Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

tìm hiểu về gia đình và những giá trị tạo nên văn hóa gia đình việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.4 KB, 23 trang )

Lời nói đầu
Gia đình là nền tảng, là tiền để quan trọng cho sự phát triển của xã hội loài người. Việt
Nam chúng ta cũng vậy, gia đình là một tổ ấm để mọi người cùng nhau sinh sống, học
tập và làm việc. Để có một nền văn hóa lâu đời như vậy, nước Việt Nam chúng ta đã kế
thừa và phát huy những nét đẹp của văn hóa gia đình để hình thành nên một xã hội ổn
định, có tôn ti, trật tự rõ ràng mà hiếm quốc gia nào trên thế giới có được điều đó.
Cơ sở văn hóa Việt Nam là một bộ phận quan trọng của chương trình đào tạo của ngành
Quốc tế học. Bởi nếu người học chưa nắm vững những kiến thức cơ bản về văn hóa, tập
tục, phong tục người Việt Nam thì rất khó có thể hoàn thành tốt vị trí của một nhà ngoại
giao. Các kiến thức từ bộ môn Cơ sở văn hóa Việt Nam là nền tảng, là yếu tố cốt lõi hình
thành, xây dựng, hỗ trợ cho việc hoạch định một đường lối ngoại giao hiện đại: vừa đáp
ứng các yêu cầu đặt ra của thế giới thời hiện đại, vừa có thể giữ gìn, phát huy, quảng bá
bản sắc văn hóa dân tộc.
Trong bài kiểm tra này, em được Thầy giao cho công việc tìm hiểu về gia đình và những
giá trị tạo nên văn hóa gia đình. Đây là một đề tài rất hay, gần gũi, mang tính thời sự
cao nhằm trang bị cho em những kiến thức cốt lõi để sau này trang bị cho ngành học, kế
đến là xây dựng một gia đình cho tương lai. Trong quá trình thực hiện đề tài, em đã khảo
cứu qua nhiều nguồn tài liệu và đúc kết cho mình những kinh nghiệm quý báu để hoàn
thành thật tốt yêu cầu mà Thầy giao cho. Mặc dù đã cố gắng hết sức trong việc hoàn
thành bài tiểu luận, song những sai sót là điều khó tránh khỏi. Em rất mong nhận được
những đóng góp xây dựng từ Thầy cũng như các bạn để bài tiểu luận của em hoàn thiện
hơn.
Phần nội dung
I. KHÁI NIỆM VỀ GIA ĐÌNH
Gia đình không chỉ gắn bó với mỗi con người mà còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều
lĩnh vực khoa học, là một đơn vị cụ thể để thu thập thông tin, phân tích số liệu, và cũng
là đối tượng cho chính sách xã hội. Vì vậy, xác định khái niệm gia đình, xác định những
nội dung mà khái niệm này biểu đạt không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong đời sống của
mỗi con người, trong nhận thức xã hội mà còn hết sức cần thiết trong việc tiến hành
những nghiên cứu về gia đình, định hướng các vấn đề nghiên cứu.
Chúng ta hãy xem xét hiện nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về gia đình được


triển khai, song khái niệm về gia đình vẫn còn là vấn đề gây nhiều tranh cãi. Cho đến
nay thì gia đình được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Nhiều nhà khoa học đã thừa
nhận: thuật ngữ gia đình vẫn là “một thuật ngữ được định nghĩa lỏng lẻo nhất trong từ
vựng của nhà xã hội học”.
Người Trung Quốc cho rằng chữ gia đình (家庭)được hình thành từ bộ “Miên” (宀), bộ
“Nghiễm” (宀 ) đều là những chữ chỉ mái che, cơ sở của gia đình. Dưới bộ Miên là chữ
“thỉ” (豕) chỉ con lợn để thể hiện cơ sở kinh tế tạo những yếu tố chung của mỗi nhà để
hòa vào cuộc sống chung của toàn xã hội.
Khó khăn trong việc xác định khái niệm gia đình do nhiều nguyên nhân. Trước hết, gia
đình là một thuật ngữ hết sức thân thuộc với tất cả mọi người. Gia đình là nơi mà mọi
người sinh ra và lớn lên, khi nhắc đến khái niệm gia đình thì bất cứ ai cũng có những
hình dung chung về nó. Chính sự thân thuộc này khiến nhiều người tưởng chừng như rất
hiểu rõ về khái niệm gia đình lại cảm thấy rất mơ hồ khi được yêu cầu cung cấp những
tiêu chí để nhận diện gia đình. Thứ hai, gia đình là một nhóm xã hội đặc thù. Khác với
những nhóm xã hội khác, gia đình hội tụ trong nó tất cả các yếu tố sinh học, tâm lý, văn
hóa và kinh tế. Thứ ba, gia đình luôn biến đổi theo sự tiến bộ của xã hội, của nền văn hóa
mà gia đình tồn tại trong đó. Không dễ dàng để xác định một khái niệm gia đình đúng với
tất cả các dạng gia đình khác nhau về mặt văn hóa, lịch sử. Thực tế lịch sử phát triển của
loài người cho thấy, gia đình đã tồn tại rất nhiều kiểu loại, từ gia đình cùng dòng máu, gia
đình nhiều vợ (chế độ đa thê), gia đình nhiều chồng (chế độ đa phu), tới gia đình cặp đôi,
gia đình một vợ một chồng, gia đình theo chế độ mẫu quyền, gia đình theo chế độ phụ
quyền, gia đình trong xã hội nông nghiệp truyền thống đến gia đình trong xã hội công
nghiệp hóa. Trong mỗi thời kỳ lịch sử, gia đình đều có những đặc trưng riêng biệt của nó.
Mặc dù có nhiều cách định nghĩa về gia đình, song tựu chung lại các định nghĩa về gia
đình thường được xác định theo hai cách tiếp cận: vi mô hoặc vĩ mô.
Theo cách tiếp cận vĩ mô, gia đình được định nghĩa với tư cách là một thiết chế xã hội.
Theo cách tiếp cận vi mô, gia đình được định nghĩa với tư cách là một nhóm xã hội với
những tiêu chí cụ thể để nhận diện nó. Gia đình được xác định dựa trên 5 tiêu chí như
sau: là một nhóm người (có hai người trở lên), có quan hệ với nhau bởi hôn nhân, huyết
thống hoặc quan hệ nghĩa dưỡng, có đặc trưng giới tính qua quan hệ hôn nhân, cùng

chung sống, có ngân sách chung. Trong năm tiêu chí này, quan hệ hôn nhân và huyết
thống là tiêu chí cơ bản nhất để nhận diện gia đình. Căn cứ vào nền văn hóa tinh hoa, có
truyền thống lịch sử lâu đời như ở Việt Nam, xin mạo muội đưa ra một khái niệm chung
về gia đình như sau: “gia đình là một nhóm xã hội được hình thành trên cơ sở các quan
hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống nảy sinh từ quan hệ hôn nhân đó, gắn bó với nhau về
tình cảm, chia sẻ kinh tế, trách nhiệm và quyền lợi, chịu sự ràng buộc có tính pháp lý
được xã hội, nhà nước thừa nhận và bảo vệ.”
Liên hệ với Việt Nam, loại gia đình phổ biến của cộng đồng dân tộc Việt Nam thường
gồm hai thế hệ là cha mẹ và con cái. Cũng có một số gia đình gồm ba thế hệ là ông bà –
cha mẹ - con cái và một số ít gia đình gồm bốn thế hệ là cố - ông bà – cha mẹ - con cái.
Bốn thế hệ nói chung sống hòa thuận trong một gia đình gọi là Tứ đại đồng đường, một
đặc trưng về tính cộng đồng của người Việt cho nên được vua ban thưởng. Trong lúc đó,
gia đình xã hội Âu Tây phổ biến hai thế hệ.
II. CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH
1. Chức năng sinh sản, tái sản xuất ra con người
Đây là chức năng cơ bản của gia đình, vừa đáp ứng yêu cầu tự nhiên, tâm sinh – lý của
con người, đồng thời mang ý nghĩa xã hội là cung cấp lực lượng lao động mới đảm bảo
sự phát triển liên tục và trường tồn của xã hội loài người. Chức năng này cụ thể được
xem như là một cơ sở hình thành nên gia đình trong những thời kỳ đầu tiên, nhằm tăng
cường sức mạnh của bộ tộc, thị tộc, tạo nên sự ổn định của cộng đồng trước sự tràn lấn
của cộng đồng khác.
2. Chức năng kinh tế và tổ chức hình thành đời sống gia đình
Đây là chức năng cơ bản của gia đình. Để thực hiện chức năng này, các gia đình tiến
hành các hoạt động lao động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tạo nên thu nhập chính đáng
để nâng cao đời sống, đảm bảo hạnh phúc cho gia đình. Thực hiện chức năng này cũng là
việc các gia đình sử dụng nguồn thu nhập để mua sắm những sản phẩm phục vụ cho đời
sống vật chất và tinh thần của gia đình (tiêu dùng), thông qua đó mà thúc đẩy nền sản
xuất xã hội phát triển.
Liên hệ Việt Nam, mỗi cộng đồng huyết thống của người Việt Nam từ lâu đã không còn
là đơn vị sản xuất mà đã phân thành vô vàn các gia đình nhỏ, với thân phận kinh tế - xã

