Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Tìm hiểu pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.1 KB, 61 trang )

Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
LỜI MỞ ĐẦU
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là vấn đề mang tính chất toàn cầu và là
xu thế của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới nhằm mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm, chia sẻ rủi ro, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh, tận dụng nguồn tài nguyên, nguyên liệu tại chỗ, tiết kiệm chi phí vận
chuyển hàng hoá, tránh các rào cản thuế quan và phi thuế quan, đồng thời
tăng cường khoa học kỹ thuật, nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị
trường thế giới.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, thời gian qua nhà nước Việt Nam
đã lần lượt ban hành một loạt văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động
ĐTTTRNN và đã thu lại được những thành quả nhất định. Tuy nhiên có thể
thấy từ trước đến nay, chính sách đầu tư của nhà nước ta luôn chỉ coi trọng
và không ngừng khuyến khích hoạt động ĐTTTNN vào Việt Nam. Vì vậy,
khi nói đến ĐTTTNN, chúng ta thường chỉ biết đến hoạt động của các công
ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam chứ dường như không nghĩ đến việc các
công ty Việt Nam cũng có thể ĐTRNN. Tại sao lại không, khi mà hoạt động
ĐTTTRNN đã và đang diễn ra mạnh mẽ không những chỉ ở các nước phát
triển mà cả ở các nước đang phát triển. Theo báo cáo của Liên hiệp quốc
năm 2005 thì xu hướng ĐTRNN của các nước đang phát triển đang gia tăng
nhanh chóng trong những năm gần đây. Thực ra hoạt động ĐTRNN của các
công ty ở các quốc gia như Hàn Quốc, Singapore đã diễn ra từ những thập
kỷ 70 hay 80. Khi điều kiện kinh tế của các quốc gia đó gần như điều kiện
của Việt Nam hiện nay. Bằng cách ĐTTTRNN mà các công ty như Daewoo,
Huyndai, Samsung… từ các công ty nhỏ đã trở thành các tập đoàn đa quốc
gia hùng mạnh trên thế giới. Và hiện nay các công ty ở Trung Quốc đang nổi
lên bởi các hoạt động ĐTTTRNN khá táo bạo.
Tháng 11 năm 2006, Việt Nam chính thức ký Nghị định thư gia nhập
WTO, trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức này. Như vậy, trong thời
gian tới cơ hội để tham gia vào thị trường thế giới của các doanh nghiệp Việt
Nam là rất lớn. Điều đó đồng nghĩa với việc các DN Việt Nam sẽ thúc đẩy


hoạt động ĐTTTRNN nhiều hơn. Để có thể tạo tâm lý yên tâm cho DN,
Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
cũng như có một cơ chế pháp lý đảm bảo cho DN trong hoạt động
ĐTTTRNN thì điều quan trọng nhất là Việt Nam phải có một hệ thống pháp
luật đầy đủ, thông thoáng, phù hợp với thông lệ Quốc tế.
Với mong muốn được tìm hiểu khái quát về hoạt động ngày càng có
dấu hiệu khởi sắc này của các DN Việt Nam, đồng thời đóng góp một vài ý
kiến nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về
ĐTTTRNN để hoạt động này có cơ sở pháp lý thuận lợi tiếp tục phát huy vai
trò của mình trong sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước, em
đã quyết định chọn vấn đề: “Tìm hiểu pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài ở Việt Nam” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình.
Ngoài lời mở đầu, kết luận cùng danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và
pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Chương 2. Thực trạng pháp luật đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Chương 3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.


Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC
NGOÀI VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI.
1.1 Một số vấn đề lý luận về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
1.1.1 Khái niệm về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc

vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu
tư được biểu hiện rất đa dạng. Nếu căn cứ vào tính chất quản lý của nhà đầu
tư đối với vốn đầu tư, có thể chia đầu tư thành: ĐTTT và ĐTGT. Trong đó
ĐTTT là hoạt động đầu tư mà người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều
hành quá trình sử dụng các nguồn vốn đầu tư. Đặc điểm nổi bật của các hình
thức đầu tư này là các nhà đầu tư thường kiểm soát hoạt động và chịu trách
nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp có vốn đầu tư của mình.
Trong hoạt động ĐTTT không có sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền
quản lý của nhà đầu tư đối với vốn đầu tư. Theo Luật đầu tư (2005) của Việt
Nam, ĐTTT là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia
quản lý hoạt động đầu tư (Khoản 2, điều 3). ĐTTT có thể là ĐTTT trong
nước hoặc ĐTTTNN. ĐTTT trong nước có nội dung là việc bỏ vốn của các
tổ chức, cá nhân trong nước để kinh doanh theo các hình thức do pháp luật
quy định. FDI là một loại quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài, được đặc
trưng bởi sự di chuyển nguồn lực đầu tư trên phạm vi quốc tế với mục đích
kinh doanh thu lợi nhuận.
Hiện nay, hoạt động FDI đang diễn ra ở hầu hết các nước trên thế
giới. Mặc dù xu hướng phổ biến là các nước không có sự phân biệt trong cơ
chế điều chỉnh pháp luật giữa ĐTTT trong nước và FDI, khái niệm FDI vẫn
được định nghĩa trong luật pháp của nhiều nước, như luật khuyến khích đầu
tư của Thái Lan, luật khuyến khích và bảo hộ ĐTNN của Cộng hoà dân chủ
nhân dân Lào, luật khuyến khích đầu tư áp dụng cho từng ngành của Hàn
Quốc…
Theo quỹ Tiền tệ Quốc tế, FDI là một công cuộc đầu tư ra khỏi biên
giới quốc gia, trong đó người đầu tư trực tiếp đạt được một phần hay toàn bộ
Khóa luận tốt nghiệp
3
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
quyền sở hữu lâu dài một doanh nghiệp ĐTTT trong một quốc gia khác.
Quyền sở hữu này tối thiểu phải là 10% tổng số cổ phiếu mới được công

nhận là FDI [28].
Tổ chức Thương mại thế giới đưa ra định nghĩa như sau về FDI: FDI
xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài
sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản
đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính
khác [29].
Như vậy, FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố
nước ngoài (chủ đầu tư, vốn đầu tư và địa điểm đầu tư từ các quốc gia khác
nhau). Nhân tố nước ngoài ở đây không chỉ thể hiện ở sự khác biệt về quốc
tịch hoặc về lãnh thổ cư trú thường xuyên của các bên tham gia vào quan hệ
FDI mà còn thể hiện ở việc di chuyển tư bản trong FDI vượt ra ngoài tầm
kiểm soát của một quốc gia. Việc di chuyển tư bản này là nhằm phục vụ mục
đích kinh doanh tại nước tiếp nhận đầu tư mà việc kinh doanh đó do chính
các chủ đầu tư nước ngoài thực hiện hoặc kết hợp với chủ đầu tư của nước
tiếp nhận đầu tư thực hiện.
FDI bao gồm ĐTTT từ nước ngoài và ĐTTTRNN. Ở bất cứ quốc gia
nào thì hai hoạt động này cũng phải được tiến hành một cách đồng thời. Để
phát triển kinh tế, các quốc gia không chỉ phải thu hút và sử dụng có hiệu
quả vốn ĐTTT từ nước ngoài mà còn không ngừng đẩy mạnh ĐTTTRNN,
nhằm mở rộng thị trường nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tiếp cận
gần khách hàng, tận dụng nguồn tài nguyên, nguyên liệu tại chỗ, tiết kiệm
chi phí vận chuyển hàng hoá, tránh được chế độ giấy phép xuất khẩu trong
nước và tận dụng được quota xuất khẩu của nước sở tại để mở rộng thị
trường, đồng thời tăng cường khoa học - kĩ thuật, nâng cao năng lực quản lý
và trình độ tiếp thị với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Ở Việt Nam, khái niệm FDI đã được đề cập trong nhiều văn bản pháp
luật về đầu tư. Văn bản pháp lý đầu tiên về FDI là Điều lệ về đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định số 115/CP ngày
18/04/1977. Điều lệ này không nêu định nghĩa cụ thể FDI nhưng tinh thần
cơ bản giống như khái niệm FDI được ghi nhận sau này trong Luật đầu tư

