Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

tóm tắt luận án tiến sĩ huy động nguồn lực phi chính phủ quốc tế trong phát triển kinh tế-xã hội ở một số nước châu á đang phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (579.17 KB, 27 trang )

VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN SONG BÌNH

HUY ĐỘNG NGUỒN LỰC
PHI CHÍNH PHỦ QUỐC TẾ
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI
Ở MỘT SỐ NƯỚC CHÂU Á
ĐANG PHÁT TRIỂN
Chuyên ngành: Kinh tế Thế giới và Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Mã số: 62.31.07.01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI - 2012


Cơng trình được hồn thành tại:
Học viện Khoa học Xã hội –
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS. Lưu Ngọc Trịnh
2. TS. Lê Thị Ái Lâm

Phản biện 1: PGS.TS. Ngơ Xn Bình.......................................
...................................................................................................
Phản biện 2: GS.TS.Hồng Đức Thân........................................
...................................................................................................
Phản biện 3: PGS.TS. Dỗn Kế Bơn...........................................
...................................................................................................



Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học
viện họp tại................................................................................
...................................................................................................
vào hồi………..….giờ…………phút, ngày………
tháng……….năm…
Có thể tìm luận án tại
Thư viện Học Viện Khoa học Xã hội,
Thư viện Quốc gia.


-1MỞ ĐẦU
Tham gia vào q trình tồn cầu hóa hiện nay khơng chỉ có các
chủ thể truyền thống như chính phủ, doanh nghiệp, thể chế khu vực
và quốc tế mà cịn có sự trỗi dậy mạnh mẽ của chủ thể tổ chức phi
chính phủ (NGO). Trong hơn 4 thập kỷ qua, nhiều nước đang phát
triển châu Á đã huy động tốt nguồn lực của NGO quốc tế (nguồn lực
phi chính phủ quốc tế), trong đó đặc biệt là nguồn lực viện trợ. Trong
sự nghiệp Đổi mới hiện nay, Việt Nam rất cần tranh thủ và phát huy
nguồn lực này. Tuy nhiên, chúng ta gặp nhiều khó khăn, thách thức
trong cơng tác huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế do thiếu kinh
nghiệm so với nhiều nước trong khu vực. Do đó, việc nghiên cứu về
chủ đề này ở các trường hợp điển hình có điều kiện, hồn cảnh phát
triển tương tự như Việt Nam, nhưng có các trải nghiệm trước chúng
ta, sẽ mang tính tham khảo, vận dụng hữu ích đối với nước ta.
Trong bối cảnh còn ít nghiên cứu thực tiễn về chủ đề này dưới
góc độ các nước có hồn cảnh, điều kiện gần giống với Việt Nam,
cũng như thiếu các nghiên cứu tổng quát hoá và vận dụng về chính
sách đối với Việt Nam, luận án này lựa chọn phương pháp nghiên
cứu trường hợp điển hình 3 nước châu Á đang phát triển và mới nổi

là Trung Quốc, Nê-pan và In-đô-nê-xia với đối tượng nghiên cứu là
việc huy động nguồn lực viện trợ phi chính phủ quốc tế, xem xét các
chủ thể có liên quan đến công tác thu hút và quản lý nguồn viện trợ
này. Phạm vi nghiên cứu tập trung vào công tác huy động (bao gồm
thu hút và quản lý) nguồn lực viện trợ nói riêng trong các nguồn lực
phi chính phủ nói chung, do tính đại diện, bao trùm, khả năng lượng
hóa cao và tỷ lệ lớn hơn của nguồn lực này. Mục đích nghiên cứu
nhằm phân tích đặc thù chung và riêng của mỗi trường hợp, rút ra bài
học để đề xuất xây dựng chính sách, mơ hình huy động có hiệu quả
viện trợ phi chính phủ quốc tế cho cơng cuộc phát triển kinh tế-xã hội
và hội nhập quốc tế ở Việt Nam trong thời gian tới.
Những đóng góp mới của luận án
Thứ nhất, luận án hệ thống hóa được các vấn đề lý luận liên
quan đến tổ chức phi chính phủ và nguồn lực phi chính phủ quốc tế,


-2cịn ít được nghiên cứu tại Việt Nam. Đặc biệt, luận án tổng hợp
được xu hướng phát triển của khu vực phi chính phủ qua các thế hệ điều mà hiếm nghiên cứu nào trước đây đề cập đến.
Thứ hai, luận án lựa chọn được các trường hợp nghiên cứu điển
hình có điều kiện và hồn cảnh tương đồng với Việt Nam, cịn ít
được nghiên cứu đến tại Việt Nam. Luận án khái quát hóa được các
bài học kinh nghiệm về huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế phù
hợp đối với các nước đang phát triển châu Á.
Thứ ba, luận án đề xuất một số giải pháp tổng thể cho nhiều đối
tượng khác nhau liên quan đến công tác phi chính phủ quốc tế ở Việt
Nam nhằm phối hợp đồng bộ nhằm thu hút và quản lý tốt hơn nguồn
viện trợ thiết thực này - điều mà các nghiên cứu trong nước trước đây
chưa bao quát hết. Trong các đề xuất có những nội dung mang tính
thiết thực và đột phá.
Kết cấu của luận án

Luận án (169 trang) bao gồm: Mở đầu (8 trang); Chương 1: Một
số vấn đề lý luận chung về tổ chức phi chính phủ và nguồn lực phi
chính phủ quốc tế (48 trang); Chương 2: Nghiên cứu trường hợp điển
hình về huy động nguồn lực viện trợ phi chính phủ quốc tế ở một số
nước châu Á đang phát triển (55 trang); Chương 3: Bài học kinh
nghiệm về huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế ở một số nước
châu Á đang phát triển và vận dụng đối với Việt Nam về mặt chính
sách (55 trang); Kết luận (3 trang); có 115 tài liệu tham khảo, 11
hình, 7 bảng biểu, 6 phụ lục.
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
TỔ CHỨC PHI CHÍNH PHỦ VÀ HUY ĐỘNG
NGUỒN LỰC PHI CHÍNH PHỦ QUỐC TẾ
1.1. Tổng quan về tổ chức phi chính phủ
1.1.1.

Khái niệm tổ chức phi chính phủ

Năm 1950, Liên hiệp quốc (UN) đã chính thức thể chế hóa khu
vực phi chính phủ bằng Quy chế tư vấn phi chính phủ. Theo nghiên


-3cứu này, NGO có thể được hiểu là một tổ chức khơng thuộc về bất cứ
chính phủ nào, khơng do chính phủ thành lập và điều hành.
1.1.2.

Đặc trưng của tổ chức phi chính phủ

Đặc trưng về thể chế: NGO được thành lập, đăng ký, quản lý
theo quy chế phi lợi nhuận, tự chủ, tự nguyện. Đa số các nước phát
triển có quy chế ưu đãi thuế cho NGO. Nhiều nước đang phát triển

ưu đãi hoặc miễn thuế cho viện trợ của các NGO quốc tế. Đặc trưng
về hoạt động: NGO nhanh nhạy, năng động, dễ thích ứng, nhiều sáng
kiến, phối hợp hoạt động, gắn với thực tiễn, tranh thủ công nghệ
thông tin, sử dụng cách tiếp cận “tham gia”, phối hợp chặt chẽ với cơ
sở, quan điểm “phát triển đặt trọng tâm vào con người”.
1.1.3.

