đổi mới đất nớc; Có bản lĩnh và kiên
định trong công việc đợc giao; Biết biến nhận thức chính trị của mình thành nhận
thức của mọi ngời, tạo đợc lòng tin và lôi cuốn mọi ngời tham gia. Tùy từng vị
trí, thẩm quyền của mỗi cán bộ, công chức khác nhau mà yêu cầu về phẩm chất
chính trị cũng khác nhau. Cán bộ, công chức giữ cơng vị càng cao, phạm vi ảnh
hởng càng rộng thì bản lĩnh chính trị càng phải vững vàng, nhất là các cán bộ,
công chức có nhiệm vụ đề ra chủ trơng, đờng lối, các chính sách của Nhà nớc.
Đạo đức công vụ của ngời cán bộ, công chức gồm: đạo đức cách mạng, đạo
đức cá nhân và đạo đức nghề nghiệp; trong đó đạo đức cách mạng là nền tảng, là
gốc, là sức mạnh của ngời cán bộ, công chức. Đạo đức cách mạng thể hiện ở:
tinh thần yêu nớc nồng nàn, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có hiệu quả đờng lối của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nớc; Cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô t. Đạo
đức cá nhân của ngời cán bộ, công chức trớc hết thể hiện ở ý thức, niềm tin vào
định hớng xã hội chủ nghĩa, quyết tâm thực hiện mục tiêu dân giàu, nớc mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; tôn trọng, giữ gìn kỷ luật, kỷ cơng, sống và
làm việc theo pháp luật, có lối sống lành mạnh, không tham ô, lãng phí, có trách
nhiệm cao trong thi hành công vụ, có lòng nhân ái, vị tha, ứng xử đúng đắn trong
quan hệ gia đình, bè bạn và trong xã hội, có tinh thần hớng thiện, hiếu học. Đạo
24

đức nghề nghiệp của ngời cán bộ, công chức thể hiện trớc hết ở lòng say mê, cần
mẫn, tinh thần trách nhiệm và đề cao kỷ luật trong thi hành công vụ.
+ Về văn hóa:
Văn hóa ứng xử là một trong những yếu tố phản ánh trình độ văn hóa của
một cơ quan, tổ chức, cá nhân; là cơ sở để hình thành tác phong, phong cách của
ngời cán bộ, công chức; là nền tảng tạo nên t chất, cốt cách của ngời cán bộ,
công chức. Do đó, trong giao tiếp và ứng xử, cán bộ, công chức phải có thái độ
lịch sự, tôn trọng đồng nghiệp; Ngôn ngữ giao tiếp phải chuẩn mực rõ ràng, mạch
lạc, không nói tục, nói tiếng lóng; phải lắng nghe ý kiến của đồng nghiệp, thực
hiện dân chủ và đoàn kết nội bộ. Trong giao tiếp và ứng xử với nhân dân, cán bộ,
công chức phải có tác phong lịch sự, giữ gìn uy tín, danh dự cho cơ quan, tổ
chức, đơn vị và đồng nghiệp; nhã nhặn, lắng nghe ý kiến, giải thích, hớng dẫn rõ
ràng, cụ thể về các quy định liên quan đến giải quyết công việc; Không đợc có
thái độ hách dịch, nhũng nhiễu, gây khó khăn, phiền hà khi thi hành công vụ.
Nh vậy, yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ, công chức trong điều kiện hiện nay
là vừa phải có phẩm chất chính trị, đạo đức, vừa có năng lực chuyên môn và tổ
chức điều hành. Thực tế cho thấy, nếu có đội ngũ cán bộ, công chức tài giỏi thì
mọi chủ trơng, đờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nớc vào cuộc sống đợc
thuận lợi và đạt hiệu quả cao; nếu đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất chính
trị và phẩm chất đạo đức yếu kém sẽ gây nên độc đoán, chuyên quyền, tiêu cực,
tham nhũng,...khiến cho tài sản Nhà nớc sẽ bị thất thoát, lòng tin của ngời dân bị
giảm sút, kinh tế đình trệ và tình hình xã hội bị rối loạn. Do vậy, Đảng và Nhà n-
ớc cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để đội ngũ cán bộ, công chức phát huy khả
năng phục vụ, cống hiến nhiều nhất cho đất nớc, đáp ứng yêu cầu của công cuộc
xây dựng, phát triển đất nớc trong thời kỳ mới.
1.3.2. Nội dung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
1.3.2.1. Tuyển dụng, sử dụng, quản lý cán bộ, công chức
* Tuyển dụng cán bộ, công chức
Tuyển dụng cán bộ, công chức là một quá trình phức tạp nhằm tìm kiếm, bổ
sung nguồn nhân lực cho cơ quan, tổ chức nhà nớc. Vì vậy, khi tuyển dụng cán

bộ, công chức cần phải làm sao tuyển dụng đợc những ngời có khả năng đảm
trách đợc các công việc của cơ quan, tổ chức trong hiện tại và tơng lai, chứ không
25

×