Khóa luận tốt nghiệp
4
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
nước ngoài ở Việt Nam năm 1987 cũng như Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam năm 1996 như sau: “FDI là việc nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp đưa
vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt
Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập
doanh nghiệp liên doanh, hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài”. Như
vậy, khái niệm FDI được hiểu là ĐTTT từ nước ngoài vào Việt Nam, còn
ĐTTT từ Việt Nam ra nước ngoài không thuộc phạm vi điều chỉnh của các
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nghĩa là trong một thời gian dài chúng
ta không hề có một quy định pháp luật nào điều chỉnh về ĐTTTRNN. Điều
này xuất phát từ thực tiễn đất nước còn nhiều khó khăn, vốn tích luỹ thấp,
trình độ quản lý, trình độ khoa học kĩ thuật còn hạn chế cộng thêm cả cách
nghĩ lạc hậu “đem tiền ra nước ngoài là đất nước bị hụt vốn” đã không cho
phép các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài [13]. Hiện nay, Việt Nam đã có
sự thay đổi về mọi mặt, có vốn dư thừa tương đối, có khả năng tài chính,
kinh nghiệm quản lý và mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài. Quan điểm mới
khẳng định rằng ĐTRNN là cần thiết, tạo điều kiện nối dài cánh tay của
doanh nghiệp Việt Nam ra thị trường thế giới [10]. Vì vậy, đến NĐ 22 năm
1999 thì ĐTTTRNN mới chính thức được ghi nhận, theo đó khái niệm
ĐTTTRNN được định nghĩa như sau: “ĐTRNN của doanh nghiệp Việt Nam
là việc DN Việt Nam đưa vốn bằng tiền và tài sản khác ra nước ngoài để
ĐTTTRNN theo quy định của nghị định này” (Khoản 1, điều 1).
Hiện nay, các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động ĐTRNN đã
chính thức được pháp điển hoá vào Luật đầu tư (2005). Khoản 14 Điều 3
Luật đầu tư định nghĩa: “ĐTRNN là việc nhà đầu tư đưa vốn bằng tiền và
các tài sản hợp pháp khác từ Việt Nam ra nước ngoài để tiến hành hoạt động
đầu tư”. Sau đó, NĐ 78 năm 2006 được ban hành nhằm hướng dẫn thi hành
Luật đầu tư (2005) về ĐTTTRNN, theo đó khái niệm ĐTTTRNN được định

nghĩa một cách đầy đủ như sau: “ĐTTTRNN là việc nhà đầu tư chuyển vốn
ĐTRNN để thực hiện hoạt động đầu tư và trực tiếp tham gia quản lý hoạt
động đầu tư đó ở nước ngoài” (Khoản 1, điều 3).
1.1.2 Đặc điểm của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
a. Về chủ thể của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Khóa luận tốt nghiệp
5
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
Hoạt động ĐTTTRNN chủ yếu do các nhà đầu tư là tổ chức kinh tế
hoặc cá nhân thực hiện. Đây là một đặc điểm giúp phân biệt với hoạt động
ĐTRNN của Chính phủ và các tổ chức quốc tế dưới nguồn vốn hỗ trợ phát
triển chính thức (ODA).
b. Về nguồn vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Đối với ĐTTTRNN, vốn đầu tư có thể bằng tiền, tài sản khác hoặc
bằng công nghệ. Vì vậy, thông qua hoạt động đầu tư này, nước chủ nhà có
thể tiếp nhận được công nghệ tiên tiến và học hỏi được kinh nghiệm quản lý
do nhà ĐTNN đưa vào. Còn đối với ĐTGT ra nước ngoài, vốn chỉ có thể là
tiền, không thể là hiện vật hoặc công nghệ. Nên DN nhận vốn không thể tiếp
nhận công nghệ hiện đại trực tiếp từ việc tiếp nhận vốn đầu tư gián tiếp của
các nhà ĐTNN. ĐTGT ra nước ngoài dưới hình thức ODA bao gồm các loại
nguồn như: a) hỗ trợ tài chính: cung cấp tiền ở dạng cho không hay cho vay
lãi suất thấp; b) hỗ trợ kỹ thuật: cung cấp cố vấn và những chuyên gia kỹ
thuật mà nước tiếp nhận đang thiếu; c) hỗ trợ bằng hiện vật: dưới dạng hàng
hoá như tư liệu sản xuất, lương thực, thực phẩm…[7].
c. Về mục đích đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Quan hệ FDI là quan hệ kinh doanh theo cơ chế thị trường, có mục
đích kinh doanh. Vì vậy, lợi nhuận là mục tiêu cao nhất của các chủ đầu tư.
Còn trong ĐTGT ra nước ngoài của Chính phủ và các tổ chức quốc tế dưới
hình thức ODA, kinh doanh và lợi nhuận không phải là mục tiêu trực tiếp
của chủ đầu tư bởi quan hệ này không phải là quan hệ kinh doanh một cách

thuần tuý. Mục đích ODA có thể là: a) tính đoàn kết quốc tế: như quyết định
của Liên hiệp quốc là các nước giàu phải dành 0,7% GDP cho viện trợ cho
các nước nghèo; b) lợi ích thương mại: các nước tài trợ muốn dùng viện trợ
như một biện pháp để tăng cường xuất khẩu sang các nước đang phát triển
và có thể áp dụng các ràng buộc thương mại đối với phần viện trợ của họ; c)
lợi ích chính trị: các nước tài trợ muốn khuyến khích Chính phủ các nước
tiếp nhận viện trợ thay đổi chính sách của họ về khía cạnh nào đó, ví dụ như:
thay đổi chính sách kinh tế vĩ mô, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, chống tham
nhũng, các yêu cầu liên quan đến nhân quyền…[7].
Khóa luận tốt nghiệp
6
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
d. Về tính chất của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Nếu như ở ĐTGT nước ngoài, nhà ĐTNN góp vốn bằng cách mua cổ
phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp nước sở tại mà không trực tiếp nắm
quyền quản lý doanh nghiệp thì ở ĐTTTRNN, nhà đầu tư lại đóng góp một
số vốn đủ lớn để có quyền tham gia trực tiếp vào việc quản lý đối tượng đầu
tư. Nhà đầu tư bỏ vốn tự quyết định đầu tư vào lĩnh vực gì và chịu trách
nhiệm về quyết định đó. Để ĐTTTRNN, nhà đầu tư phải điều tra nắm bắt thị
trường, tìm hiểu tình hình thế giới liên quan đến lĩnh vực đầu tư, đưa ra
quyết định đầu tư, xây dựng dự án đầu tư, thực hiện dự án và hưởng thành
quả của nó. ĐTTTRNN bảo đảm cho nhà đầu tư kiểm soát và điều hành quá
trình vận động vốn đầu tư. Do chủ thể đầu tư bỏ vốn hoàn toàn hoặc có số
vốn lớn trong phần vốn góp, do đó nhà đầu tư hoàn toàn có thể kiểm soát
hoạt động sản xuất hoặc chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Nhà đầu tư
thường có kiến thức và kinh nghiệm quản lý hoạt động đầu tư ở nước ngoài,
hiểu biết về thị trường thế giới chính về thế mà có khả năng bảo đảm hiệu
quả của doanh nghiệp hoặc dự án đầu tư.
e. Về mối quan hệ giữa nhà đầu tư với nước tiếp nhận đầu tư.
Vì là quan hệ có mục đích kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận nên quan