Phân loại các tổ chức phi chính phủ

Theo tính chất hoạt động: NGO tác nghiệp, NGO tôn giáo, hiệp
hội nghề nghiệp, NGO vận động, quỹ tài trợ. Theo cơ cấu tổ chức,
loại hình hoạt động: NGO tình nguyện, NGO thực hiện dịch vụ
cơng, NGO quần chúng, viện nghiên cứu độc lập, trường đại học tư.
Theo địa bàn hoạt động: NGO trong nước, NGO quốc tế.
1.1.4.

Xu thế phát triển của khu vực phi chính phủ

NGO đã đạt được những bước phát triển đáng kể về triết lý, tổ
chức và nội dung hoạt động, nâng tầm thành “khu vực phi chính
phủ”, được UN và xã hội cơng nhận. 5 thế hệ phát triển của NGO:
Thế hệ 1
TK17
Cứu trợ
trực tiếp
và cung
cấp dịch
vụ xã
hội tạm
thời




Thế hệ 2
TK 19
Huy
động
năng lực
xã hội
thông
qua dự
án tự trợ
giúp

Thế hệ 3
1980s
Xúc tác
thúc đẩy
chính
sách phát
triển
 thơng qua
các dự án
dài hạn

Thế hệ 4
1990s

Thế hệ 5
2000s


Xây dựng
các phong
trào quần
chúng tự
 phát triển
bền vững

Tăng
cường
hợp tác,
nâng cao
tính trách
nhiệm và
hiệu quả



Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ nghiên cứu về khu vực phi chính phủ

Hình 1.1: Các thế hệ phát triển của khu vực phi chính phủ


-4Sự phát triển của khu vực phi chính phủ chịu ảnh hưởng của các
yếu tố: hậu Chiến tranh lạnh, xu thế tồn cầu hóa, hợp tác quốc tế,
mở cửa, hội nhập; phong trào xã hội, xu thế dân chủ hóa, xu thế
chống đói nghèo, quan tâm phát triển kinh tế-xã hội; cải cách, chuyển
đổi cơ cấu-thể chế, phát triển công nghệ thơng tin, xu thế văn hóa,
triết lý nhân đạo, hiến tặng của tầng lớp người giàu.
1.2. Tổng quan về nguồn lực phi chính phủ quốc tế

Nguồn lực phi chính phủ quốc tế bao gồm các nguồn lực
“cứng”: tài trợ tài chính (viện trợ), hàng hóa, nhân lực, cơ sở vật chất,
khoa học công nghệ...; các nguồn lực “mềm”: uy tín, tri thức, tư duy,
văn hóa, các giá trị... có thể ảnh hưởng đến những đối tượng tiếp cận;
và nguồn lực tình nguyện viên. Trong các nguồn lực của NGO quốc
tế thì nguồn lực viện trợ chiếm đa số, mang tính bao trùm, đóng vai
trị quan trọng vì đây là nguồn vốn tài trợ khơng hồn lại, có tỷ lệ giải
ngân cao, kèm theo đó là các tác động tích đến phát triển kinh tế-xã
hội và tiên phong giải quyết các vấn đề mới trong phát triển.
1.2.1.

Khái niệm viện trợ phi chính phủ quốc tế

Viện trợ phi chính phủ quốc tế là khoản hỗ trợ khơng hồn lại
(100%) của NGO quốc tế chuyển giao trực tiếp cho các đối tác trong
nước dưới nhiều dạng. Khác với nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngồi và hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), viện trợ phi chính phủ
quốc tế về nguyên tắc không đi kèm với các điều kiện, gây áp đặt
hoặc ảnh hưởng đối với nước tiếp nhận. Viện trợ này chủ yếu dành
cho cộng đồng, thường cho các dự án phát triển bền vững với cách
tiếp cận trực tiếp và tham gia.
1.2.2.

Nội dung viện trợ phi chính phủ quốc tế

Cứu trợ khẩn cấp ngắn hạn trong các tình huống khẩn cấp, đáp
ứng kịp thời nhu cầu cấp bách của đối tượng thụ hưởng và mang ý
nghĩa nhân đạo, nhân văn cao. Hỗ trợ dự án dài hạn theo những
chương trình định sẵn trong dài hạn nhằm hướng tới sự phát triển bền
vững cho đối tượng thụ hưởng. Hỗ trợ này tuân theo triết lý “tự trợ

giúp”, “cho cần câu cá hơn là cho cá” và “quy mô nhỏ là đẹp”.


-51.1.1. Khái niệm huy động nguồn lực phi chính phủ quốc tế
Huy động nguồn lực phi chính phủ quốc tế được hiểu là quá
trình thu hút và quản lý các nguồn lực của NGO quốc tế, tích
hợp để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế-xã hội tại
nước tiếp nhận, trong đó quản lý là để phục vụ cho thu hút
hiệu quả hơn.
1.1.2. Tổng quan huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế ở các
nước đang phát triển
Tại Hội nghị thượng đỉnh về phát triển xã hội năm 1995, các
nước tham dự đã cam kết thực hiện thỏa thuận 20/20, theo đó các
nước tài trợ dành 20% ODA và các nước tiếp nhận cũng dành 20%
ngân sách công cho các dịch vụ xã hội cơ bản. Hưởng ứng tinh thần
đó, khu vực phi chính phủ cam kết dành 50% viện trợ cho lĩnh vực xã
hội.
Có xu thế ODA được chuyển qua kênh NGO nhằm đạt hiệu quả
cao hơn. Chuyển khoản này tăng từ 0,2% giá trị ODA năm 1970 lên
20% năm 2010, nâng giá trị viện trợ của các NGO quốc tế năm 2010
lên đến 15 tỷ USD. Bên cạnh đó, các NGO quốc tế cịn có những
chương trình hỗ trợ kỹ thuật lớn nhằm cung cấp chuyên gia kỹ thuật
và quản lý cho các dự án xóa đói nghèo. Theo nghiên cứu của IMF,
trong khi ODA có xu hướng tỷ lệ thuận với chỉ số HDI của nước tiếp
nhận thì viện trợ của các NGO quốc tế lại có xu hướng ngược lại.
Bảng 1.1: So sánh huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế và
ODA dành cho xóa đói nghèo trên thế giới

TB cho 10 nước có
giá trị cao nhất

TB chung
TB cho 10 nước có
giá trị thấp nhất

Tỷ lệ tử
vong sơ
sinh (%)
13,51

Tỷ lệ mù
chữ
(%)
70,03

GDP/ đầu
người
(USD)
318

Viện trợ NGO/
đầu người
(USD)
0,29

6,61
1,30

31,06
4,14


1.733
5.182

0,20
0,16

Nguồn: Báo cáo Phát triển của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (2010)


-6Bảng 1.2: Huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế giúp giảm tỷ
lệ tử vong sơ sinh và tỷ lệ mù chữ cho nhóm nước thu nhập thấp
Viện trợ NGO/đầu người (USD)
Tỷ lệ tử vọng sơ sinh (%)
Tỷ lệ mù chữ (%)