hội riêng. Gia đình nhỏ với hai thế hệ là đơn vị thực hiện chức năng kinh tế của mình,
phù hợp với điều kiện của nền nông nghiệp ruộng nước với sở hữu nhỏ bé và manh mún,
lao động chủ yếu là thủ công với kỹ thuật sử dụng cơ bắp. Sự thích hợp của cách tổ chức
lao động này được đúc kết bằng câu ca dao sinh động:
Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa
Với nông nghiệp ruộng nước, phân công lao động trong gia đình diễn ra tự nhiên, hài hòa
theo giới tính và độ tuổi: nam (đại diện là chồng) có nhiệm vụ đảm trách các công việc
nặng nhọc như cày bừa. Người nữ (đại diện là vợ), lo những khâu tưởng chừng ít nặng
nhọc nhưng lại đòi hỏi sức bền, sức dẻo dai như cấy lúa, trỉa lúa. Một số khâu cả hai giới
có thể làm được như nhổ mạ, làm cỏ, gánh phân, gặt lúa. Người lớn đảm nhận những
công việc nặng, trẻ con phụ những công việc nhỏ. Thiếu một bộ phận nào đó, tổ hợp lao
động bị xộc xệch, các công việc không được triển khai đều đặn, mùa vụ không kịp, ảnh
hưởng đến năng suất cây trồng thì đời sống gia đình cũng bị ảnh hưởng.
Như vậy, chức năng kinh tế của gia đình chủ yếu được xem xét trên ba phương diện: hoạt
động tiêu dùng, hoạt động sản xuất, việc phân phối nguồn lực và lợi ích của gia đình. Với
hoạt động tiêu dùng, gia đình luôn được xem là một đơn vị. Trong khi đó, với hoạt động
sản xuất, điều này cụ thể diễn ra hoặc là trong phạm vi gia đình (gia đình khi đó là một
đơn vị sản xuất), hoặc do các thành viên trong gia đình thực hiện ở ngoài gia đình (gia
đình khi đó sẽ mang ý nghĩa như một bể chứa thu nhập). Ba phương diện trong chức
năng kinh tế gia đình có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau, mang tính quy định nhau.
Hoạt động sản xuất chi phối tiêu dùng, sự đóng góp của các thành viên trong bể chứa thu
nhập cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phân phối lợi ích.
Tuy nhiên, gia đình là đơn vị đặc biệt, vì vậy, việc phân phối lợi ích của gia đình không
hoàn toàn chỉ dựa trên sự công bằng trong đóng góp thu nhập mà nó cũng phải dựa trên
thứ tự ưu tiên của các thành viên mà các gia đình xác lập nên. Sự xác lập thứ tự ưu tiên
phân phối lợi ích của mỗi gia đình lại trực tiếp chi phối sự ổn định trong quan hệ giữa các
thành viên gia đình đó. Khi gia đình không còn là bể chứa thu nhập, không còn giữ được
vai trò phân phối lợi ích cho các thành viên, tính liên kết trong các quan hệ gia đình chắc
chắn sẽ bị tác động mạnh – đây là một xu hướng lớn trong xã hội hiện đại.

3.Chức năng giáo dục của gia đình
Đây là chức năng rất quan trọng của gia đình, đặc biệt trong vai trò xã hội hóa trẻ em.
Nội dung giáo dục của gia đình là tương đối toàn diện. Cha mẹ có nghĩa vụ thương yêu,
nuôi dưỡng con cái, chăm lo cho việc học tập và sự phát triển lành mạnh của con cái cả
về thể chất lẫn tinh thần để con cái trở thành những công dân có ích cho xã hội.
Đối với trẻ em, gia đình là một xã hội đặc biệt. Trong các giai đoạn phát triển của mình,
trẻ em đều được lớn lên dưới sự giám sát của gia đình. Đồng thời, được dạy dỗ, rèn luyện
để làm quen và thực hiện các chuẩn mực trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Con
người xã hội của trẻ em được hình thành và hoàn thiện trong gia đình. Do vậy, có thể
thấy, gia đình là cầu nối quan trọng nhất để trẻ em có thể được xã hội hóa, được tạo
những bước chuẩn bị tốt nhất trước khi thực sự hòa nhập cộng đồng.
Cũng như tất cả các tộc người khác trên Trái Đất, ở người Việt gia đình là môi trường
giáo dục đầu tiên. Trong điều kiện gia đình là đơn vị tổ chức sản xuất, đơn vị kinh tế tự
chủ, đơn vị thờ cúng, gia đình sống trong môi trường làng dựa trên nền kinh tế nông
nghiệp ruộng nước với cơ sở xã hội là hàng loạt các mối quan hệ huyết thống, xóm
giềng, tuổi tác, vị thế xã hội…Như ở người Việt Nam ta vai trò là đơn vị giáo dục càng
trở nên quan trọng.
Những nội dung giáo dục của gia đình người Việt bao gồm:
Giáo dục kỹ năng lao động, kinh nghiệm sản xuất: Cuộc sống của một gia đình người
Việt ở nông thôn xưa và nay có biết bao công việc phải làm, từ việc tạo ra các sản phẩm
để nuôi sống con người, đến các việc bổ trợ đòi hỏi không chỉ nguồn lao động lớn mà còn
kỹ năng làm việc của mỗi lao động. Thêm nữa, đặc điểm nổi bật của gia đình Việt Nam
trước đây là ngay từ nhỏ, con cái luôn sống với bố mẹ, ông bà, lớn lên thì đi học ngay
trong trường làng – song chỉ có con trai và chỉ học nửa buổi, nên gia đình có điều kiện
giáo dục trẻ nhỏ, thực hiện tốt chức năng đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng được những
nhu cầu bức thiết về lao động. Các bậc ông bà hằng ngày trong nom trẻ nhỏ vẫn tiến hành
các công việc nhỏ như đan lát, băm bèo, thái rau, nấu nướng Đây chính là dịp mà trẻ
em có cơ hội quan sát trực tiếp các thao tác và làm theo, rồi được ông bà hướng dẫn, chỉ
bảo những kinh nghiệm của mình.
Ngay từ khi đứa trẻ còn nhỏ, các bậc cha mẹ đã chỉ bảo cho trẻ tập làm một số công việc