hệ ĐTTTRNN chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế trong nền kinh tế thị
trường, ít chịu ảnh hưởng và ràng buộc bởi các quan hệ chính trị. Còn đối
với đầu tư gián tiếp ODA thì quan hệ này lại mang đậm màu sắc chính trị, bị
ảnh hưởng bởi quan hệ giữa các quốc gia với nhau và với các tổ chức tài
chính quốc tế, ít chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế. Hơn nữa, nước
tiếp nhận ODA không chỉ bị biến thành con nợ mà còn phải bảo đảm một số
điều kiện khác manh tính chính trị như phải bảo đảm tốc độ tăng trưởng, ổn
định tỷ lệ lạm phát, cân bằng cán cân thanh toán, phải giảm chi thường
xuyên từ ngân sách nhà nước…
1.1.3 Vai trò, ý nghĩa của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
ĐTRNN nói chung và ĐTTTRNN nói riêng là một xu thế tất yếu
khách quan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng hiện
nay, chính vì vậy mà vai trò, ý nghĩa của hoạt động này là không thể phủ
nhận.
Khóa luận tốt nghiệp
7
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
a. Vai trò, ý nghĩa chung.
 Đối với nước có nhà đầu tư trực tiếp ra nước ngoài:
- Thứ nhất: ĐTTTRNN giúp cho các nước đầu tư sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực trong nước, nâng cao tỷ suất lợi nhuận đầu tư, đồng thời khai
thác có hiệu quả lợi thế của quốc gia trên trường quốc tế. Trong nền kinh tế
toàn cầu, các quốc gia sẽ phát triển nhanh với những lợi thế riêng có của
mình, góp phần vào quá trình thúc đẩy nền kinh tế thế giới. Bằng việc tận
dụng những lợi thế riêng có, các quốc gia sẽ có chiến lược đầu tư ra thị
trường nước ngoài phù hợp để thu về lợi nhuận cao nhất cho mình.
- Thứ hai: ĐTTTRNN giúp cho nước đầu tư tìm kiếm và tận dụng ở
nước ngoài một cách có hiệu quả hơn trong nước, xây dựng được thị trường
cung cấp đầu vào ổn định với giá cả phải chăng. Nguồn tài nguyên thiên
nhiên của các nước đang phát triển có nhiều nhưng không có điều kiện chế

biến vì thiếu vốn, công nghệ. Do đó, đầu tư vào các lĩnh vực này sẽ thu được
nguyên liệu thô với giá rẻ và qua chế biến sẽ thu được lợi nhuận cao nhất. Vì
vậy các quốc gia thiếu tài nguyên thiên nhiên như Hàn Quốc, Nhật Bản,
Trung Quốc coi đây là một chính sách nhằm cân bằng sự thiếu hụt các
nguồn tài nguyên trong nước [9].
- Thứ ba: ĐTTTRNN giúp cho các nhà đầu tư mở rộng thị trường tiêu
thụ sản phẩm. Đối với sự ra đời của một sản phẩm, chiếm lĩnh được thị
trường là yếu tố sống còn. Khi hầu hết các quốc gia đều gia nhập vào một thị
trường chung - Thị trường thế giới – thì vấn đề thị trường cho sản phẩm lại
càng trở nên bức thiết. Doanh nghiệp nào có chiến lược đưa được sản phẩm
của mình ra nước ngoài trước, chiếm lĩnh được thị trường trước thì doanh
nghiệp đó sẽ thành công.
- Thứ tư: ĐTTTRNN giúp cho các nước đầu tư tránh được hàng rào
thuế quan và hàng rào bảo hộ phi thuế quan của nước nhận đầu tư. Trong
giai đoạn đầu của nền kinh tế toàn cầu, vẫn còn rất nhiều hàng rào thuế quan
và phi thuế quan được dựng lên trên cơ sở nhiều lý do khác nhau.
ĐTTTRNN sẽ giúp các quốc gia đầu tư mở rộng thị trường cho hàng hoá
của mình mà không vướng phải bất cứ sự cản trở nào. Điều này cũng giúp
cho hàng hoá của các quốc gia đầu tư có sức cạnh tranh nhờ giá cả hợp lý.
Khóa luận tốt nghiệp
8
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
- Thứ năm: ĐTTTRNN sẽ giúp cho không chỉ các doanh nghiệp của
các nước đầu tư mà còn của nước tiếp nhận tự hoàn thiện mình cả về mặt cơ
cấu sản phẩm, công nghệ, kinh nghiệm quản lý. Đối với các nước đầu tư, ở
môi trường đầu tư mới, doanh nghiệp muốn đứng vững phải tìm cách thích
ứng với thị trường, đáp ứng những đòi hỏi của thị trường mới có thể tồn tại.
Ngoài ra ĐTTTRNN còn cho phép các công ty nước ngoài kéo dài
chu kỳ sống của các sản phẩm mới được tạo ra trong nước, đổi mới cơ cấu
sản xuất, áp dụng công nghệ mới, nâng cao năng lực cạnh tranh.

 Đối với nước tiếp nhận đầu tư.
- Thứ nhất: Bổ sung nguồn vốn cho nền kinh tế.
Trước hết, ĐTTTRNN đóng vai trò là một nguồn cung cấp vốn lớn,
góp phần giải quyết tình trạng thiếu vốn đầu tư - một căn bệnh kinh niên và
phổ biến của bất kỳ quốc gia chậm phát triển nào. Bởi thực tế, ở các nước
này có nhiều tiềm năng về lao động, tài nguyên thiên nhiên nhưng do trình
độ còn thấp kém, cơ sở vật chất còn nghèo, lạc hậu nên chưa có điều kiện
khai thác các tiềm năng ấy. Các nước này chỉ có thể thoát ra khỏi cái vòng
luẩn quẩn của sự đói nghèo bằng cách tăng cường đầu tư sản xuất, tạo ra
mức tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. Để thực hiện được việc này các
nước đang phát triển cần phải có nhiều vốn đầu tư.
- Thứ hai: Cung cấp công nghệ mới cho sự phát triển.
Bên cạnh vai trò cung cấp vốn, ĐTTTRNN còn mang lại cho nước tiếp
nhận đầu tư những kỹ thuật công nghệ tiên tiến, góp phần phát triển lực
lượng sản xuất, cơ cấu lại nền kinh tế… Do khi tiến hành đầu tư vào một
nước nào đó chủ đầu tư không chỉ chuyển giao vào nước đó vốn bằng tiền
mà còn chuyển cả vốn hiện vật như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu…và
vốn vô hình như chuyên gia kỹ thuật công nghệ, tri thức khoa học, bí quyết
quản lý, năng lực tiếp cận thị trường… Thông qua hoạt động ĐTTTRNN,
quá trình chuyển giao công nghệ được thực hiện nhanh chóng và thuận tiện
cho cả bên nhận đầu tư lẫn bên đầu tư.
- Thứ ba: Đào tạo nguồn nhân lực.
Khóa luận tốt nghiệp
9
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
ĐTTTRNN có vai trò như là một hình thức đào tạo giúp nước tiếp nhận
đầu tư kiến thức sử dụng công nghệ hiện đại và học tập kinh nghiệm quản lý
tiên tiến của nước ngoài trong sản xuất kinh doanh, nâng dần trình độ sản
xuất kinh doanh của đất nước, hoà nhập vào phân công lao động quốc tế.
Hơn thế nữa, ĐTTTRNN cũng góp phần đào tạo một đội ngũ công nhân có