Năm 1990
0,20
14,92
79,34

Năm 2010
0,29
12,08
68,66

Nguồn: Tổng hợp Báo cáo Chỉ số Phát triển Thế giới của Ngân
hàng Thế giới (1990-2010)
Bảng 1.3: Huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế giúp giải
quyết các vấn đề xã hội trong nhóm các nước nghèo
Viện trợ NGO/đầu người (USD)

Giáo dục phổ cập (% hồn thành tiểu học)
Bình đẳng giới (% tỷ lệ nữ/nam nhập học)
Phịng chống HIV/AIDS (% lan truyền)
Chăm sóc sức khỏe (% trẻ suy dinh dưỡng)
Chăm sóc sức khỏe sinh sản (% sản phụ được
cán bộ y tế có chun mơn đỡ đẻ)

Năm 1991
0,29
49
76
1,1
33,2
33

Năm 2006
0,35
65
88
0,5
28,9
44

Nguồn: Tổng hợp Báo cáo Chỉ số Phát triển Thế giới của Ngân
hàng Thế giới (1991-2006)
Tuy nhiên, vẫn còn các bất cập trong huy động viện trợ phi
chính phủ quốc tế ở các nước đang phát triển như: nhiều nước cịn
thiếu quan tâm đến cơng tác huy động viện trợ; tồn tại áp đặt, can
thiệp của NGO tài trợ; sử dụng viện trợ chưa hiệu quả; còn thiếu
khuôn khổ pháp lý để quản lý nguồn viện trợ; có nơi cịn xảy ra mâu

thuẫn giữa nước tiếp nhận và NGO quốc tế (trên các vấn đề nhạy cảm
như nhân quyền, dân chủ, sắc tộc, cải cách...).
1.2.3.

Vai trò của viện trợ phi chính phủ quốc tế đối với phát
triển kinh tế-xã hội ở các nước đang phát triển

Mặc dù khơng có giá trị lớn như FDI, ODA nhưng viện trợ phi
chính phủ quốc tế lại tập trung giải quyết một cách thiết thực và hiệu
quả những lĩnh vực cấp thiết phục vụ an sinh xã hội mà các dòng vốn
khác không quan tâm.


-7Thực tiễn cho thấy viện trợ phi chính phủ quốc tế có tác động
tích cực trong lĩnh vực xóa đói nghèo, giải quyết các vấn đề xã hội,
phòng chống thiên tai, cứu trợ khẩn cấp, hỗ trợ cải cách chính
sách, khuyến khích dân chủ cơ sở, xã hội dân sự và tăng cường
năng lực cơ sở. Bên cạnh đó, các nước đang phát triển còn tranh thủ
huy động NGO quốc tế hỗ trợ giải quyết các vấn đề mới (như giảm
phát thải, bảo tồn văn hoá…).
1.1.3. Yêu cầu đối với việc huy động và các yếu tố ảnh hưởng
đến huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế ở các nước
đang phát triển
Để huy động hiệu quả viện trợ phi chính phủ quốc tế cần cân
nhắc các yêu cầu đối với cả nước tiếp nhận và các NGO quốc tế,
trong đó phải kể đến tính phù hợp, tính hiệu quả, tính bền vững của
viện trợ. Các yếu tố ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa NGO quốc tế
với nước tiếp nhận, cũng như đến các điều kiện và cơ chế triển khai
viện trợ có thể ảnh hưởng đến huy động viện trợ phi chính phủ quốc
tế. Các yếu tố này bao gồm: yếu tố quản lý nhà nước (trong đó bao

gồm cả yếu tố minh bạch và chống tham nhũng), yếu tố năng lực
của cơ sở, yếu tố quan hệ quốc tế.
CHƯƠNG 2: NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP ĐIỂN HÌNH VỀ
HUY ĐỘNG VIỆN TRỢ PHI CHÍNH PHỦ QUỐC TẾ Ở MỘT
SỐ NƯỚC CHÂU Á ĐANG PHÁT TRIỂN
2.1. Phương pháp luận nghiên cứu trường hợp điển hình
Căn cứ vào mục đích của nghiên cứu này, cần lựa chọn một số
nước châu Á đang phát triển và mới nổi trong quá trình cải cách,
chuyển đổi theo hướng mở, có bối cảnh kinh tế-chính trị hoặc chế độ
chính trị tương đồng, để rút ra bài học vận dụng đối với Việt Nam.
Luận án này lựa chọn 3 trường hợp điển hình là Trung Quốc, Nê-pan
và In-đơ-nê-xia để nghiên cứu.
2.2.

Phân tích lựa chọn các trường hợp điển hình

Lựa chọn trường hợp Trung Quốc: Trung Quốc có một số
điểm tương đồng với Việt Nam về chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa,


-8công cuộc “cải cách mở cửa” - “đổi mới”, mô hình quản lý nhà nước
tập trung, các vấn đề xã hội phát sinh từ tăng trưởng kinh tế cao.
Khác với Việt Nam, Trung Quốc phân quyền mạnh hơn, mở cửa sớm
hơn, cải cách nhanh và triệt để hơn.
Lựa chọn trường hợp Nê-pan: Nê-pan có một số điểm tương
đồng với Việt Nam về tiến trình và xuất phát điểm phát triển, quá
trình chuyển đổi thể chế, các vấn đề xã hội phát sinh từ cải cách.
Khác với Việt Nam, Nê-pan chuyển đổi dân chủ theo hướng phi tập
trung hoá, cải cách nhanh và “mở, năng lực quản lý nhà nước chế
hơn, xã hội hoá và xã hội dân sự phát triển hơn.

Lựa chọn trường hợp In-đơ-nê-xia: In-đơ-nê-xia có một số
điểm tương đồng với Việt Nam về địa lý, tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao, các vấn đề xã hội nảy sinh trong chuyển đổi cơ cấu. Khác với
Việt Nam, In-đơ-nê-xia có thể chế chính trị theo mơ hình phương
Tây, phát triển xã hội dân sự, tiến hành nhiều cải cách, nhạy cảm với
khủng hoảng, gặp nhiều vấn đề tôn giáo, mâu thuẫn sắc tộc hơn.
2.3. Nghiên cứu trường hợp điển hình Trung Quốc
2.3.1. Thực trạng thu hút viện trợ phi chính phủ quốc tế ở
Trung Quốc
Diễn biến về số lượng NGO quốc tế và giá trị viện trợ của các tổ
chức này ở Trung Quốc từ năm 1990-2009 được biểu diễn ở Hình
2.1, 2.2. Tuy nhiên, theo các nghiên cứu khác, các số liệu cịn lớn
hơn; theo đó, hiện có khoảng 3.000-6.000 NGO quốc tế và viện trợ
đến 1 tỷ USD cho Trung Quốc năm 2009.
Trong các NGO quốc tế, các NGO Mỹ và Hồng Công chiếm đa
số và tăng trưởng nhanh nhất. Các NGO quốc tế bắt đầu quan tâm
vào Trung Quốc nhiều từ giữa những năm 1990 khi Trung Quốc đưa
ra chủ trương “chính phủ nhỏ, xã hội lớn”. Có thể thấy diễn biến số
lượng NGO quốc tế và giá trị viện trợ ở Trung Quốc trùng hợp với
tiến trình “cải cách mở cửa”, phát triển trong quan hệ với Mỹ. Các
NGO quốc tế hoạt động trên nhiều lĩnh vực trừ các lĩnh vực nhạy
cảm như nhân quyền, tôn giáo, vận động chính trị.