đơn giản như quét sân, dọn dẹp các đồ đạc nhẹ, thái rau, băm bèo. Từ 9 đến 10 tuổi trẻ
bắt đầu học tập cách nấu ăn, cho lợn gà ăn, giã gạo, khâu vá, giần sàn gạo, và thực hiện
những công việc đầu tiên của đồng áng như chăn trâu, cuốc ruộng, đưa cơm cho bố mẹ
đang cày cấy. Từ 12 tuổi trở đi, được học các công việc nặng hơn, phức tạp hơn như việc
xay lúa, việc đồng án như gánh phân, nhổ mạ và các thao tác khác.
Quá trình trên đây kết hợp giữa các sự truyền bảo của cha và mẹ, ông bà kết hợp với sự
quan sát, tự học hỏi và làm theo của đứa trẻ. Đến khi 17, 18 tuổi, cả con trai và con gái
trở thành những người lao động với những kỹ năng làm việc tương đối thuần phục, đáp
ứng các yêu cầu lao động tổng hợp của một gia đình.
Giáo dục lối ứng xử: Chức năng là đơn vị giáo dục của gia đình người Việt còn thể hiện
ở việc giáo dục lối ứng xử. Mỗi thành viên trong gia đình người việc từ lúc nhỏ đến lúc
trưởng thành sống trong hàng loạt các mối quan hệ chồng chéo, phức tạp. Điều này đòi
hỏi thành viên đó phải có cách ứng xử phù hợp đúng mức.
Trước hết là quan hệ huyết thống. Đây là mối quan hệ đầu tiên, chủ đạo mà mỗi con
người tiếp nhận và được trao truyền thế ứng xử. Ngay từ khi biết nói, mỗi người từng
bước được dạy cách nhận biết những người thân quen trong gia đình thông qua các từ chỉ
vai vế, quan hệ: bố, mẹ, ông, bà, anh, chị, em. Sau đó, bắt đầu được nhận biết những
người thuộc phạm vi ngoài gia đình thuộc họ nội, họ ngoại. Gắn với sự nhận biết từng
người thuộc từng vai vế là cung cách xưng hô, lời ăn tiếng nói, dáng điệu và nhiều khi là
nghĩa vụ đối với mỗi bậc. Sau này khi trưởng thành và kết hôn, từng người còn phải nhận
biết được đầy đủ các mối quan hệ của gia đình nhà vợ hay nhà chồng để có một thái độ
ứng xử đúng. Giáo dục gia đình truyền thống đặc biệt coi trọng sự nhận biết và thái độ
ứng xử đúng các mối quan hệ huyết thống của mỗi con người, coi đó là một trong những
chuẩn mực đạo đức quan trọng nhất.
Thứ hai là quan hệ láng giềng: tiếp sau gia đình, mỗi con người trong làng xã xưa kia tiếp
nhận quan hệ láng giềng. Cuộc sống dựa trên nền kinh tế tự cấp tự túc, mức sống thấp đã
làm cho con người ta rất coi trọng quan hệ láng giềng (hàng xóm làng giềng tối lửa tắt
đèn có nhau). Trong nhiều trường hợp, láng giềng còn quan trọng hơn cả anh em (bán
anh em xa muôn láng giềng gần). Thái độ đối với láng giềng cũng là một tiêu chí để đánh
giá tư cách của con người ở nông thôn xưa kia.

Ứng xử theo quan hệ tuổi tác cũng là một nội dung giáo dục gia đình. Xã hội nông nghiệp
dựa trên tư duy kinh nghiệm vì thế coi trọng tuổi tác, đề cao người có tuổi và người hơn
tuổi, bởi càng nhiều tuổi càng có nhiều kinh nghiệm và tuổi tác là một giá trị biểu tượng.
Kinh nghiệm được truyền tải không chỉ trong phạm vi gia đình mà còn trong làng xã, xã
hội nói chung.
Quan hệ giới tính cũng sớm là nội dung của giáo dục trong gia đình truyền thống người
Việt. Tuy nhiên do ảnh hưởng sâu đậm của tư tưởng Nho giáo nên giáo dục giới tính ở
đây chỉ mới dừng lại ở việc giúp mỗi người từ nhỏ phân biệt được ranh giới hiện hữu
giữa nam giới và nữ giới (nam nự thụ thụ bất thân). Trong xã hội phong kiến, tình yêu chỉ
có ở ngoài xã hội quan phương.
Quan hệ vị thế xã hội cũng là nội dung của giáo dục gia đình. Xã hội người Việt trong
phạm vi từng làng và trên bình diện cả nước – là xã hội gồm nhiều thang bậc, mang tính
đẳng cấp rất rõ nét. Người có chức vị cao thường được trọng vọng. Ngay trong làng, mỗi
người thường được gọi tên gắn liền với chức vị của họ chẳng hạn như: ông Lý, cụ Tiên
chỉ, cụ Cử… Vì thế, con người từ tấm bé đã được gia đình chỉ bảo cách ứng xử với người
có các chức vị xã hội khác nhau theo hướng tôn trọng họ.
Giáo dục đạo đức và nhân cách: Các khía cạnh của giáo dục trên đây đã bao hàm một
phần của giáo dục đạo đức và nhân cách cho con người. Gia đình truyền thống còn giáo
dục cho con người các khía cạnh đạo đức như sau:
- Quý trọng người lao động và sức lao động, đề cao tinh thần yêu lao động, chịu khó,
chăm chỉ làm việc và làm việc cẩn thận;
- Đề cao tiết kiệm, chịu khổ, biết dự tính, lo toan cho cuộc sống bản thân gia đình;
- Đề cao tinh thần cộng đồng và ý thức vì cộng đồng, thể hiện ở việc biết quan tâm và
giúp đỡ người khác, coi trọng tình làng nghĩa xóm, đề cao tinh thần đoàn kết và cố kết
trong cộng đồng làng xã, quan tâm đến các việc công ích, tích cực đóng góp xây dựng
làng xã…
- Đề cao chữ tâm, chữ tín, tính trung thực, thủy chung và đạo hiếu, lễ nghĩa, chú trọng
giữ gìn vị thế và nhân cách cá nhân, làm điều thiện để tích đức, tránh làm điều ác để tránh
vung vạ về sau.
Lòng biết ơn luôn là phẩm chất đáng quý của tất cả mọi người. Người Việt theo chế độ

phụ quyền, nên coi trọng việc thờ cúng tổ tiên dòng cha. Tổ tiên trong quan niệm người
Việt trước hết là các bậc ông bà, cha mẹ đã khất. Mục đích thờ cúng tổ tiên là biết ơn
công lao động tổ tiên, cầu cho linh hồn tổ tiên được siêu thoát và mong được tổ tiên phù
hộ để cho con cháu gặp được nhiều may mắn trong cuộc sống.
Trong phạm vi gia đình nhỏ, cha mẹ mất, thì con trưởng là người chịu trách nhiệm thờ
cúng. Bát hương thờ bố mẹ đặt tại bàn thờ nhà con trưởng. Các con trai khác nếu sống
gần con trưởng về nguyên tắc không được lập bàn thờ riêng để thờ bố mẹ và không được
tổ chức cúng giỗ riêng. Họ cùng với các chị em gái khác có trách nhiệm góp giỗ và gửi lễ
(trong các dịp Tết) để người con trưởng thắp hương.
Ngày giỗ cha mẹ hằng năm, tùy theo điều kiện kinh tế cho phép, người con trưởng bàn
với các anh chị em khác về tổ chức làm giỗ to hay nhỏ. Thông thường thì các anh chị em
đều cố gắng tổ chức cho đàng hoàng, trọng thể để thể hiện tấm lòng biết ơn đối với cha
mẹ, vừa là dịp để anh chị em gặp gỡ nhau để hàn huyên, tâm sự, ôn lại những kỷ niệm.
Ngày Tết, các em trai và chị em gái đã đi lấy chồng thường gửi về nhà trưởng một lễ
(chai rượu, gói mứt, gói chè, vài quả cau…) để người con trưởng thắp hương lên bố mẹ.
Việc thờ cúng tổ tiên của người Việt diễn ra rất thường xuyên, không chỉ vào ngày mất
của cha mẹ, ông bà mà còn vào các ngày mồng một và ngày rằm hằng tháng, các ngày
Tết nguyên đán và các ngày lễ tiết trong năm hay hững khi trong nhà có việc vui (sinh
con, cưới vợ, gả chồng cho con, con thi đỗ…) hay việc buồn, hoặc để cầu mong tổ tiên
phù hộ cho một việc làm đang dự định thực hiện, một ước nguyện đang ấp ủ.
4. Chức năng thỏa mãn những nhu cầu tâm, sinh lý
Đây là chức năng quan trọng, có tính chất văn hóa, xã hội để xây dựng gia đình hạnh
phúc. Trong số các chức năng cơ bản của gia đình thì đây là chức năng có nhiều biến đổi
nhất. Sự biến đổi phụ thuộc vào thời đại, vào địa bàn, vào phương thức sản xuất, vào điều
kiện kinh tế và phụ thuộc vào chính quan niệm của từng thành viên trong quan hệ gia
đình. Cho tới tận giai đoạn muộn, trong sự hình thành và phát triển của gia đình, chức
năng thỏa mãn những nhu cầu tâm lý, tình cảm mới được hình thành và có xu hướng trở
thành chức năng quan trọng của gia đình. Gia đình ngày càng có xu hướng đề cao sự hòa
hợp, đồng cảm, chia sẻ trong các quan hệ ứng xử. Sự hòa hợp, đồng cảm, chia sẻ là nền
tảng để tạo nên sự gắn bó của các thành viên trong gia đình, khiến cho các thành viên