trình độ kỹ thuật cao cho đất nước, hạn chế tình trạng thất nghiệp, nâng cao
mức thu nhập cho người lao động.
- Thứ tư: Góp phần mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu.
Trong thời đại ngày nay, nước ta cũng như các nước trên thế giới đều
có nhu cầu mở rộng thị trường cả trong nước và nước ngoài. Đa số các dự án
ĐTTTRNN đều có phản ánh bao tiêu sản phẩm. Đây là hiện tượng đa chiều
đang trở thành khá phổ biến ở các nước đang phát triển hiện nay [20].
- Thứ năm: Góp phần tăng thu ngân sách, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng.
ĐTTTRNN đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách nhà nước
thông qua việc nộp thuế, phí tiền thuê đất… của các đơn vị đầu tư nước
ngoài. Đồng thời tranh thủ vốn và công nghệ của nước ngoài, các nước đang
phát triển muốn sử dụng nó để thực hiện mục tiêu quan trọng hàng đầu là
đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Đây cũng là điểm nút để các nước đang phát
triển thoát ra khỏi vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo. Thực tiễn và kinh
nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy quốc gia nào thực hiện chiến lược mở
cửa với bên ngoài, biết tranh thủ các nhân tố bên ngoài biến nó trở thành
nhân tố bên trong thì quốc gia đó sẽ tạo được sự tăng trưởng kinh tế cao.
b. Vai trò, ý nghĩa riêng đối với Việt Nam.
Là một nước nông nghiệp lạc hậu, có xuất phát điểm thấp, các doanh
nghiệp Việt Nam gần đây mới mạnh dạn tiến hành ĐTTTRNN. Mặc dù là
một lĩnh vực đầu tư mới nhưng trong một thời gian ngắn đã thu lại được
những kết quả rất khả quan. Bên cạnh những vai trò không thể phủ nhận của
hoạt động ĐTTTRNN đối với việc phát triển kinh tế ở các quốc gia trên thế
giới, đối với Việt Nam, hoạt động này còn vô cùng ý nghĩa, đặc biệt là trong
bối cảnh hội nhập hiện nay.
Khóa luận tốt nghiệp
10
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
- Thứ nhất: ĐTTTRNN giúp các nhà đầu tư ở Việt Nam khai thác được
lợi thế so sánh của nước tiếp nhận đầu tư, qua đó tận dụng được chi phí sản

xuất thấp của nước tiếp nhận đầu tư để sản xuất ra được những sản phẩm có
giá thành hạ hơn so với sản phẩm sản xuất trong nước, giảm được chi phí vận
chuyển đối với việc sản xuất hàng thay thế nhập khẩu của nước tiếp nhận đầu
tư, nhờ đó nâng cao hiệu quả đầu tư.
- Thứ hai: ĐTTTRNN còn giúp các nhà đầu tư Việt Nam mở rộng được
thị trường tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt thị trường tiêu thụ sản phẩm nội địa của
các nước nước lớn như: Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia… có sức hấp dẫn
mạnh.
- Thứ ba: Ngoài ra ĐTTTRNN mang về cho đất nước một lượng ngoại
tệ đáng kể góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước theo
hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
- Thứ tư: Và một ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với một nước đang
phát triển như Việt Nam là hoạt động ĐTTTRNN sẽ là cánh cửa mở ra con
đường giao lưu phát triển kinh tế trên phạm vi quốc tế, là bước tiếp cận với
thị trường thế giới, đưa Việt Nam đến gần với quá trình toàn cầu hoá và hội
nhập kinh tế quốc tế. Bởi hiện nay, không thể có một nền kinh tế của quốc gia
nào lại có thể tồn tại, phát triển bằng sản xuất của riêng mình và chỉ khép kín
trong phạm vi một quốc gia. Có thể thấy rằng, thế giới ngày nay đang tiến tới
một khung pháp lý chung trong lĩnh vực kinh tế: khung pháp lý WTO. Trong
thời đại toàn cầu hoá, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế, giữa các
quốc gia là tất yếu và ngày càng sâu sắc; sự phân chia công việc là một
nguyên tắc quan trọng trong xúc tiến kinh tế và thể hiện sự phân công lao
động xã hội trên phạm vi quốc tế. Vấn đề hợp tác kinh tế và toàn cầu hoá nền
kinh tế thế giới đã trở thành xu thế tất yếu và khách quan của nhân loại trong
thế kỷ XXI [15].
1.2 Một số vấn đề lý luận về pháp luật đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài.
1.2.1 Khái niệm và nội dung cơ bản của pháp luật về đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài.
Khóa luận tốt nghiệp

11
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
Hoạt động ĐTTTRNN tại Việt Nam đã bắt đầu được thực hiện từ
năm 1989. Tuy nhiên cho đến tận năm 1999, văn bản pháp lý đầu tiên quy
định về ĐTRNN của các DN Việt Nam mới được ban hành, đó là NĐ 22
năm 1999. Đây có thể coi là một sự bất cập của hệ thống quy phạm pháp
luật khi không thể theo kịp để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
đời sống dẫn đến trong một thời gian dài, các nhà đầu tư tiên phong gặp vô
vàn khó khăn, không chỉ ở việc thiếu thông tin thị trường, thiếu vốn, thiếu
khoa học công nghệ, sự hỗ trợ của nhà nước mà còn thiếu cả cơ sở pháp lý
điều chỉnh quan hệ đầu tư trong lĩnh vực này. Theo một chuyên gia của Bộ
KH - ĐT, vấn đề đẩy mạnh ĐTRNN trước kia có hai quan điểm: có quan
điểm cho rằng chưa đặt vấn đề khuyến khích ĐTRNN vì cho rằng ĐTRNN
là chảy máu ngoại tệ. Nước ta đang cần khuyến khích đầu tư trong nước để
phát triển chưa đến lúc ĐTRNN. Tuy nhiên lại có quan điểm khác cho rằng
cần khuyến khích ĐTRNN để nối dài cánh tay của doanh nghiệp ra ngoài cả
về thị trường [17]. Hiện nay, quan điểm thứ hai đang trở nên phù hợp với
thực tiễn và nhất là khi Việt Nam gia nhập WTO. Sau một thời gian dài đổi
mới và phát triển, DN Việt Nam cũng đã có tích luỹ và có thể đầu tư ra nước
ngoài để đáp ứng nhu cầu phát triển của mình. Nhờ vậy mà các quy định về
ĐTRNN ngày càng được bổ sung, hoàn thiện và rõ ràng hơn. Minh chứng
cho điều này là việc Luật đầu tư đã pháp điển hoá hoạt động ĐTRNN vào
luật, sau đó Chính phủ ban hành NĐ 78 năm 2006 hướng dẫn về vấn đề này.
Ở mức độ khái quát có thể hiểu, pháp luật về ĐTTTRNN là tổng thể
các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức, thực hiện và quản lý
hoạt động ĐTTTRNN.
Khung pháp luật về ĐTTTRNN của Việt Nam được quy định trong
nhiều văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước trước hết là Hiến pháp, rồi
đến Luật đầu tư quy định cụ thể về hoạt động này, tiếp đó là các đạo luật