-9-

Nguồn: Tổng hợp Báo cáo Phát triển Trung Quốc (1990-2010)
Hình 2.1: Diễn biến số lượng các NGO quốc tế ở Trung Quốc
trong thời gian qua


Nguồn: Tổng hợp Báo cáo Phát triển Trung Quốc (1990-2010)
Hình 2.2: Diễn biến giá trị viện trợ của các NGO quốc tế ở
Trung Quốc trong thời gian qua
2.3.2. Thực trạng quản lý nhà nước về viện trợ phi chính phủ
quốc tế ở Trung Quốc
Theo quy định về quản lý các tổ chức nước ngoài, NGO quốc tế
phải đăng ký với Bộ Nội vụ và Sở Nội vụ địa phương, phải được sự
bảo trợ của chính quyền, hoặc tổ chức xã hội Trung Quốc. Trung
Quốc áp dụng chính sách “khơng cơng nhận, nhưng khơng cấm” với
điều kiện các NGO quốc tế không hoạt động trong các lĩnh vực “nhạy
cảm”. Trung Quốc xây dựng cơ chế hợp tác với NGO quốc tế thông
qua Hiệp hội Trung Quốc Hợp tác với NGO và Trung tâm trao đổi
kinh tế, kỹ thuật quốc tế. Tuy nhiên, các NGO quốc tế có nhiều cách
tránh đăng ký và tránh bị quản lý. Trung Quốc hầu như khơng có cơ
chế hiệu quả để giám sát và quản lý hoạt động của NGO quốc tế ở


-10nước này. Các cơ quan quản lý và hợp tác NGO quốc tế gặp hạn chế
về quyền hạn, cơ chế và năng lực.
2.3.3. Đánh giá công tác huy động viện trợ phi chính phủ quốc
tế ở Trung Quốc
Các mặt tích cực: Trung Quốc đã huy động được đáng kể viện
trợ phi chính phủ quốc tế, góp phần khơng nhỏ vào phát triển kinh tếxã hội, đáng chú ý trên các lĩnh vực đặc thù sau: giúp giải quyết các
vấn đề xã hội, mơi trường; giúp chống đói nghèo, phát triển nông
thôn tổng hợp, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ; giúp thúc đẩy
“cải cách mở cửa”; thúc đẩy phát triển xã hội dân sự. Chương trình,
dự án viện trợ phát triển theo chiều sâu, bền vững, tập trung vào viện
trợ phát triển. Các mặt tồn tại: vẫn cịn tình trạng NGO quốc tế
không theo các ưu tiên phát triển của Trung Quốc; một số NGO quốc
tế bị cho là can thiệp, xâm hại an ninh quốc gia, ổn định chính trị,

thúc đẩy nhân quyền phương Tây, thực hiện âm mưu “diễn biến hịa
bình”, “cách mạng màu”. Trung Quốc vẫn bị nhìn nhận là thiếu cam
kết về chính sách đối với NGO quốc tế, thiếu điều phối và giám sát
đánh giá các hoạt động NGO quốc tế, thiếu sự tin tưởng giữa NGO
trong và ngoài nước.
2.4. Nghiên cứu trường hợp điển hình Nê-pan
2.4.1. Thực trạng thu hút viện trợ phi chính phủ quốc tế ở Nêpan
Từ những năm 1980, chính phủ Nê-pan mở cửa cho các NGO
quốc tế vào hoạt động. Bên cạnh đó xuất hiện làn sóng thành lập các
NGO trong nước làm đối tác với các NGO quốc tế. Viện trợ từ các
NGO Mỹ chiếm đa số. Giống như ở Trung Quốc, các NGO quốc tế
hoạt động trên nhiều lĩnh vực từ tác động chính sách, tác nghiệp, tài
trợ tại Nê-pan. Đa số các NGO quốc tế thiết lập quan hệ đối tác với
NGO trong nước. Chính phủ Nê-pan cũng chuyển ngân sách cho
NGO thực hiện. Diễn biến về số lượng NGO quốc tế và giá trị viện
trợ của các tổ chức này ở Nê-pan được biểu diễn ở Hình 2.3, 2.4.


-11-

Nguồn: Hội đồng Phúc lợi Xã hội Nê-pan (1990-2011)
Hình 2.3: Diễn biến số lượng các NGO quốc tế ở Nê-pan trong
thời gian qua.

Nguồn: Hội đồng Phúc lợi Xã hội Nê-pan (1990-2011)
Hình 2.4: Diễn biến giá trị viện trợ của các NGO quốc tế ở Nêpan trong thời gian qua.
So với Trung Quốc, số lượng NGO quốc tế và giá trị viện trợ
thấp hơn. Các NGO quốc tế hoạt động trên nhiều lĩnh vực, trong đó
có cả lĩnh vực dân chủ, nhân quyền; các NGO Mỹ chiếm vai trò chủ
đạo trong viện trợ phi chính phủ quốc tế ở Nê-pan. Viện trợ của các

NGO quốc tế đóng góp khoảng 85% nguồn lực xã hội hoá.
2.4.2. Thực trạng quản lý nhà nước về viện trợ phi chính phủ
quốc tế ở Nê-pan
Nê-pan coi NGO quốc tế là đối tác phát triển. Tuy nhiên, chưa
có các quy định thống thống nhất liên quan đến quản lý và hoạt động
của NGO quốc tế ở Nê-pan. Điều này còn dẫn đến sự phát triển lan
tràn của NGO trong nước nhận tài trợ, thường bị gắn với giai cấp


-12trung lưu, chủ nghĩa gia đình, cơng cụ thu lợi của doanh nghiệp, rửa
tiền. Các NGO quốc tế phải tham gia làm thành viên của Hội đồng
Phúc lợi Xã hội - là cơ quan chính phủ điều phối và quản lý hoạt
động NGO trong nước và nước ngoài tại Nê-pan. Tuy nhiên, năng lực
cơ quan này cịn hạn chế, khơng đáp ứng u cầu nhiệm vụ. Quản lý
hành chính cịn rườm rà, không rõ ràng và thiếu phối hợp liên ngành.
Cịn xuất hiện tình trạng tham nhũng tiền viện trợ, lãng phí và sử
dụng chưa đúng hiệu quả, nhất là ở các địa phương Nê-pan.
2.4.3. Đánh giá công tác huy động viện trợ phi chính phủ quốc
tế ở Nê-pan
Các mặt tích cực: Nê-pan đã thu hút NGO quốc tế tham gia tích
cực vào phát triển kinh tế-xã hội đáng chú ý trên các lĩnh vực đặc thù
sau: hỗ trợ chống đói nghèo, tập trung khu vực nơng nghiệp; đối tác
với chính phủ trong phát triển; giúp nâng cao nhận thức về giới; thúc
đẩy dân chủ, nhân quyền và xã hội dân sự, chống tham nhũng. Huy
động viện trợ phi chính phủ quốc tế đã giúp xã hội hóa các nguồn lực
trong xã hội ở Nê-pan. Các mặt tồn tại trên các lĩnh vực đặc thù sau:
viện trợ còn thiếu tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên ở Nê-pan; một số
NGO quốc tế bị cho là nhằm mục đích chính trị, truyền đạo, không rõ
ràng và minh bạch về viện trợ; tạo ra một nhóm NGO trong nước bị
lệ thuộc vào tài trợ, do tầng lớp trung lưu lãnh đạo, khơng minh bạch