trong gia đình luôn tìm thấy sự an toàn, yên ổn trong gia đình, làm cân bằng tâm lý trước
những áp lực trong cuộc sống.
Mỗi con người từ tấm bé đã được sống trong bầu không khí thân thương của gia đình mà
không nơi nào họ có thể tìm thấy được.
Trước hết là lòng yêu thương vô hạn, sự chăm sóc hết lòng của cha mẹ. Từ khi còn là đứa
trẻ đỏ hỏn, mỗi người được bố mẹ dồn sức nuôi nấng. Theo thời gian năm tháng, mỗi
người dần lớn lên, nhưng dưới con mắt của cha mẹ, thì con họ vẫn luôn là đứa trẻ bé
bỏng thơ ngây. Bố mẹ là chỗ dựa tinh thần, là chỗ dựa vững chắc cho con. Ca dao Việt
Nam có câu:
Còn cha còn mẹ thì hơn
Không cha không mẹ như đờn đứt dây.
Cùng với cha mẹ, các anh chị em trong nhà cũng là một chỗ dựa tinh thần lớn lao. Khi
còn bé, mỗi người đều được các anh chị lớn chăm sóc, nâng niu. Khi lớn lên, mỗi người
cùng với anh chị của mình gánh vác các công việc trong gia đình. Anh chị em quấn quýt
bên nhau, động viên nhau những khi gặp thuận lợi hay khó khăn trong cuộc sống.
Gia đình với quan hệ tâm lý, tình cảm đặc biệt gắn bó các thành viên lại với nhau bằng
máu mủ, tình thương yêu, trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi con người ngay từ
khi còn tấm bé, bằng sự nhường nhịn, hy sinh, không tính toán thiệt hơn. Tình cảm gia
đình là công cụ chính để giải quyết hữu hiệu những bất đồng nếu nó xảy ra trong gia
đình. Tình cảm gia đình còn là hành trang để con người mang đi trên bước đường cuộc
sống.
Tính đa chức năng của gia đình trong xã hội nông nghiệp tạo nên tính bền chặt, quan hệ
phụ thuộc lẫn nhau rất sâu sắc của các thành viên trong gia đình. Các nhân được đặt trong
tương quan với các quy định trong quan hệ gia đình và hoàn toàn phụ thuộc vào gia đình.
Điều này dẫn đến việc gia đình trong xã hội nông nghiệp đặc biệt chú ý tới các mối quan
hệ theo chiều dọc. Trong đó, quyền lực của cha mẹ được xem là tuyệt đối với con cái.
Mọi biểu hiện không tôn trọng uy quyền chiều dọc tuyệt đối đều được xem là ảnh hưởng
xấu đến tính đa chức năng của gia đình, làm giảm ảnh hưởng của gia đình đến các cá
nhân. Trước sự xuất hiện của xu hướng đề cao cá nhân, tính chất đa chức năng và chú
trọng quan hệ chiều dọc của gia đình nông nghiệp đang có xu hướng dần dần bị thay thế.

III. VỊ TRÍ CỦA GIA ĐÌNH
1.Gia đình là tế bào của xã hội
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng cũng
chỉ rõ: “Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là
môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách”
- Gia đình là đơn vị nhỏ nhất trong các hình thức cộng đồng xã hội.
+ Có quan hệ quần tụ trong một không gian sinh tồn.
+ Quan hệ nuôi dưỡng giữa các thành viên và thế hệ thành viên trong gia đình, một môi
trường giáo dục - văn hoá (văn hoá gia đình và cộng đồng).
+ Gia đình còn là một tổ chức kinh tế - tiêu dùng.
+ Có cơ cấu thiết chế (có cơ chế và cách thức vận động riêng)
- Trong mối quan hệ gia đình và xã hội.
+ Trình độ phát triển của xã hội quyết định đến hình thức, tính chất, kết cấu và quy mô
gia đình. Trong mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội sẽ có một kiểu gia đình tương
ứng. Xét toàn bộ lịch sử phát triển của xã hội loài người đến nay đã xuất hiện các loại
hình gia đình cơ bản: gia đình quần hôn; gia đình đối ngẫu (cặp đôi) và gia đình một vợ
một chồng.
Ph.Ăngghen: “… có ba hình thức hôn nhân chính, tương ứng về đại thể với ba giai đoạn
phát triển chính của nhân loại. ở thời đại mông muội, có chế độ quần hôn; ở thời đại dã man,
có chế độ hôn nhân cặp đôi; ở thời đại văn minh, có chế độ hôn nhân một vợ một chồng
được bổ sung bằng tệ ngoại tình và nạn mại dâm”.
Gia đình quần hôn ra đời trong chế độ công xã nguyên thuỷ.
Gia đình đối ngẫu (cặp đôi) xuất hiện ở vào giai đoạn cuối chế độ công xã nguyên
thuỷ và đầu chế độ chiếm hữu nô lệ. Trong gia đình đối ngẫu, việc kết hôn đã thành
từng cặp nhưng đó mới chỉ là sự sàng lọc tự nhiên, nên còn lỏng lẻo. Ngoài những
người chồng chính và vợ chính ra, họ còn vô số những người chồng, người vợ khác
nữa. Theo đó, con cái sinh ra mang dòng họ của người mẹ, hay còn gọi là chế độ
mẫu hệ.
Gia đình một vợ một chồng (cá thể, phụ hệ, phụ quyền) ra đời dưới chế độ tư hữu và
tồn tại đến ngày nay.

Trong chế độ tư hữu, một vợ một chồng chỉ là hình thức và có ý nghĩa đối với người vợ
mà thôi. Trong xã hội phong kiến, “trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một
chồng”. Trong xã hội tư bản, người vợ trong gia đình tư sản được xem như một thứ công
cụ, một thứ đồ chơi trong tay giai cấp tư sản.
Trong chủ nghĩa xã hội, gia đình một vợ một chồng mới dựa trên hôn nhân tự nguyện, tự
do tiến bộ và được bảo vệ bằng pháp luật.
Ở nước ta hiện nay còn tồn tại các loại hình gia đình như: Gia đình mẫu hệ của người
Gia Rai, Ê đê, Chu Ru, Ra Glai, Chăm, Cơ Ho… với những chiếc nhà dài điển hình. Tuy
nhiên, các gia đình mẫu hệ này đang ở trong quá trình giải thể, chuyển từ nhà dài sang
nhà nhỏ cho một cặp vợ chồng và con cái; gia đình từ chế độ mẫu hệ chuyển sang phụ hệ
(dấu vết mẫu hệ đã mờ nhạt) như Khơ Mú, Xinh Mun, Vân Kiều, Ba Na… Nhưng cũng
có dân tộc, tàn dư mẫu hệ còn khá rõ nét như Tà Ôi, Ca Tu…
Gia đình phụ hệ của người Kinh, Tày, Nùng, Thái, H’Mông, Hoa, Khơ Me… ở những
gia đình này, hôn nhân còn mang nặng quan hệ phong kiến - gia trưởng. Vì vậy, cùng với
sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, chúng ta phải đẩy mạnh phong trào xây
dựng gia đình văn hoá mới, bảo đảm cho mỗi gia đình thực sự là tổ ấm của con người, là
tế bào lành mạnh của xã hội.
+ Gia đình tác động tích cực đến tiến trình phát triển xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì
gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính
vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt.”
Bất cứ chế độ xã hội nào, muốn tồn tại và phát triển đều phải cần đến hai loại sản xuất:
Sản xuất ra thức ăn, vật dụng, những công cụ cần thiết và sản xuất ra con người để duy trì
nòi giống và tái sản xuất lực lượng lao động. Gia đình với chức năng tái tạo ra con người,
tái tạo ra sức lao động đã tham gia ngay từ đầu vào cả hai quá trình sản xuất đó.
2. Gia đình là cầu nối giữa mọi thành viên trong gia đình và xã hội
Phần lớn các thông tin về xã hội tác động đến con người thông qua gia đình. Gia đình tiếp
nhận mọi hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục, y tế… của xã hội và chăm lo sự
phát triển toàn diện của mỗi người, giữ gìn sự yên ấm, hạnh phúc của gia đình, góp phần
ổn định phát triển bền vững của xã hội.