điều chỉnh về địa vị pháp lý của các nhà đầu tư như: Luật doanh nghiệp,
Luật doanh nghiệp nhà nước, Luật hợp tác xã; hay luật quy định về các hoạt
động thương mại như: Luật thương mại, Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật
chứng khoán, Luật ngân hàng, Luật các tổ chức tín dụng… và các văn bản
dưới luật khác có liên quan.
Khóa luận tốt nghiệp
12
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
Bên cạnh đó, khung pháp luật về ĐTTTRNN còn bao gồm các điều
ước quốc tế song phương hoặc đa phương về đầu tư mà Việt Nam ký kết
hoặc tham gia, như: Công ước về tổ chức bảo đảm đầu tư đa biên tháng 9
năm 1985, Việt Nam tham gia năm 1993; các hiệp định khuyến khích và bảo
hộ đầu tư, hiệp định tránh đánh thuế trùng mà Việt Nam đã ký kết song
phương với các nước; hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ; hiệp định
về khu vực đầu tư Asean (AIA)… Trong thời gian qua Chính phủ Việt Nam
đã ký kết và tham gia hơn 50 hiệp định với các nước [9]. Đây chính là nền
tảng quan trọng để trên cơ sở đó, hệ thống pháp luật về ĐTTTRNN của Việt
Nam hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu ĐTRNN của các doanh nghiệp.
Với chức năng đảm bảo an toàn pháp lý cho hoạt động ĐTTTRNN,
pháp luật về ĐTTTRNN có nội dung chủ yếu là các quy định về những vấn
đề sau:
a. Chủ thể của ĐTTTRNN: là các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động
đầu tư thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật ĐTTTRNN. Quy định về chủ
thể là một quy định quan trọng, nó quyết định sự mở rộng hay thu hẹp phạm
vi quản lý của nhà nước đối với một lĩnh vực này. Nếu quy định không đầy
đủ sẽ hạn chế khả năng sẵn có hoặc dẫn đến tình trạng bỏ ngõ trong công tác
quản lý, dẫn đến tình trạng luồn lách pháp luật, vi phạm pháp luật [10].
b. Điều kiện để ĐTTTRNN: Để được ĐTTTRNN nhà đầu tư phải đáp
ứng một số điều kiện nhằm đảm bảo tính khả thi cho hoạt động đầu tư, đảm
bảo lợi ích quốc gia cũng như để nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lý

của mình. Điều kiện để ĐTRNN thể hiện thái độ của nhà nước đối với hoạt
động này. Điều kiện chặt chẽ sẽ dễ dàng trong quản lý nhưng lại khó khăn
cho các nhà đầu tư. Trong thời đại ngày nay, xu hướng chung của các nước
là thông thoáng, tạo thuận lợi song cũng phải đảm bảo thực hiện tốt chức
năng quản lý của nhà nước.
c. Thủ tục ĐTTTRNN: là quá trình đăng ký, thẩm định cấp giấy chứng
nhận ĐTTTRNN. Để có thể tiến hành hoạt động ĐTTTRNN trước hết nhà
đầu tư phải được cơ quan có thẩm quyền trong nước cho phép thông qua
giấy chứng nhận đầu tư. Tổ chức, cá nhân muốn được cấp giấy chứng nhận
đầu tư phải chuẩn bị hồ sơ dự án đầu tư gửi tới cơ quan có thẩm quyền theo
Khóa luận tốt nghiệp
13
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
luật định. Trong thời hạn nhất định kể từ ngày nhận được hồ sơ, cơ quan có
thẩm quyền sẽ quyết định cấp giấy chứng nhận đầu tư hay không. Quy định
về thủ tục đầu tư đóng vai trò quan trọng tới sự vận động, phát triển của quá
trình ĐTTTRNN. Thủ tục thông thoáng sẽ tạo tâm lý thoải mái cho các nhà
đầu tư. Ngược lại thủ tục rườm rà sẽ gây tư tưởng ái ngại làm nản lòng các
nhà đầu tư. Vì vậy cần có một thủ tục đầu tư đơn giản tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho các nhà đầu tư.
d. Hình thức ĐTTTRNN: khá đa dạng. Pháp luật của nước tiếp nhận đầu
tư sẽ quy định cụ thể về hình thức đầu tư và nội dung hình thức đó. Và về
nguyên tắc nhà đầu tư có thể được chấp nhận lựa chọn đầu tư theo hình thức
ĐTTT như: liên doanh, độc doanh, hợp doanh, sáp nhập, mua lại…
e. Lĩnh vực ĐTTTRNN: Phụ thuộc vào pháp luật nước tiếp nhận đầu tư,
sẽ quy định lĩnh vực được phép đầu tư và những lĩnh vực bị cấm. Tuy nhiên,
pháp luật của nước đầu tư cũng có quy định về lĩnh vực khuyến khích đầu tư
và các lĩnh vực bị cấm ĐTTTRNN. Quy định này mang ý nghĩa chính trị xã
hội, đảm bảo ổn định chính trị và lợi ích quốc gia.
f. Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư ĐTTTRNN: Pháp luật về

ĐTTTRNN quy định những quyền lợi mà bất cứ chủ thể nào khi tham gia
quan hệ pháp luật này đều được hưởng. Bên cạnh đó, pháp luật cũng đặt ra
nghĩa vụ ràng buộc trách nhiệm của nhà đầu tư đối với nhà nước khi tiến
hành ĐTTTRNN. Để được hưởng quyền lợi thì trước tiên đòi hỏi nhà đầu tư
phải chấp hành và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình. Thực tiễn cho thấy,
thái độ của nhà nước đối với hoạt động này càng thông thoáng thì các quy
định về quyền của nhà đầu tư càng được mở rộng.
1.2.2 Vai trò của pháp luật đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
a. Pháp luật về ĐTTTRNN thừa nhận, định hướng và thúc đẩy các hoạt
động ĐTTTRNN, qua đó là công cụ bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp cho nhà
đầu tư.
Khóa luận tốt nghiệp
14
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
Pháp luật về ĐTTTRNN ra đời là do đòi hỏi của chính các quan hệ về
ĐTTTRNN. Hoạt động ĐTTTRNN của các DN Việt Nam bắt đầu được thực
hiện từ năm 1989. Mãi sau đó đến năm 1999, NĐ 22 năm 1999 mới ra đời
tạo cơ sở pháp lý đầu tiên cho cơ quan nhà nước thực hiện chức năng của
mình và chính sách mở cửa của nhà nước ta. Sau một thời gian thực hiện,
những quy định tại NĐ 22 năm 1999 không còn phù hợp nữa, NĐ 78 năm
2006 ra đời tạo cơ sở pháp lý mới thay thế NĐ 22 năm 1999. Như vậy, sau
khi ra đời, pháp luật về ĐTTTRNN tác động trở lại làm cho các quan hệ
ĐTTTRNN phát sinh, phát triển theo chiều hướng phù hợp với ý chí của nhà
nước. Đối với các nhà đầu tư, hơn ai hết, họ mong mỏi sự ra đời và ngày
càng hoàn thiện của các quy phạm pháp luật về ĐTTTRNN. Có pháp luật
điều chỉnh, nhà đầu tư mới có cơ hội tiến hành hoạt động ĐTTTRNN. Có
pháp luật quy định, sự quản lý của nhà nước sẽ hạn chế được tình trạng tuỳ
tiện, vô Chính phủ; tình hình gian lận kinh tế; các tổ chức cá nhân có thể
giám sát lẫn nhau và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước; tạo lòng
tin, khuyến khích các chủ thể thực hiện dự định của mình phát huy mọi tiềm