về mục đích và tài chính. Chính phủ Nê-pan cịn thiếu cam kết về
chính sách đối với NGO quốc tế, thiếu khuôn khổ pháp lý quản lý
NGO trong và ngồi nước.
2.5. Nghiên cứu trường hợp điển hình In-đơ-nê-xia
2.5.1. Thực trạng viện trợ phi chính phủ quốc tế ở In-đô-nê-xia
Các NGO quốc tế thực sự hoạt động trở lại tại In-đô-nê-xia từ
giữa những năm 1990, đặc biệt là sau 1998 khi chính quyền Xu-háctơ bị lật đổ. Các NGO Hồi giáo chiếm đa số, yếu tố tơn giáo có ảnh
hưởng đáng kể đến khu vực phi chính phủ ở In-đô-nê-xia. Số lượng
NGO quốc tế và giá trị viện trợ NGO quốc tế ở In-đơ-nê-xia thay đổi
theo diễn biến chính trị, kinh tế-xã hội của nước này và tác động của
khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực (xem Hình 2.5, 2.6).


-13-

Nguồn: Tổng hợp báo cáo của Cơ quan Phát triển Nghiên cứu,
Giáo dục, Kinh tế và Xã hội In-đơ-nê-xia (1990-2010)
Hình 2.5: Diễn biến số lượng các NGO quốc tế ở In-đô-nê-xia
trong thời gian qua

Nguồn: Tổng hợp báo cáo của Cơ quan Phát triển Nghiên cứu,
Giáo dục, Kinh tế và Xã hội In-đơ-nê-xia (1990-2010)
Hình 2.6: Diễn biến giá trị viện trợ của các NGO quốc tế tại Inđô-nê-xia trong thời gian qua
Các NGO quốc tế hoạt động tại In-đô-nê-xia trong nhiều lĩnh
vực khác nhau, kể cả lĩnh vực giám sát nhân quyền, tài trợ chính tri.
Các NGO Mỹ chiếm vai trị chủ đạo trong cộng đồng phi chính phủ
quốc tế ở In-đơ-nê-xia. Bản thân NGO quốc tế cũng tìm tài trợ từ
chính phủ In-đơ-nê-xia.
2.5.2. Thực trạng quản lý nhà nước đối với viện trợ phi chính
phủ quốc tế ở In-đơ-nê-xia



-14In-đô-nê-xia coi NGO là “tổ chức giao quyền cho xã hội”. Hệ
thống luật pháp dân sự của In-đô-nê-xia theo mô hình thuộc địa Hà
Lan, tương đối đầy đủ, có cả luật về NGO quốc tế, quy định chặt chẽ
về việc đăng ký, hoạt động và chế độ báo cáo. Các NGO quốc tế chịu
sự quản lý của Bộ Ngoại giao và đăng ký với Bộ Nội vụ, có thỏa
thuận với chính quyền địa phương nơi diễn ra dự án. In-đơ-nê-xia
thành lập Cơ quan Phát triển Nghiên cứu, Giáo dục, Kinh tế và Xã
hội In-đô-nê-xia là tổ chức cấp quốc gia nhằm điều phối hoạt động
các NGO quốc tế. Tuy nhiên, chính phủ In-đơ-nê-xia cũng gặp khó
khăn trong việc hợp tác với các NGO quốc tế do các NGO quốc tế
phát triển nhanh trong thời gian qua và chính phủ khơng đủ năng lực
để quản lý khu vực này.
2.5.3. Đánh giá cơng tác huy động viện trợ phi chính phủ quốc
tế ở In-đơ-nê-xia
Các mặt tích cực: In-đơ-nê-xia huy động tích cực viện trợ phi
chính phủ quốc tế đặc biệt trong các hoạt động cứu trợ khẩn cấp,
nhân đạo; giúp tăng cường năng lực đối tác cơ sở; giúp giải quyết các
vấn đề xã hội, tiên phong trong việc giải quyết những vấn đề khó và
mới; giúp thúc đẩy sự phát triển xã hội dân sự. Các dự án phi chính
phủ đều có tác dụng tốt, sát thực tiễn, đúng nhu cầu, dễ thực hiện,
nhanh mang lợi cho các đối tượng thụ hưởng, có ý nghĩa xã hội. Hệ
thống luật pháp điều tiết NGO ở In-đơ-nê-xia tương đối đầy đủ và
hồn thiện. Các mặt tồn tại: vẫn có các NGO quốc tế bị coi là gây
bất ổn xã hội, để các tổ chức khủng bố trá hình xâm nhập; có hiện
tượng phân biệt đối xử với các NGO gốc Hoa; xuất hiện biểu hiện tư
lợi, môi giới tài trợ cho các NGO trong nước. Chính phủ In-đơ-nê-xia
gặp khó khăn trong việc phối hợp công việc với các NGO quốc tế do
các NGO quốc tế phát triển nhanh trong thời gian qua và chính phủ

khơng đủ năng lực đề theo dõi, giám sát khu vực này. Cũng có những
quan ngại về mối liên hệ giữa NGO quốc tế và khủng bố.
CHƯƠNG 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ HUY ĐỘNG VIỆN
TRỢ PHI CHÍNH PHỦ QUỐC TẾ Ở MỘT SỐ NƯỚC ĐANG


-15PHÁT TRIỂN CHÂU Á VÀ VẬN DỤNG ĐỐI VỚI VIỆT NAM
VỀ MẶT CHÍNH SÁCH
3.1. Những vấn đề chung và riêng của Trung Quốc, Nê-pan và Inđô-nê-xia về viện trợ của các tổ chức phi chính phủ quốc tế
3.1.1.