3. Gia đình là tổ ấm thân yêu đem lại hạnh phúc cho mỗi con người và là nơi bảo tồn,
phát huy những giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc
- Từ thuở lọt lòng cho đến suốt cuộc đời, mỗi thành viên được nuôi dưỡng, chăm
sóc để trở thành công dân của xã hội, lao động cống hiến và hưởng thụ, đóng góp cho
XH trước hết và chủ yếu thông qua gia đình và với gia đình.
+ Trong gia đình, cá nhân được đùm bọc và giáo dục, trẻ thơ có điều kiện an toàn
để khôn lớn, người già có nơi nương tựa, người lao động được phục hồi sức khoẻ và
thoái mái về tinh thần.
+ Trong gia đình, hàng ngày diễn ra các quan hệ thiêng liêng, sâu đậm giữa vợ -
chồng, cha mẹ - con cái, anh - chị- em, những người đồng tâm, đồng cảm, nâng đỡ nhau
suốt cả cuộc đời.
- Chỉ khi nào được yên ấm trong gia đình và hữu ái trong xã hội, cá nhân mới
thực sự yên tâm lao động và làm việc sáng tạo. Ngược lại, sự bất hạnh lớn nhất của con
người là lâm vào cảnh vô gia cư, gia đình lục đục, tan vỡ, hoặc đói nghèo, khốn quẫn.
- Gia đình còn là nơi bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp
của dân tộc.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay, đòi hỏi chúng ta phải phát huy tốt mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực ảnh hưởng đến
đời sống gia đình để xây dựng gia đình thực sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là tổ ấm
của mỗi con người.
IV. CÁC GIÁ TRỊ TẠO NÊN VĂN HÓA GIA ĐÌNH
Gia đình được xem như là một xã hội thu nhỏ, là tổ chức tế bào của xã hội, là nhân tố
thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Xã hội Việt Nam với nền văn minh lúa nước từ lâu đã
sống định cư và lấy gia đình làm đơn vị gốc. Trải bao biến thiên của lịch sử cho đến tận
ngày nay, trên con đường đổi mới và tiếp cận với văn hóa Phương Tây, gia đình Việt
Nam vẫn gắn chặt với làng, bản, khu phố và với nước. Được như thế là vì chúng ta đã có
một nền văn hóa gia đình ở Việt Nam. Chúng tôi xin được phép trình bày một số giá trị
tạo nên văn hóa gia đình.
1. Đạo làm con phải cho tròn chữ hiếu
Một trong những yếu tố quan trọng cấu thành xã hội là tổ chức gia đình, gia đình ổn định

là cơ sở bảo đảm cho xã hội hài hòa và phát triển. Trong xu thế hội nhập thế giới, giữ gìn
những nét đẹp gia đình truyền thống là việc hết sức quan trọng góp phần ổn định, phát
triển xã hội và bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc.
Gia đình truyền thống Việt Nam hình thành trong chế độ phong kiến với tư tưởng Nho
giáo chi phối, nên theo lễ nghĩa Nho giáo. Thiết chế gia đình truyền thống có nhiều nội
dung nhưng có các nội dung cơ bản là:
Thứ nhất, gia đình truyền thống Nho giáo lấy “Hiếu Đễ” làm nội dung cốt lõi. “Hiếu” là
chuẩn mực đạo đức cao nhất của con người, là đạo đức của con đối với cha mẹ, với ba
điều cơ bản: Tôn trọng cha mẹ, không làm nhục cha mẹ, nuôi dưỡng cha mẹ. “Đễ” là
nhường nhịn, hòa thuận trong mối quan hệ anh em trong gia đình. Những chuẩn mực ấy
có ý nghĩa quyết định gia đình truyền thống ổn định và phát triển bền vững cùng với sự
phát triển của dân tộc.
Thứ hai, gia đình truyền thống coi trọng việc giáo dục trong gia đình hay còn gọi là gia
giáo. Ngày xưa, trong xã hội phong kiến, ngoài thiết chế giáo dục Nho học thì giáo dục
trong gia đình là yếu tố cơ bản, nhất là những gia đình nghèo không có điều kiện đến
trường. Ở đó, con người được cha mẹ, anh em, người lớn trong xóm làng dạy bảo những
điều như: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cha nhân từ, con hiếu thảo, chồng vợ thủy chung, anh
em nhường nhịn để con người hoàn thiện nhân cách. Trong điều kiện xã hội nông
nghiệp, lạc hậu, những gia đình lao động nghèo khó không có điều kiện học ở trường thì
việc giáo dục trong gia đình truyền thống Việt Nam như vậy là cần thiết.
Thứ ba, gia đình truyền thống coi trọng quyền gia trưởng của người đàn ông trụ cột.
Trong gia đình, người đàn ông có quyền sai khiến, còn vợ con chỉ có việc chấp hành. Tư
tưởng “phu xướng, phụ tùy” (chồng nói, vợ nghe theo) đã trở thành nếp nhà, từ đó cũng
tạo nên thói quen trong con cái phải biết vâng lời cha mẹ. Người phụ nữ trong gia đình
truyền thống bị xem nhẹ như trong việc thừa kế tài sản, địa vị thấp kém
Như vậy, nếu bỏ qua những hạn chế thì gia đình truyền thống có những giá trị nhất định,
góp phần tích cực trong việc xây dựng một thiết chế xã hội nhỏ nhất - gia đình ổn định,
hài hòa tạo cơ sở cho xã hội phát triển. Thực chất, thực hiện tốt chữ “Hiếu” chính là giải
quyết tốt mối quan hệ người với người trong gia đình dựa trên cơ sở huyết thống gần.
Hiện nay, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa cũng chính là giải quyết mối quan hệ người

với người ở phạm vi lớn hơn gia đình, đó là phạm vi xã hội và dựa trên cơ sở huyết thống
xa (tính nhân loại). Gia đình truyền thống bắt buộc mỗi người thực hiện tốt “Hiếu” để
bảo đảm gia đình ổn định, mà gia đình ổn định là cơ sở để xã hội ổn định. Thực hiện chữ
“Hiếu” cũng chính là thực hiện tình yêu thương huyết thống gần và đó là cơ sở để thực
hiện tốt tình yêu thương với những người huyết thống xa. Những chuẩn mực đạo đức cơ
bản của mỗi con người, cũng như việc ứng xử giữa các thành viên trong gia đình là cơ sở
xây dựng quan hệ ứng xử trong xã hội như: Kính trên, nhường dưới, tôn trọng phép tắc
cộng đồng Chính vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu phạm trù Hiếu, Trung trong
Nho giáo để xây dựng đạo đức cách mạng.
Trong giai đoạn hiện nay, trước sự tác động của mặt trái kinh tế thị trường, đô thị hóa,
công nghiệp hóa, văn hóa phương Tây du nhập gia đình Việt Nam có những biến đổi
rất lớn, đó là:
Kết cấu gia đình truyền thống đang bị phá vỡ, cụ thể là mối quan hệ giữa cha mẹ với con
cái, chồng với vợ, anh chị với em, ông bà với cháu, bà con họ hàng thân thích ngày càng
lỏng lẻo, đó là cơ sở cho phát triển “cái tôi”, “vị kỷ”, thiếu quan tâm lẫn nhau trong mỗi
con người. Trong thời kỳ công nghệ thông tin, mỗi người có một phương tiện điện thoại,
máy tính có thể liên kết với thành viên khác ngoài gia đình, với các thú vui giải trí, đọc
truyện, xem phim đã tạo ra khoảng cách giữa các thành viên gia đình ngày càng xa.
- Chữ “Hiếu” có nguy cơ, thách thức bị mai một, cụ thể trong xã hội đã xuất hiện tình
trạng khá phổ biến chứ không còn là cá biệt như: Con cháu không tôn kính cha mẹ, ông
bà; từ chối, lẩn trốn trách nhiệm nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng ông bà, cha mẹ; không
vâng lời dạy dỗ, khuyên bảo của ông bà, cha mẹ; có những hiện tượng mắng mỏ, đánh
đập ông bà, cha mẹ, thậm chí là giết cha mẹ, ông bà; những tín ngưỡng đạo thờ tổ tiên bị
biến dạng, không còn nguyên nghĩa của đạo “uống nước nhớ nguồn”. Như trên phân tích,
nếu chữ “Hiếu” mai một thì đạo đức của mỗi người trong gia đình đã bị suy thoái, cơ sở
cho gia đình ổn định, xã hội phát triển đã bị thách thức và như vậy ảnh hưởng đến định
hướng xây dựng xã hội chủ nghĩa như Đảng ta đã chỉ ra những thách thức: Đạo đức suy
thoái, chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
- Vai trò, phẩm chất cơ bản của mỗi thành viên, đặc biệt là của người đàn ông trụ cột gia
đình ngày càng có những biểu hiện suy thoái, đó là sống buông thả, ăn chơi sa đọa, tham