năng làm giàu cho bản thân, góp phần tạo uy tín cho Việt Nam trên trường
Quốc tế.
Như vậy, nhờ sự thừa nhận chính thức của pháp luật mà các quan hệ
ĐTTTRNN phát sinh và cũng chính các quy định về hình thức đầu tư, lĩnh
vực đầu tư, chủ thể đầu tư, biện pháp bảo đảm, biện pháp khuyến khích, biện
pháp hạn chế… mà pháp luật ĐTTTRNN định hướng được sự phát triển của
các quan hệ ĐTTTRNN.
b. Pháp luật ĐTTTRNN là công cụ quản lý của nhà nước về ĐTTTRNN.
Từ phương diện quản lý nhà nước, pháp luật về ĐTTTRNN được xem
như một công cụ hữu hiệu nhất của nhà nước trong việc quản lý các hoạt
động ĐTRNN nhằm khai thác vai trò tích cực và hạn chế những tiêu cực của
quá trình luân chuyển vốn ra khỏi biên giới quốc gia. Bởi quan hệ về
ĐTTTRNN là quan hệ mang bản chất kinh tế thị trường nên không thể tránh
khỏi những khuyết tật cố hữu của bất cứ hoạt động thị trường nào như: tính
tự phát, chạy theo lợi nhuận tối đa, không chú ý tới lợi ích, không chú ý giữ
gìn bí mật an ninh quốc phòng, lịch sử, thuần phong mỹ tục… Vì vậy, pháp
Khóa luận tốt nghiệp
15
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
luật về ĐTTTRNN đóng vai trò thực sự là một công cụ quản lý hữu hiệu và
khoa học của nhà nước nhằm định hướng, giới hạn “hành lang” cho các hoạt
động ĐTTTRNN để phát huy mặt tích cực của hoạt động này; không những
vậy trên thực tế, pháp luật vừa là công cụ quyền lực, vừa có khả năng chống
lại sự lạm quyền, nhũng nhiễu, gây khó khăn cho các nhà đầu tư của cán bộ
công chức biến chất trong bộ máy chính quyền.
c. Pháp luật ĐTTTRNN góp phần thúc đẩy sự hoàn thiện của hệ thống
pháp luật về đầu tư.
Nếu ĐTTTRNN là hoạt động kinh tế có vai trò thúc đẩy sự phát triển
ngoại lực của nền kinh tế đất nước thì pháp luật về ĐTTTRNN là một bộ
phận của pháp luật về đầu tư cũng có vai trò tác động làm phát sinh nhu cầu

hoàn thiện hệ thống pháp luật đầu tư. Từ sau NĐ 22 năm 1999, hoạt động
ĐTTTRNN đã chính thức được thừa nhận, kéo theo hàng loạt các văn bản
quy phạm pháp luật khác ra đời nhằm sửa đổi và hoàn thiện các quy định
nhằm điều chỉnh hoạt động này.
Các quy định của pháp luật ĐTTTRNN đang ngày càng trở nên hợp
lý, bảo đảm tính rõ ràng và thống nhất, góp phần hoàn thiện môi trường
pháp lý về ĐTNN nói chung và ĐTTTRNN nói riêng phù hợp với thông lệ
quốc tế về đầu tư và thúc đẩy quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay của Việt Nam.
1.2.3 Pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của một số nước
trên thế giới.
Trước đây, khi kinh tế thế giới còn phát triển một cách chậm chạp, các
nước tư bản lớn hầu như thâu tóm hết các hoạt động kinh tế quan trọng.
Dường như, lĩnh vực ĐTTTRNN chỉ giành riêng cho doanh nghiệp của các
nước phát triển như: các nước EU, Mỹ, Nhật Bản… Do có lợi thế về nguồn
vốn và năng lực cạnh tranh… [23].
Những năm gần đây, vốn ĐTTTRNN của các doanh nghiệp đến từ các
nước đang phát triển cũng đã tăng lên một cách nhanh chóng và đáng kể.
Quá trình ĐTTTRNN diễn ra tại hầu hết các nước trên thế giới. Như vậy,
cùng với quá trình toàn cầu hoá kinh tế, doanh nghiệp của các nước đang
Khóa luận tốt nghiệp
16
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
phát triển đã biết tận dụng cơ hội để mở rộng quy mô, tiến sâu hơn vào thị
trường thế giới, ĐTTTRNN.
a. Trung Quốc - quốc gia láng giềng với Việt Nam - trong thời gian qua
đã có bước phát triển thần kỳ về nền kinh tế quốc dân nói chung và trong
việc ĐTTTRNN nói riêng. Theo một nghiên cứu mới đây, Trung Quốc đang
là nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới, với tốc độ bình quân 7,9%/
năm từ thập niên 1970. Và có thể sẽ vượt Đức để trở thành nước xuất khẩu

hàng hoá lớn nhất thế giới trong năm 2008 này [16]. Riêng trong lĩnh vực
ĐTTTRNN, ngay từ rất sớm, Chính phủ Trung Quốc đã có cái nhìn đầy
nghiêm túc đối với hoạt động này, khi chính thức phê chuẩn “Công ước bảo
đảm cơ cấu đầu tư nhiều bên” từ năm 1988. Tiếp đó ngày 1/7/1992 Trung
Quốc phê chuẩn “Công ước giải quyết tranh chấp đầu tư giữa các quốc gia”
(Công ước Oashingtơn). Đây chính là cơ sở ban đầu cho Trung Quốc trong
quá trình xây dựng, tiến tới hoàn thiện hệ thống pháp luật về ĐTTTRNN của
các doanh nghiệp [11].
Quốc vụ viện - cơ quan quyền lực cao nhất của Trung Quốc đã ban
hành quyết định về việc cải cách thể chế đầu tư, trong đó quy định một cách
chung nhất thẩm quyền thẩm tra, phê chuẩn đối với các hạng mục ĐTRNN
của các cơ quan: Quốc vụ viện, Uỷ Ban cải cách và phát triển, Bộ thương
mại và chính quyền địa phương. Việc phân cấp quản lý tạo điều kiện cho
việc quản lý nhà nước đối với hoạt động ĐTTTRNN của doanh nghiệp.
Uỷ Ban cải cách và phát triển là cơ quan trực thuộc Quốc vụ viện, với
chức năng quản lý hoạt động ĐTRNN đã ban hành một số văn bản điều
chỉnh hoạt động ĐTTTRNN như: “Biện pháp quản lý tạm thời về việc thẩm
tra phê chuẩn các công trình ĐTNN”; “Thông tư của ngân hàng xuất nhập
khẩu Trung Quốc, Uỷ Ban cải cách và phát triển nhà nước về chính sách
khuyến khích các khoản vay ưu đãi đối với các công trình ĐTRNN trọng
điểm”.
Ngoài ra, Cục quản lý ngoại hối cũng đã ban hành một số văn bản
pháp quy như: “biện pháp quản lý ngoại hối trong ĐTRNN”; “các nguyên
tắc thực thi biện pháp quản lý ngoại hối trong ĐTRNN”…
Khóa luận tốt nghiệp
17
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
Với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp đối với hoạt động
của các doanh nghiệp trong lĩnh vực ngoại thương nói chung và ĐTTTNN
nói riêng, Bộ thương mại Trung Quốc trong thời gian qua đã ban hành và

sửa đổi hàng loạt văn bản trong quản lý nhà nước đối với hoạt động
ĐTTTRNN, vừa đáp ứng được nhu cầu mở rộng đầu tư của doanh nghiệp,
vừa đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế sau khi Trung Quốc gia nhập tổ
chức Thương mại thế giới năm 2001. Các văn bản như: “Biện pháp đánh giá
tổng hợp thành tích ĐTTTRNN” năm 2002; “Thông tư về vấn đề hoàn lại
tiền bảo đảm cho hoạt động chuyển lợi nhuận về nước trong hoạt động
ĐTTTRNN” năm 2003; “Thông tư về việc thành lập trung tâm thông tin cho
doanh nghiệp ĐTTTRNN” được thực thi từ ngày 28/11/2003; “Chế độ báo
cáo trở ngại kinh doanh đối với hoạt động đầu tư các nước” ngày
11/11/2004; “Chế độ báo cáo tình hình trước khi ĐTRNN bằng hình thức
mua lại doanh nghiệp” ngày 31/3/2005; “Quy định đối với việc thẩm tra, phê
chuẩn, thành lập doanh nghiệp ĐTRNN” ban hành ngày 11/6/2006… [9].
Có thể nói hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động
ĐTTTRNN của Trung Quốc là hết sức dồi dào và tương đối đầy đủ, đáp ứng
gần như cơ bản không chỉ yêu cầu quản lý nhà nước của các cơ quan chức
năng đối với hoạt động này mà còn cả với nhu cầu, nguyện vọng chính đáng
của các doanh nghiệp khi tiến hành ĐTTTRNN.
Mặc dù chưa có “Luật khuyến khích ĐTTTRNN”, song trên thực tế
Trung Quốc đã áp dụng rất nhiều chính sách khuyến khích bằng các văn bản
pháp quy có liên quan. Chính vì vậy mà tốc độ phát triển trong lĩnh vực này
của Trung Quốc không ngừng tăng cao. Tính đến năm 2005, tổng số vốn
ĐTTTRNN đạt tới con số xấp xỉ 44 tỷ 777 triệu USD, vùng lãnh thổ đầu tư
mở rộng ra hơn 100 quốc gia và khu vực [30].
b. Singapore: Pháp luật về ĐTTTRNN chủ yếu là công cụ nhằm
khuyến khích các doanh nghiệp trong nước tiến hành ĐTTTRNN. Nước này
áp dụng chính sách miễn thuế đối với tất cả các doanh nghiệp ĐTRNN có lợi
nhuận, kể cả đối với các nước chưa có hiệp định bảo hộ đầu tư với Singapore.
Cùng với đó, thông qua các khoản cho vay, Chính phủ còn cung cấp một phần
tài chính ĐTRNN cho các doanh nghiệp. Ngoài ra, Chính phủ còn giúp các
Khóa luận tốt nghiệp