Những vấn đề chung

Huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế xuất phát từ áp lực bên
trong xã hội và sức ép bên ngoài của cộng đồng quốc tế. Xu thế
chung là tăng mạnh về số lượng NGO quốc tế và giá trị viện trợ,
trong đó, các NGO Mỹ là chủ đạo. Các dự án viện trợ tiếp tục phát
triển theo chiều sâu, dài hạn, bền vững, có tác động kinh tế-xã hội và
tiếp cận “tham gia”. Sự tăng trưởng viện trợ phi chính phủ quốc tế tỷ
lệ thuận với tiến trình cải cách, mở cửa, chuyển đổi thể chế và quan
hệ với Mỹ. Bên cạnh đó, huy động viện trợ bị ảnh hưởng do khủng
hoảng tài chính tiền tệ và suy thối kinh tế trên thế giới và khu vực.
Cơng tác huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế có kết quả tích
cực, hướng vào thực hiện MDG, thúc đẩy phát triển xã hội dân sự,
dân chủ hóa và đào tạo năng lực cho các NGO trong nước. Tuy
nhiên, vẫn có các tồn tại chung như cịn để cho NGO quốc tế gây áp
đặt, thậm chí có trường hợp bị cho là can thiệp, gây bất ổn chính trịxã hội (Trung Quốc), làm cho các đối tác tiếp nhận phụ thuộc tài trợ.
Vẫn còn những dự án viện trợ bị đánh giá là hiệu quả không cao.
Nhà nước đều thực hiện cơng tác quản lý viện trợ phi chính phủ
quốc tế thông qua pháp luật, bộ máy quản lý nhà nước và các tổ chức

do nhà nước thành lập để làm đối tác điều phối, hợp tác với NGO
quốc tế. Tuy nhiên, ở cả 3 nước, công tác quản lý nhà nước vẫn chưa
được quan tâm thích đáng, chính sách vẫn chưa thực sự tạo thuận lợi
cho NGO quốc tế, năng lực bộ máy làm cơng tác này cịn hạn chế. Cả
3 nước được khảo cứu đều đã hình thành quan hệ 3 bên giữa chỉnh
phủ - NGO quốc tế - đối tác trong nước.
3.1.2.

Những vấn đề riêng

Thu hút viện trợ phi chính phủ quốc tế có mức độ khác nhau đối
với từng nước được khảo sát, phụ thuộc vào vị thế trên trường quốc


-16tế, độ ổn định chính trị, mở cửa, hội nhập quốc tế. Trung Quốc thu
hút nhiều nhất, Nê-pan thu hút ít nhất. In-đơ-nê-xia có một thời gian
dài bất ổn chính trị, nhạy cảm với tác động bên ngoài nên ảnh hưởng
đến viện trợ của các NGO quốc tế. Khác với Trung Quốc, Nê-pan và
In-đô-nê-xia tiến hành cải cách nhanh và “mở” hơn, do đó mức độ
can dự và tác động chính trị-xã hội của NGO quốc tế, đặc biệt trên
lĩnh vực nhân quyền, dân chủ lớn hơn. Riêng ở In-đô-nê-xia, NGO
quốc tế được tham gia hậu thuẫn các đảng chính trị.
Mỗi nước được khảo cứu có những lĩnh vực ưu tiên thu hút viện
trợ khác nhau. Trung Quốc hướng các NGO quốc tế quan tâm đến
vấn đề xã hội và môi trường là những vấn đề bức xúc nảy sinh trong
q trình phát triển “nóng” của nước này; thúc đẩy “cải cách mở cửa”
vì tiến trình cải cách mở cửa của Trung Quốc có tác động lớn trên thế
giới. Nê-pan ưu tiên viện trợ phi chính phủ quốc tế chống đói nghèo,
phát triển cộng đồng và bình đẳng giới do trình độ phát triển của Nêpan thấp hơn 2 nước cịn lại. Ở In-đơ-nê-xia, viện trợ của các NGO
quốc tế được hướng nhiều cho tăng cường năng lực của xã hội dân sự

do đây là vấn đề cấp thiết nảy sinh trong tiến trình dân chủ hố theo
mơ hình phương Tây.
Quản lý nhà nước về viện trợ của các NGO quốc tế tại 3 nước
được khảo cứu có mức độ, quy mô khác nhau, phụ thuộc vào thể chế
luật pháp và vai trị quản lý nhà nước. Trung Quốc có thể chế chặt
chẽ, vai trò của nhà nước được đề cao nên việc quản lý viện trợ của
phi chính phủ quốc tế chặt hơn, hạn chế một số lĩnh vực. In-đơ-nê-xia
theo mơ hình phương Tây nên luật hố về NGO cũng đầy đủ hơn.
Nê-pan cho thấy sự nhân nhượng và thỏa hiệp hơn trong quản lý.
3.1.3. Đánh giá chung về cơng tác huy động viện trợ phi chính
phủ quốc tế ở 3 trường hợp điển hình
Về cơ bản, huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế phù hợp với
chiến lược phát triển kinh tế-xã hội ở 3 nước khảo cứu, đáp ứng nhu
cầu của cơ sở và đối tượng thụ hưởng. Chính sách “mở” của các
nước này trong tiến trình quốc tế hóa và hội nhập quốc tế giúp thu
hút sự quan tâm của cộng đồng phi chính phủ. Viện trợ phi chính phủ


-17quốc tế nhìn chung cho kết quả tích cực giúp các nước được khảo
cứu thực hiện MDG cũng như các mục tiêu phát triển riêng của mỗi
nước. Tính bền vững của các dự án viện trợ đã được quan tâm, tỷ lệ
giải ngân viện trợ đều vượt xa mức giải ngân trung bình của ODA.
Tuy nhiên, cơng tác quản lý nhà nước ở cả 3 nước nói trên đều
có những bất cập. Mối quan hệ hợp tác giữa chính phủ - NGO quốc
tế - đối tác trong nước chưa thực sự bền vững, gắn kết và xây dựng.
Vẫn còn cần thêm cam kết về chính sách và hồn thiện khn khổ
pháp lý đối với NGO quốc tế. Bộ máy quản lý nhà nước và các NGO
trong nước chưa đủ năng lực cần thiết trong quan hệ với NGO quốc
tế, đây là yếu tố yếu nhất, ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả thu hút và
quản lý viện trợ phi chính phủ quốc tế, dễ dẫn đến các hoạt động viện

trợ lệch lạc, khó kiểm sốt, khơng hiệu quả.
3.2. Bài học kinh nghiệm về huy động viện trợ phi chính phủ
quốc tế ở Trung Quốc, Nê-pan và In-đô-nê-xia
3.2.1. Sự cần thiết phải huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế
Viện trợ phi chính phủ quốc tế bổ sung trực tiếp và thiết thực
cho các nguồn lực công và xã hội hố, khơng đặt lên nước tiếp nhận
gánh nặng nợ nần, cũng như áp lực thay đổi chính sách. Viện trợ phi
chính phủ quốc tế ở 3 nước khảo sát có vai trị tích cực và hiệu quả
thực hiện MDG. Thơng qua kênh huy động này, các nước đang phát
triển còn có thể tăng cường tiến trình hội nhập và hợp tác quốc tế.
3.2.2. Huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế phải phù hợp
với điều kiện đặc thù của nước tiếp nhận
Thực tiễn huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế ở 3 nước
khảo sát phù hợp với diễn biến đặc thù của mỗi nước về bối cảnh
kinh tế-xã hội, cải cách, mở cửa, quan hệ quốc tế. Những dự án viện
trợ phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của các nước khảo
sát đều được tạo điều kiện, phát huy tác dụng, có hiệu quả tốt; ngược
lại thì bị giám sát, hạn chế, ngăn cản. Tính phù hợp cịn giúp các cơ
quan quản lý nhà nước dễ dàng hơn trong quản lý, điều phối và tạo
điều kiện cho hoạt động của các NGO quốc tế.