nhũng, hiện tượng “ông ăn chả, bà ăn nem” khá phổ biến Từ đó, trong gia đình thiếu
tính chuẩn mực cho con cái noi theo, thiếu định hướng cho con cái sống lẽ sống cao đẹp,
vai trò giáo dục trong gia đình ngày càng giảm sút, xuất hiện tình trạng “khoán trắng”
cho nhà trường và xã hội.
Hiện nay, phong trào xây dựng gia đình văn hóa đã phát triển sâu rộng và đạt được những
thành tựu nhất định, tuy vậy nhiều địa phương vẫn còn mang nặng hình thức, chạy đua về
chỉ tiêu, chứ chưa đi vào nội dung của việc xây dựng gia đình văn hóa trong thời kỳ mới.
Trước thực trạng đó, cần bảo tồn tồn các giá trị văn hóa trong gia đình vì nó là cơ sở để
bảo tồn, phát huy văn hóa dân tộc trong xu thế hội nhập. Do vậy, trước hết mỗi gia đình
cũng như toàn xã hội cần có những giải pháp cụ thể, đó là:
Trước hết, các địa phương cần xây dựng kế hoạch về xây dựng gia đình Việt Nam trong
thời kỳ mới với tiêu chí bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống dân tộc, đặc biệt
việc thực hiện chữ “Hiếu”, tôn trọng người già, quý trọng tình cảm anh em ruột thịt,
tương thân, tương ái với bà con. Các địa phương cần tạo cơ sở kinh tế cho việc chăm sóc
người già như xây dựng các trại dưỡng lão, con cái tạo điều kiện cho cha mẹ có vốn
dưỡng già. Thực hiện điều này là cơ sở để thực hiện chủ trương của Đảng: “Sớm có chiến
lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam, góp phần giữ gìn và phát triển những giá
trị truyền thống của văn hóa, con người Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ".
Thứ hai, xây dựng gia đình cần chú ý các tiêu chí cơ bản: Thứ nhất là tổ chức gia đình
phù hợp với gia cảnh, hài hòa với xã hội. Thứ hai là xây dựng gia phong-tác phong, lối
sống phù hợp với thời kỳ công nghiệp nhưng phải bảo đảm quan hệ gia đình bền chặt.
Thứ ba là hình thành gia pháp, quốc gia có quốc pháp thì xã hội mới yên ổn, gia đình
cũng cần có gia pháp thì trật tự lễ nghĩa mới được gìn giữ như: Cha nghiêm, mẹ từ, anh
nhường, em nhịn ; nghi thức gia đình phải phù hợp với văn hóa mới.
Thứ ba, về phía các bậc cha mẹ, ông bà, cần phải nghiêm túc thực hiện tốt các chuẩn mực
đạo đức của mỗi người ở mỗi vị trí trong gia đình, cha phải cho ra cha, mẹ phải cho ra
mẹ, con phải cho ra con, chồng cho ra chồng, vợ cho ra vợ, anh cho ra anh, em cho ra
em Ông bà, cha mẹ phải trở thành những mẫu mực về đạo đức, làm tấm gương để con
cháu noi theo.
Thứ tư, cần nâng cao nhận thức về phong trào xây dựng gia đình văn hóa, đó là cần chú

trọng về nội dung của cuộc vận động, cần nhìn thẳng vào thực trạng ở các địa phương
trên cả nước chạy theo hình thức, theo chỉ tiêu. Nếu không thận trọng về tiêu chuẩn,
không đi vào nội dung thực chất thì những tấm giấy chứng nhận “gia đình văn hóa” sẽ
làm cản trở đến việc phát huy và bảo tồn những giá trị tốt đẹp của gia đình truyền thống.
Tóm lại, xây dựng gia đình trong giai đoạn hiện nay cần tiếp thu, kế thừa những giá trị tốt
đẹp của gia đình truyền thống, ở đó đã để lại cho dân tộc ta những bài học kinh nghiệm
quý báu.
2. Kính trên nhường dưới
Đạo lý “kính trên nhường dưới” đã ăn sâu vào trong tâm khảm của con người Việt Nam
ngàn đời nay. Trong gia đình, các bậc ông bà, cha mẹ, anh chị là những người đi trước,
có công nuôi nấng, dạy dỗ ta nên người, đã trải qua biết bao gian khó, xây dựng, cũng
như gầy dựng sự nghiệp cho gia đình. Chính vị thế mà thế hệ người đi sau phải luôn luôn
dành cho người đi trước một sự kính trọng xứng đáng. Vấn đề đặt ra là tại sao chúng ta
phải dành sự kính trọng đặc biệt đối với ông bà cha mẹ mình? Có thể trình độ học vấn
chúng ta cao hơn ông bà cha mẹ, đồng tiền ta làm ra có thể nuôi sống cả nhà, trong khi
đó ông bà cha mẹ đã xế bóng tuổi già, nhưng vì đâu ta xuất hiện trên cuộc đời này? Chính
là nhờ bao công ơn của ông bà cha mẹ đã săn sóc không quản ngại khó khăn. Các bậc
ông bà, cha mẹ đã trải qua một cuộc đời với biết bao thăng trầm, họ đã sống, nếm trải
cuộc đời nhiều hơn ta nên tất nhiên kinh nghiệm mà các bậc cha mẹ truyền dạy cho ta
luôn luôn là kim chỉ nam giúp cho ta tiến bước trong cuộc sống. Đó chính là lý d mà ta
phải có thái độ khiêm nhường biết tôn trọng ông bà cha mẹ. Đạo lý “kính già già để tuổi
cho” đã giúp duy trì sự ổn định của gia đình, tạo nên một nét văn hóa đặc trưng của gia
đình Việt Nam.
Không chỉ vậy, đối với những người nhỏ tuổi hơn minh, người Việt Nam có thái độ yêu
thương, nhường nhịn. Đây là một nét đáng quý trong văn hóa gia đình.Thế hệ trẻ bao giờ
cũng cần nhận được sự yêu thương, chăm sóc từ các bậc tiền bối đi trước, để họ có thể
học hỏi, tiếp thu những kinh nghiệm quý báu từ gia đình để có thể hoàn thiện bản thân,
khắc phục những thiếu sót hạn chế. Điển hình trong mối quan hệ anh chị em trong nhà.
Khi anh, chị được cha mẹ cho miếng ngon vật lạ, hay nhận được những ưu đãi gì đó, các
bậc làm anh chị thường nhường nhịn, san sẻ với những người em trong gia đình. Có