18
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
công ty vay vốn của nhà nước, thực hiện huy động vốn bằng cách phát hành
cổ phiếu ra công chúng. Không những vậy tất cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ
đều được tài trợ một phần vốn thông qua Quỹ hỗ trợ ĐTRNN. Với các chính
sách trên cho thấy cơ chế ĐTTTRNN trong quy định của pháp luật Singapore
là hết sức thông thoáng, nhà nước tạo mọi điều kiện, đặc biệt về tài chính,
khuyến khích doanh nghiệp dưới mọi hình thức với đủ loại hình tiến hành
ĐTTTRNN. Chính vì vậy mà số lượng doanh nghiệp ĐTRNN không ngừng
tăng lên một cách nhanh chóng và thu đươc lợi nhuận kinh doanh đáng kể cho
đất nước [9].
1.2.4 Khái lược sự hình thành và phát triển của pháp luật về
ĐTTTRNN ở Việt Nam.
Theo thống kê của cục đầu tư nước ngoài, Bộ KH - ĐT, dự án đầu tiên
của các DN Việt Nam ĐTRNN là vào năm 1989 với số vốn 563.380 triệu đô
la Mỹ nhưng đáng tiếc dự án này đã không được thực hiện. Lý do chủ yếu dễ
hiểu là không có căn cứ pháp lý. Từ thời điểm năm 1989 - 1998, mỗi năm có
vài ba dự án, năm nhiều nhất có 5 dự án (1993) ĐTRNN nhưng vốn thực hiện
còn thấp, có năm không giải ngân được đồng nào. Kể từ năm 1999, sau khi
Chính phủ ban hành NĐ 22 năm 1999 về một số biện pháp khuyến khích
ĐTRNN, thì ĐTRNN của các doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu có sự tăng
trưởng ổn định. Năm 1999 có 10 dự án, năm 2000 tăng lên 15 dự án và tăng
trưởng đều đặn về số lượng dự án kể từ đó đến nay [16].
Như vậy trong một thời gian dài hoạt động ĐTRNN được các chủ thể
tiến hành một cách nhỏ lẻ, manh mún, rời rạc và hết sức bấp bênh. Khi mà cơ
sở pháp lý của nó chưa được quy định trong luật, doanh nghiệp mạnh dạn tiến
hành đầu tư tuy nhiên rất mất phương hương do không hề có một sự hỗ trợ
nào từ phía nhà nước. Vì vậy mà NĐ 22 năm 1999 ra đời mặc dù hơi chậm trễ
nhưng rất đáng khích lệ. Tình trạng này bắt nguồn từ xuất phát điểm của Việt
Nam thấp, rất cần vốn đầu tư. Vốn trong nước chưa đủ nên rất dễ hiểu, chúng

ta không có nhu cầu và không khuyến khích đem vốn đi chỗ khác. Có nghĩa
là, sau hơn 10 năm thực thi Luật ĐTNN tại Việt Nam, pháp luật về
ĐTTTRNN tại Việt Nam mới bắt đầu hình thành, mở đường cho các hoạt
động ĐTTTRNN sau này.
Khóa luận tốt nghiệp
19
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
Ngày 30/8/2001 Bộ KH - ĐT đã ban hành thông tư số 05/2001/TT-
BKH hướng dẫn hoạt động ĐTRNN của DN Việt Nam. Ngày 02/08/2001,
Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 116/2001/QĐ - TTg 02/08/2001
về một số ưu đãi, khuyến khích ĐTRNN trong lĩnh vực hoạt động dầu khí.
Ngày 19/01/2001 NHNN Việt Nam ban hành thông tư số 01/2001/TT -
NHNN của NHNN Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với
ĐTTTRNN của DN Việt Nam. Như vậy NĐ 22 năm 1999 cùng với một số
văn bản hướng dẫn thi hành của các Bộ, ngành liên quan chính là khuôn khổ
pháp lý cho hoạt động đầu tư của các DN Việt Nam ra nước ngoài cho đến
trước thời điểm luật đầu tư có hiệu lực .
Cùng với quá trình hoàn thiện các văn bản mang tính pháp quy, số
lượng các doanh nghiệp cũng như quy mô dự án đầu tư của các doanh nghiệp
cũng tăng lên rất nhanh. Cụ thể, trong năm 2002, Việt Nam đã có 15 dự án
ĐTTTRNN với tổng số vốn đăng kí khoảng 150,9 triệu USD. Trong đó, đáng
chú ý là dự án khai thác dầu khí ở Iraq và Angieri với tổng vốn đầu tư trên
120 triệu USD. Cuối tháng 10/2002, công ty gạch Thạch Bàn - Hà Nội cũng
được cấp giấy phép ĐTTTRNN với vốn đầu tư là 15 triệu USD tại Nga. Năm
2002, số vốn ĐTTTRNN của các doanh nghiệp Việt Nam tăng 4 lần tổng số
vốn các năm trước cộng lại, quy mô đầu tư lớn kỷ lục đạt trung bình 12,6
triệu USD/ dự án. Năm 2003, Việt Nam có thêm 25 dự án ĐTRNN với tổng
vốn đăng ký là 27.309.485 USD. Năm 2004 chỉ có 17 dự án được cấp phép
ĐTRNN với tổng số vốn là 11 triệu USD. Tính đến hết năm 2006, cả nước có
184 dự án FDI vào 33 nước và vùng lãnh thổ với tổng số vốn đạt 968 triệu