-183.2.3. Quản lý nhà nước có tác động trực tiếp đến huy động
viện trợ phi chính phủ quốc tế
Thực tiễn ở 3 nước khảo sát cho thấy càng quan tâm tạo khn
khổ và chính sách thuận lợi cho khu vực NGO thì các NGO quốc tế
càng quan tâm, tăng cường viện trợ, tăng tính hiệu quả và minh bạch
hơn. Ngược lại, việc thiếu coi trọng giám sát, định hướng viện trợ
của các NGO quốc tế vào các mục tiêu ưu tiên của mình, quản lý
viện trợ thiếu chặt chẽ đã gây ra các biểu hiện tiêu cực và lệch lạc của

viện trợ phi chính phủ quốc tế.
3.2.4. Năng lực của nước tiếp nhận có ảnh hưởng đến hiệu quả
huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế
Ở 3 nước khảo sát, các dự án viện trợ của NGO quốc tế đều
được tiến hành thông qua đối tác với NGO trong nước và có xu
hướng ưu tiên cho các đối tác, địa phương có năng lực triển khai tốt
hơn. Tăng cường năng lực trước mắt giúp các nước đang phát triển
huy động thêm và tăng hiệu quả viện trợ của các NGO quốc tế; trong
dài hạn sẽ giúp khai thác tốt hơn các nguồn lực trong xã hội; đồng
thời giúp các nước này tự tin và chủ động trong hội nhập quốc tế.
3.3. Vận dụng về chính sách huy động viện trợ phi chính phủ
quốc tế ở Việt Nam trên cơ sở bài học kinh nghiệm quốc tế
3.3.1. Thực trạng thu hút viện trợ phi chính phủ quốc tế ở Việt
Nam
Diễn biến viện trợ của các NGO quốc tế ở Việt Nam trùng hợp
với tiến trình “đổi mới”, quan hệ đối ngoại (nhất là với Mỹ), ít bị ảnh
hưởng do các biến động bên ngoài. So với 3 nước khảo sát, NGO
quốc tế quan tâm đến Việt Nam chậm hơn, tuy nhiên mức độ quan
tâm lớn hơn (xem Hình 3.1, 3.2). Các NGO Bắc Mỹ chiếm đa số
(41% tổng số NGO quốc tế). Viện trợ của các NGO quốc tế chủ yếu
dành cho các lĩnh vực cơ bản như phát triển cộng đồng (chiếm 27%
giá trị), y tế xã hội (43%), giáo dục (16%).


-19-

Nguồn: Tổng hợp báo cáo tổng kết của Ban điều phối viện trợ
nhân dân (1990-2010)
Hình 3.1: Diễn biến số lượng các NGO quốc tế ở Việt Nam
trong thời gian qua


Nguồn: Tổng hợp báo cáo tổng kết của Ban điều phối viện trợ
nhân dân (1990-2010)
Hình 3.2: Diễn biến giá trị viện trợ phi chính phủ quốc tế ở Việt
Nam trong thời gian qua
3.3.2. Thực trạng quản lý nhà nước về viện trợ phi chính phủ
quốc tế ở Việt Nam
So với 3 nước khảo sát, Việt Nam quan tâm hơn đến công tác
quản lý viện trợ phi chính phủ quốc tế, thể hiện ở cả cam kết chính trị
lẫn chính sách và bộ máy điều phối, quản lý các cấp. Từ năm 1989,
Chính phủ thành lập Uỷ ban cơng tác về các tổ chức phi chính phủ
nước ngồi để thực hiện quản lý nhà nước và Ban điều phối viện trợ
nhân dân làm đầu mối quan hệ với các NGO quốc tế tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, hàng loạt văn bản pháp lý liên quan đến thu hút, quản lý


-20viện trợ của các NGO quốc tế tại Việt Nam được ban hành, đặc biệt
là “Chương trình quốc gia xúc tiến viện trợ của các NGO quốc tế giai
đoạn 2006-2010” và “Quy chế quản lý và sử dụng viện trợ phi chính
phủ 2009” đã tạo cơ chế tổng hợp và tương đối chặt chẽ về quản lý
loại hình viện trợ nước ngoài đặc thù này tại Việt Nam. Tuy nhiên,
việc thống nhất cơ quan vận động, điều phối và quản lý viện trợ vẫn
chưa nhất quán và ổn định ở các cấp, gây tâm lý chưa ổn định trong
bộ máy và dễ dẫn đến chồng chéo nhiệm vụ và chức năng.
3.3.3.

Đánh giá cơng tác huy động viện trợ phi chính phủ quốc
tế ở Việt Nam

Huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế tại Việt Nam cũng

giống như ở 3 trường hợp điển hình đều có kết quả tích cực, hướng
vào thực hiện các mục tiêu MDG, thúc đẩy sự thành lập NGO trong
nước, sự tham gia của cộng đồng và đào tạo năng lực cho các NGO
Việt Nam. Với thể chế chính trị Việt Nam gần với Trung Quốc, cơng
tác huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế có nhiều điểm tương
đồng đối với cả 2 nước.
Tuy nhiên, do đặc thù xã hội dân sự chưa được công nhận chính
thức ở Việt Nam, nhà nước duy trì kiểm soát chặt chẽ, độ mở của nền
kinh tế chưa nhiều như các trường hợp điển hình nói trên nên nhận
thức về NGO và viện trợ phi chính phủ quốc tế chưa đầy đủ, nhất là ở
địa phương. Khuôn khổ pháp lý và chính sách đối với NGO quốc tế
cịn thiếu, các quy định hiện hành liên quan lại chưa được thực hiện
nghiêm túc, nhất là ở cấp địa phương, hoặc nhiều lúc cịn cứng nhắc
áp dụng khơng phù hợp, chưa thực sự tạo điều kiện, khuyến khích sự
tham gia tích cực của NGO quốc tế. Viện trợ phi chính phủ quốc tế
vẫn dàn trải, chưa tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên đặc thù như ở 3
nước khảo sát. Năng lực của bộ máy điều phối, quản lý ở nhà nước
và địa phương, cũng như năng lực đối tác ở địa phương còn nhiều bất
cập. Quản lý nhà nước vẫn theo tiếp cận một chiều, chưa xây dựng
được mối quan hệ hợp tác, hiểu biết giữa cơ quan quản lý và NGO
quốc tế cũng như đối tác địa phương thực hiện.


-213.3.4. Tính cấp thiết của việc huy động viện trợ phi chính phủ
quốc tế đối với Việt Nam trong tình hình hiện nay
Bài học tại Trung Quốc, Nê-pan và In-đơ-nê-xia đã khẳng định
tính cần thiết phải thu hút và quản lý hiệu quả viện trợ của các NGO
quốc tế. Trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, Việt Nam chủ
trương huy động nội lực là chính, đi đơi với tranh thủ tối đa các
nguồn lực bên ngồi. Chính vì vậy, trong thời gian tới, Việt Nam