những gia đình Việt Nam do con đông, có khi các bậc làm anh chị phải từ bỏ con đường
học vấn để hy sinh giúp cho em mình có cơ hội học tập tiến thân.
Đạo lý kính trên nhường dưới là nền tảng quan trọng tạo nên văn hóa gia đình. Nó góp
phần xây dựng gia đình bền vững, cũng như tạo nên sự gắn kết keo sơn giữa các thành
viên trong gia đình, và quan trọng nhất là nó đã thúc đẩy sự ổn định của quốc gia.
3. Đạo lý uống ước nhớ nguồn
Các gia đình Việt Nam thường có bàn thờ tổ tiên, to hay nhỏ tùy hoàn cảnh từng nhà
nhưng cần đặt ở nơi cao ráo, sạch sẽ, có bày bát hương, lọ hoa để cúng bái những ngày
giỗ Tết. Những nhà có điều kiện rộng rãi thì thường bố trí bàn thờ tổ tiên ở nơi đẹp đẽ
nhất. Trên bàn thờ đặt ba bát hương, hai lọ hoa, những tấm ảnh của những người thân đã
mất, hai cái đĩa đẹp để bày đồ cúng, một chai rượu, bộ ấm chén v v bàn thờ luôn được
giữ gìn sạch sẽ. Có gia đình lúc nào trên bàn thờ cũng nghi ngút vài nén hương, không để
nguội lạnh, vì họ cho rằng điều đó sẽ đem lại sự yên lành cho con cháu.
Hàng tháng cứ ngày mồng 1, ngày rằm âm lịch, con cháu thắp hương cúng tổ tiên, ông bà
đã khuất, dù chỉ vài bông hoa tươi, bát nước, nải chuối…
Trong năm lại có nhiều ngày lễ lớn như: Tiết Thanh Minh tảo mộ tháng 3 âm lịch, Tết
Đoan Ngọ tháng 5, Rằm tháng 7 xá tội vong nhân, Tết Trung Thu, Tết Nguyên Đán v v
Đó là những dịp để các gia đình tổ chức cỗ bàn, bánh trái, mời bà con họ hàng, thân thích
đến cúng bái tổ tiên, gặp gỡ nhau, thăm hỏi, chia sẻ mừng vui, hoạn nạn.
Như vậy, đối với nhiều người Việt Nam, việc kỷ niệm ngày sinh nhật không quan trọng
(tuy rằng một số thanh niên trẻ hiện nay theo phong tục phương Tây lại coi trọng ngày
sinh nhật), mà họ coi ngày giỗ người thân qua đời là hết sức có ý nghĩa.
Thông thường sau đám tang lễ người thân đã mất, gia đình làm lễ cúng 3 ngày, rồi 49
ngày, đến giỗ đầu 1 năm thì làm rất trang trọng. Sau đó, hàng năm cứ đúng ngày người
thân đã mất thì gia đình đứng ra tổ chức ngày giỗ, mời bà con họ hàng đến cúng bái và ăn
giỗ.
Dù gia đình nghèo cũng có mâm cơm, thắp hương cúng bái, mời vài người thân đến tham
dự. Sự vắng mặt của họ hàng trong những ngày giỗ là nỗi khổ tâm của gia chủ và cũng là
sự ân hận của những người được mời mà không đến dự được (vì họ cũng coi đây là trách
nhiệm cần có mặt trong những ngày trọng đại).

Nguyên nhân sâu xa của việc Thờ phụng Tổ tiên, cúng giỗ người thân đã mất chính vì lý
do sau đây: đối với nhiều người Việt Nam, chết chưa phải là hết, thể xác tiêu tan nhưng
linh hồn là bất tử, âm dương hòa hợp. Vì vậy, tâm lý của nhiều người Việt Nam vẫn cho
rằng có sự hiện diện của tổ tiên trong cuộc sống thường ngày của gia đình. Họ tin tưởng
vào sự phù hộ của tổ tiên đối với họ. Đối với những việc trọng đại xảy ra trong gia đình,
gia chủ cúi đầu khấn vái tổ tiên, trước là để trình bày sự kiện, sau là xin tổ tiên phù hộ.
Việc Thờ phụng Tổ tiên là để thể hiện lòng tri ân đối với công ơn của tổ tiên, ông bà cha
mẹ đã khuất. Con cháu bày tỏ lòng thành kính và biết ơn đối với các thế hệ đã có công
sinh thành và nuôi dưỡng con cháu nên người như ngày nay.
Người con hiếu thảo phải biết ơn công sinh thành, nuôi dưỡng của cha mẹ. Để tỏ lòng
hiếu lễ với cha mẹ thì phải biết ơn Tổ tiên, ông bà đã khuất. Đó là nguồn gốc đã sinh ra
thế hệ con cháu ngày nay.
Ca dao Việt Nam đã ví rằng:
Cây có gốc mới nở cành sanh ngọn
Nước có nguồn mới bể rộng, sông sâu.
Các cụ xưa thường dạy: con người ta phải có tổ tiên mới có các thế hệ hiện nay. Con
cháu không nhớ đến công ơn tổ tiên, chính là quên mất nguồn gốc bao đời của mình.
Việc Thờ phụng Tổ tiên lại có ý nghĩa thiết thực, sâu sắc, giúp cha mẹ giáo dục con cháu
lòng biết ơn tổ tiên, dòng họ của mình: Học tập tấm gương, đạo đức, nhân cách trong
sáng của họ, tinh thần lao động cần cù, họ đã vượt qua bao khó khăn, gian khổ, mới nuôi
dưỡng được các thế hệ con cháu cho đến ngày nay. Đồng thời, con cháu cần cố gắng
khắc phục những thiếu sót của các thế hệ trước vì họ đã không có những điều kiện học
hành đầy đủ và tiếp xúc với các thông tin khoa học hiện đại của thế kỉ 21 này.
Phong tục Thờ phụng Tổ tiên tạo nên cơ hội tốt nhất, đồng thời lại là mục tiêu để phát
triển mối quan hệ anh em, họ hàng cùng dòng họ, cùng nguồn gốc máu mủ chung.
Chính việc thờ cúng Tổ tiên đã gắn bó không chỉ các thành viên của gia đình nhỏ (cha
mẹ, con cái) mà còn củng cố mối quan hệ họ hàng, dòng họ, cùng chung một ông Tổ. Từ
đó đã gắn bó thêm các mối quan hệ chú bác, cô dì, con cháu bên nội, bên ngoại v v…
Những ngày giỗ, ngày tết là những dịp để tập hợp đầy đủ họ hàng, thân thích gần xa. Họ
gặp mặt nhau, trước là để cúng bái tổ tiên, sau là để chuyện trò, thăm hỏi, chia sẻ vui

buồn, khó khăn, tìm cách giúp đỡ nhau.
Có nhiều dòng họ, những ngày giỗ được tổ chức long trọng. Ông tộc trưởng chủ trì, với
đầy đủ đại diện các chi họ đến cúng bái tổ tiên. Sau đó, mọi người cùng bàn bạc những
việc cần làm để thể hiện lòng thành kính và biết ơn ông Tổ chung nhiều đời của dòng họ.
Mối quan hệ họ hàng, dòng họ đến nay được duy trì, củng cố chính từ phong tục thờ cúng
Tổ tiên vẫn đang được thực hiện ở nhiều gia đình Việt Nam và được tổ chức ngày càng
nề nếp hơn.
Tháng 3 Tảo mộ, họ hàng chú, bác, cô, dì cùng nhau đi thắp hương, sửa sang mồ mả
người thân đã khuất ở nghĩa địa làng hay nghĩa trang dòng họ, nghĩa trang thành phố
v v
Hiện nay, vẫn có phong tục hàng năm cứ ngày Tết Nguyên Đán, anh em cùng dòng họ ở
thành phố, đô thị lại tập hợp nhau về quê hương, thắp hương ở nhà thờ Tổ và đi tảo mộ
v v… Con cháu họp nhau nhắc đến công ơn tổ tiên và từ đó đã nảy sinh nhu cầu tìm hiểu
về dòng dõi nhiều đời đã qua để biên soạn thành gia phả dòng họ.
Thờ cúng Tổ tiên, ông bà cha mẹ đã khuất, con cháu không chỉ cảm phục công lao sinh
thành, dưỡng dục của họ và lo báo hiếu. Điều quan trọng là cần làm rạng danh họ hơn
nữa trong thời đại ngày nay. Chúng ta từ những việc làm hữu ích cho xã hội, cách ăn ở có
nghĩa, có tình với mọi người, làm tốt công việc chuyên môn hàng ngày, đóng góp cho sự
phát triển và củng cố nền độc lập, tự do, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước Việt
Nam, góp phần làm rạng rỡ thêm dòng họ ông cha ta.
Như vậy, phong tục Thờ cúng Tổ tiên là dịp để nhắc nhở con cháu noi gương những thế
hệ đã khuất và làm tốt hơn nữa công việc họ đã làm, như câu ca dao đã ví rằng:
“Con hơn cha là nhà có phúc”
Con hơn cha không phải là có tài sản, tiền bạc giàu có hơn mà ở đạo đức, nhân cách con
người, cư xử nhân nghĩa, làm ăn chính đáng, quan tâm giúp đỡ anh em họ hàng, người
nghèo trong xã hội v v…
Ý nghĩa tích cực, lâu dài của phong tục thờ cúng Tổ tiên chính là chúng ta cần hướng về
tương lai, mà không phải chỉ là quay về quá khứ để luyến tiếc, ca ngợi công lao ông bà,
cha mẹ đã khuất. Điều quan trọng của việc cúng bái tổ tiên là chúng ta cần suy nghĩ về
cuộc sống của bản thân: có tư cách đạo đức tốt hơn, cố gắng làm tròn trách nhiệm được