càng cần phải tranh thủ nguồn viện trợ này.
3.3.5. Một số yếu tố ảnh hưởng đến huy động viện trợ phi chính
phủ quốc tế ở Việt Nam
Hiện nay, viện trợ của NGO quốc tế có xu hướng bị cắt giảm do
khủng hoảng và suy thoái kinh tế trên thế giới và tập trung hơn cho
khu vực chậm phát triển (châu Phi). Viện trợ đã chuyển hướng bắt
đầu dành cho cho các lĩnh vực mới như phịng chống bệnh dịch tồn
cầu, biến đối khí hậu, dân chủ hóa. Việc Việt Nam thu hút nhiều FDI
và ODA sẽ dẫn đến nguy cơ giảm viện trợ của các NGO quốc tế.
Tuy nhiên, Việt Nam còn cơ hội để thu hút thêm viện trợ phi
chính phủ quốc tế thơng qua tiến trình hồn thiện chính sách, khn
khổ pháp lý thuận lợi cho các NGO quốc tế; duy trì năng lực giải
ngân viện trợ; tăng cường tính minh bạch và chống tham nhũng; đẩy
mạnh hội nhập quốc tế. Bản thân các NGO quốc tế đã tìm cách tiếp
cận với các nguồn tài trợ mới, đặc biệt từ khu vực doanh nghiệp, các
quỹ từ thiện lớn mới thành lập của những tỷ phú, doanh nhân thành
đạt và hiện đã có tài trợ ở Việt Nam.
3.3.6. Một số đề xuất nhằm tăng cường hiệu quả huy động viện
trợ phi chính phủ quốc tế tại Việt Nam
Thứ nhất, cần có nhận thức đúng về chủ thể NGO quốc tế, thống
nhất quan điểm nhận thức chung về vai trị viện trợ phi chính phủ
quốc tế, có kế hoạch truyền thơng, giáo dục nhận thức trong xã hội,
cần có các quy hoạch chiến lược, chính sách và biện pháp xây dựng
xã hội dân sự theo định hướng chính trị của Việt Nam. Cần xây dựng
quan hệ hợp tác cơ quan quản lý - NGO quốc tế - đối tác tiếp nhận,


-22vận động, định hướng NGO quốc tế có hiểu biết đầy đủ, để từ đó
bám sát vào các chương trình phát triển kinh tế-xã hội nói chung và
cho các vùng khó khăn của Việt Nam.

Thứ hai, quản lý nhà nước cần có hệ thống, đúng nguyên tắc,
hợp tác tốt, nhưng linh hoạt. Đối với một số NGO hoạt động trong
lĩnh vực nhạy cảm như nhân quyền, dân chủ, cách tiếp cận với các tổ
chức này là đối thoại, hợp tác, tăng cường hiểu biết lẫn nhau, can dự
có nguyên tắc, cơng khai, minh bạch. Bên cạnh đó, nên có các chính
sách ưu đãi giống như ưu đãi đầu tư đối với các dự án NGO phục vụ
ưu tiên phát triển kinh tế-xã hội.
Thứ ba, cần quan tâm chính sách tăng cường năng lực cơ sở, địa
phương, chủ động xây dựng đối tác phù hợp, tuân thủ các quy trình
của dự án và chuẩn bị các nguồn nội lực, thậm chí cả vốn đối ứng để
dự án viện trợ có thể phát triển bền vững.
KẾT LUẬN
Gắn liền với tiến trình quốc tế hóa, tồn cầu hóa trên thế giới,
các NGO đã có những bước phát triển đáng kể khơng chỉ về quy mơ,
tổ chức, địa bàn hoạt động mà cịn cả về tư duy, triết lý, phương pháp
luận, cách tiếp cận và mơ hình quản trị để gắn kết thành một khu vực
nằm ngồi chính phủ đang trỗi dậy mạnh mẽ, được đặt vào vị trí
ngang hàng với 2 khu vực truyền thống là khu vực nhà nước và khu
vực tư nhân – đó là khu vực phi chính phủ.
Thực tiễn và nghiên cứu cho thấy một số nước đang phát triển
và các nền kinh tế mới nổi ở châu Á đã đẩy mạnh huy động nguồn
lực – đặc biệt là viện trợ phi chính phủ quốc tế từ khoảng những năm
1980-1990, được đánh giá có tác động tích cực góp phần thực hiện
MDG. Trên cơ sở đó, luận án này lựa chọn Trung Quốc, Nê-pan và
In-đô-nê-xia là những nước châu Á đang phát triển và mới nổi, có
nhiều điểm tương đồng với Việt Nam để nghiên cứu về huy động
viện trợ phi chính phủ quốc tế. Ngồi các tương đồng về thể chế, lịch
sử, văn hoá-xã hội, trong 3 thập kỷ lại đây, các nước nói trên và Việt
Nam đều phát động và triển khai cải cách, chuyển đổi mô hình quản



-23lý kinh tế, mở cửa hội nhập, tăng cường vai trò của người dân, các tổ
chức xã hội, các NGO quốc tế.
Nghiên cứu 3 trường hợp Trung Quốc, Nê-pan và In-đơ-nê-xia
đều cho phát hiện chung về kết quả tích cực huy động được viện trợ
phi chính phủ quốc tế cho phát triển kinh tế-xã hội, thúc đẩy cải cách
thể chế, hợp tác và hội nhập quốc tế, cũng như tăng cường năng lực
cơ sở, thúc đẩy sự phát triển dân chủ cơ sở và xã hội dân sự ở 3 nước
này. Những mặt tích cực này đã được chính phủ, các cơ quan quản
lý, các đối tác triển khai tại các nước được nghiên cứu và cộng đồng
quốc tế công nhận. Tuy nhiên, vẫn còn các tồn tại bất cập trong cơng
tác huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế do các nhân tố về khác
biệt quan điểm, ý thức hệ, đặc thù văn hóa, kinh tế-xã hội, mục tiêu
phát triển, lợi ích quốc gia, thiếu quan tâm, thiếu đồng bộ trong quản
lý nhà nước, hạn chế năng lực nội sinh của các nước tiếp nhận, sự lẫn
át của NGO quốc tế, dẫn tới có lúc, có nơi, có biểu hiện áp đặt từ bên
ngoài cũng như sự phụ thuộc của NGO trong nước vào NGO quốc tế.
Bên cạnh đó, những bất ổn trong mơi trường kinh tế trong khu vực và
trên thế giới, cũng như sự biến động của xu thế viện trợ trong khu
vực và trên thế giới khơng khỏi có những tác động tiêu cực đến thu
hút viện trợ phi chính phủ quốc tế ở các nước nói trên.
Bài học kinh nghiệm từ nghiên cứu này là: (1) các nước châu Á
đang phát triển cần phải tranh thủ tốt nguồn viện trợ phi chính phủ
quốc tế, (2) huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế phải phù hợp với
điều kiện đặc thù của nước tiếp nhận, (3) quản lý nhà nước có tác
động trực tiếp đến thu hút viện trợ của phi chính phủ quốc tế, và (4)
năng lực của nước tiếp nhận có ảnh hưởng đến hiệu quả huy động
viện trợ phi chính phủ quốc tế. Các bài học này có ý nghĩa vận dụng
cho tất cả các chủ thể tham gia quan hệ, bao gồm: chính phủ, đối tác
trong nước và NGO quốc tế.

Từ bài học kinh nghiệm thực tiễn của Trung Quốc, Nê-pan và
In-đơ-nê-xia về huy động viện trợ phi chính phủ quốc tế và tác động
của nguồn vốn này đối với phát triển kinh tế-xã hội, có thể thấy có
một số liên hệ đến Việt Nam về mặt chính sách: (1) cần có nhận thức


×