giao phó.
Đây cũng là một địp để giáo dục con cái biết phát huy và làm rạng rỡ thêm công đức,
việc làm tốt đẹp của tổ tiên, ông cha các thế hệ đã qua. Đó chính là ý nghĩa tốt đẹp, tích
cực, lâu dài của phong tục Thờ cúng Tổ tiên, một nét đẹp của văn hóa Việt Nam mà
chúng ta cần giữ gìn phát huy.
4. Đạo vợ chồng
Văn hóa gia đình Việt Nam nằm trong vòng ảnh hưởng của Nho giáo. Quan hệ vợ chồng
trong quan niệm của người Việt cũng mang đậm những nét ảnh hưởng đó như một điều
tất yếu.
Mặc dù vậy, đạo vợ chồng trong gia đình truyền thống người Việt vẫn mang những nét
riêng.
Người phụ nữ Việt Nam có phần tự tin và tự nhiên hơn so với người phụ nữ trong những
đại gia, cự thất, trong những dòng họ lớn danh gia vọng tộc khá phổ biến ở Trung Quốc -
quốc gia láng giềng cũng có nền tảng Nho giáo. Ngoài việc bảo đảm thiên chức làm vợ,
làm mẹ, người phụ nữ Việt Nam sẵn sàng chia sẻ gánh nặng công việc với chồng. Chồng
cày vợ cấy, con trâu đi bừa là cảnh rất thường gặp ở mọi làng quê Việt Nam. Thậm chí
“Thuận vợ, thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”. Họ nội, họ ngoại cũng gần gũi chứ
không xa cách: Có con mà gả chồng gần/Có bát canh cần nó cũng mang cho.
Không chỉ chia sẻ cùng chồng những việc nhà, người phụ nữ Việt Nam còn sẵn sàng
cùng chồng gánh vác cả những việc làng, thậm chí tự mình đứng lên đảm đương việc
nước. Lịch sử Việt Nam đã ghi lại nhiều tấm gương phụ nữ như thế: Trưng Trắc, Triệu
Thị Trinh, Dương Vân Nga, Nguyên phi Ỷ Lan, Bùi Thị Xuân và chồng là Trần Quang
Diệu, Nổi tiếng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ là vợ chồng Út Tịch. Đó là một nét
đẹp trong đạo vợ chồng của người Việt Nam đã kéo dài từ xa xưa đến thời hiện đại.
Không chỉ nổi trội lên một vài cá nhân mà chiếm số đông hơn và ở phạm vi rộng hơn,
những người vợ, những nàng dâu hiền thảo, những tấm gương tiết phụ, khá đông đảo
nhưng vô danh, là đối tượng được xã hội ca ngợi, được dựng thành nhân vật trong những
tác phẩm văn học và những chuyện kể dân gian. Hình tượng người phụ nữ bồng con chờ
chồng, hóa đá rồi vẫn chờ, có thể gặp ở nhiều miền, từ Bắc vào Nam. Đề cao, tôn vinh
những người phụ nữ đức hạnh đến mức nhìn hình thể tự nhiên của thiên nhiên mà gắn

vào đó hình ảnh của người phụ nữ cùng những huyền thoại của họ ở mức nhiều như vậy
cũng là điều ít gặp ở các dân tộc khác.
Mặc dù Nho giáo cho phép Trai năm thê bảy thiếp/Gái chính chuyên chỉ lấy một chồng
nhưng bên cạnh việc ca ngợi những tấm gương chung thủy, tiết hạnh của người phụ nữ,
người Việt còn ca ngợi những người chồng có nghĩa, yêu vợ, người vợ mang nặng nghĩa
tào khang từ thuở còn phải chịu nghèo khổ cay đắng - dù có được gợi ý (đôi khi là ép
buộc) một cuộc hôn nhân với con gái một gia đình giàu có và nhiều quyền lực. Đề tài tiết
- nghĩa thường gặp trong các truyện nôm (Tống Trân - Cúc Hoa; Phạm Công - Cúc Hoa;
Hoa tiên,…).
Gia đình được coi là nền tảng của xã hội: Nước là gốc của thiên hạ, nhà là gốc của nước
(Thiên hạ chi bản tại quốc/Quốc chi bản tại gia) Sự ổn định bền vững của gia đình được
coi là cơ sở của sự ổn định bền vững của xã hội. Người phương Đông dồn tâm trí và sức
lực để xây dựng, phát triển gia đình (đông con nhiều cháu, giàu có, danh tiếng, ), coi
những thành quả đó là niềm tự hào và hạnh phúc của mình.
Trong ý niệm của những đôi vợ chồng Việt Nam xưa, sự hưởng thụ cá nhân không phải
là hạnh phúc. Thời gian son rỗi của đôi vợ chồng trẻ cũng không có ý nghĩa gì. Trong
quan niệm truyền thống của người Việt về quan hệ vợ chồng không hề có khái niệm Tuần
trăng mật sau khi cưới. Người phụ nữ bao giờ cũng nhận phần hy sinh, chịu đựng để chu
toàn hạnh phúc gia đình. Họ có truyền thống hy sinh hạnh phúc cá nhân - hy sinh sự
hưởng thụ, hy sinh tuổi trẻ, thậm chí hy sinh cả bản thân cho hạnh phúc gia đình, cho
chồng và cả gia đình nhà chồng, cho con, cho cháu, Nhiều phụ nữ không những phải đẻ
con, nuôi con mà còn phải nuôi cả chồng ăn học, hy vọng đến ngày chồng đỗ đạt, vinh
hiển, mặc dù điều này cũng không có gì chắc chắn lắm. Nhiều khi họ phải thốt lên:
”Khuyên ai chớ lấy học trò/Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm”. Nhưng họ vẫn cặm cụi hy
sinh, chỉ mong người chồng đánh giá đúng được điều đó, mong rằng “Gái có công chồng
chẳng phụ”,
Ở một đất nước sống dựa vào nền sản xuất nông nghiệp nhưng lắm thiên tai, lại phải trải
qua nhiều cuộc chiến tranh giữ nước, sự hy sinh của phụ nữ Việt Nam bị nhân lên bội
phần. Tần tảo, cần cù, kiên cường, chịu đựng, thủy chung, là những gì luôn được nhắc
đến khi nói về những phẩm chất tốt đẹp của những người phụ nữ, những người vợ, người

mẹ Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
1. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam
2. Huỳnh Công Bá, Cơ sở văn hóa Việt Nam
3. Gs. Lê Thi, Phong tục thờ phụng Tổ tiên, một nét đẹp của văn hóa Việt Nam, cần được
giữ gìn và phát huy ý nghĩa tích cực của truyền thống này, Đại học Hoa Sen
4. Trang www.nguvan.hnue.edu.vn
5. Trang www.hanviet.org

×