USD [17]. Trong 16 năm qua, Việt Nam đã có sự gia tăng cả về số lượng dự
án và số vốn đăng ký, đặc biệt là sau khi NĐ 22 năm 1999 được ban hành. Vì
thế có thể nói NĐ 22 năm 1999 và các văn bản hướng dẫn đã đánh dấu mốc
quan trọng trong việc hình thành cơ sở pháp lý cho hoạt động ĐTTTRNN của
DN Việt Nam, thổi một luồng sinh khí mới vào hoạt động đó, tạo điều kiện
cho việc ra đời nhiều dự án ĐTTTRNN của DN Việt Nam hoạt động đạt hiệu
quả nhất định. Đồng thời là minh chứng cho sự trưởng thành về nhiều mặt của
DN Việt Nam từng bước hội nhập đời sống kinh tế khu vực và thế giới. Tuy
nhiên, sau 6 năm thực hiện, các nội dung pháp lý được ghi nhận tại các văn
bản pháp luật đó đã bộc lộ nhiều bất cập, có những điểm không phù hợp với
Khóa luận tốt nghiệp
20
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
tình hình mở cửa và hội nhập vào đời sống kinh tế quốc tế của đất nước như
[14]:
♦ Nhiều quy định trong NĐ 22 năm 1999 còn thiếu cụ thể, đồng bộ
và nhất quán; nhiều điều khoản đến nay không còn phù hợp; không bao quát
hết được sự đa dạng của các hình thức ĐTRNN. Nhiều quy định có tính chất
ràng buộc một cách ngặt nghèo, như: tư nhân ĐTRNN từ 1 triệu USD trở lên
phải có ý kiến của Thủ tướng chính phủ.
♦ Thủ tục hành chính tuy đã có những tiến bộ nhưng nhìn chung
vẫn còn quá phức tạp, rườm rà; thủ tục điều chỉnh giấy phép đầu tư chưa rõ
ràng; không ít quy định can thiệp quá sâu vào quá trình hoạt động kinh
doanh của DN. Một số dự án có thời gian cấp phép kéo dài là do quy trình
cũ phải qua thẩm định, lấy ý kiến nhiều cơ quan theo cơ chế chịu trách
nhiệm tập thể. Nhiều quy định về mặt pháp lý còn quá chặt, đặc biệt quy
định của NĐ 22 năm 1999 về việc chuyển tiền ra nước ngoài còn nhiều khó
khăn.
♦ Các văn bản pháp luật có liên quan đến ĐTRNN còn nhiều hạn
chế, chưa lường hết được những vấn đề phát sinh trong quá trình hình thành,

thẩm định, cấp phép và triển khai dự án đầu tư…
♦ Các thông tin về tình hình của các dự án ĐTRNN hầu như không
được cập nhật do chế độ báo cáo chưa được các doanh nghiệp thực hiện
nghiêm túc, thiếu nhiều văn bản hướng dẫn cần thiết và cơ chế kiểm soát về
hoạt động ĐTRNN còn sơ sài bên cạnh đó lại không có các chế tài cụ thể.
♦ Chưa có một cơ chế phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ giữa cơ
quan chức năng của Chính phủ như Bộ KH - ĐT, NHNN Việt Nam, Bộ tài
chính với doanh nghiệp ĐTRNN trong việc quản lý các dự án ĐTRNN, đặc
biệt là trong khâu triển khai thực hiện dự án.
♦ Chưa có các quy định nhằm hỗ trợ và khuyến khích tạo điều kiện
cho DN mạnh dạn tiến hành hoạt động ĐTTTRNN.
Xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp tại Việt Nam ĐTRNN, góp phần mở rộng và nâng cao hiệu
quả của hợp tác kinh tế, kỹ thuật, thương mại với nước ngoài, tạo lập một
Khóa luận tốt nghiệp
21
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
môi trường pháp lý ổn định, thì việc hoàn thiện chính sách ĐTRNN của các
DN Việt Nam là một đòi hỏi tất yếu. Hoàn thiện chính sách với mục tiêu
khắc phục sự thiếu thống nhất, tạo lập tính cụ thể, rõ ràng giữa các văn bản
pháp qui liên quan đến ĐTRNN. Luật Đầu tư 2005 ban hành và có hiệu lực
từ 01/01/2006 đã dành hẳn 1 chương (chương VIII) quy định về ĐTRNN,
khuôn khổ pháp lý của hoạt động ĐTRNN được hoàn thiện hơn. NĐ số
78/2006/NĐ - CP ngày 09/08/2006 quy định về ĐTTTRNN ra đời thay thế
NĐ 22 năm 1999 đã tạo ra một hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động
ĐTTTRNN. Những quy định tại Luật đầu tư 2005 và nghị định này đã đánh
dấu mốc trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về đầu tư nói chung và
ĐTRNN nói riêng của pháp luật Việt Nam trong bối cảnh kinh tế thị trường
và hội nhập quốc tế. Chính từ hệ quả tích cực này mà trong năm 2007, đã có
64 dự án do các DN Việt Nam thực hiện ĐTTTRNN được cấp phép, với

tổng vốn đăng ký 391,2 triệu USD, tại 18 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế
giới [19].
Chương 2:
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
Khóa luận tốt nghiệp
22
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
RA NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM.
2.1 Về chủ thể đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Theo NĐ 22 năm 1999 và Thông tư số 05/ 2001/TT - BKH ngày
30/08/2001 của Bộ KH - ĐT về hướng dẫn hoạt động ĐTRNN của DN Việt
Nam thì chủ thể của hoạt động ĐTRNN chỉ là các DN Việt Nam, cụ thể bao
gồm:
- Một là, doanh nghiệp được thành lập theo Luật Doanh nghiệp nhà
nước ;
- Hai là, hợp tác xã được thành lập theo Luật Hợp tác xã;
- Ba là, doanh nghiệp được thành lập theo Luật Công ty;
- Bốn là, doanh nghiệp được thành lập theo Luật Doanh nghiệp tư nhân;
(Các doanh nghiệp nêu tại khoản này sau đây gọi tắt là doanh nghiệp
Việt Nam)
Tại thời điểm NĐ 22 năm 1999 được ban hành, chính sách của Việt
Nam là thu hút vốn ĐTNN với hàng loạt chính sách ưu đãi bên cạnh quan
điểm phi kinh tế: đem tiền ra nước ngoài là đất nước bị hụt vốn, làm giảm
đầu tư trong nước. Vì vậy, quy định của pháp luật về đầu tư đã theo hướng
thắt chặt quy chế ĐTRNN.
Việc chỉ cho phép các nhà đầu tư là DN Việt Nam (không bao gồm
doanh nghiệp có vốn ĐTNN và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh
doanh) được tham gia vào hoạt động kinh doanh mới mẻ này không những
hạn chế một số lượng lớn các nhà đầu tư muốn được ĐTRNN mà còn tạo ra
sự phân biệt, đối xử không bình đẳng giữa các nhà đầu tư, các loại hình

doanh nghiệp đang cùng tồn tại.
Có thể quy định này được lý giải bởi: các chủ thể không phải là DN
thì không thể có đủ khả năng về quản lý cũng như tài chính để có thể tham
gia vào sân chơi chung rất khắt khe và tiềm ẩn nhiều rủi ro này. Như cá
nhân, hộ gia đình thông thường chỉ sản xuất với quy mô nhỏ, cách thức tổ
chức thủ công không hề phù hợp với tính phức tạp của ĐTTTRNN [7].
Nhưng hiện nay, kinh tế phát triển, các chủ thể không ngừng phấn đấu nâng
Khóa luận tốt nghiệp
23
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
cao chất lượng hoạt động kinh doanh của mình và mở rộng quy mô sản xuất,
nhu cầu được tiến xa hơn, không chỉ giới hạn trong thị trường trong nước,
các chủ thể có đủ khả năng và điều kiện để tiến hành ĐTTTRNN. Giải quyết
bất cập này, NĐ78/2006 ra đời trên cơ sở kế thừa và phát huy có chọn lọc
những mặt tích cực, cũng như khắc phục những hạn chế của hệ thống pháp
luật hiện hành về ĐTTTRNN nhằm mở rộng và phát triển quyền tự chủ, tự
do kinh doanh, ghi nhận quyền ĐTRNN cho tất cả các loại hình DN, không
phân biệt sở hữu, đã đăng ký theo Luật Doanh nghiệp mới hay chưa, kể cả
các cơ sở dịch vụ y tế, giáo dục, khoa học và các hộ kinh doanh, cá nhân
Việt Nam, phạm vi chủ thể ĐTTTRNN đã được mở rộng một cách đáng kể
như sau:
- Một là, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp
danh, doanh nghiệp tư nhân được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
theo Luật Doanh nghiệp;
- Hai là, doanh nghiệp được thành lập theo Luật Doanh nghiệp nhà
nước chưa chuyển đổi sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp;
- Ba là, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo
Luật Đầu tư nước ngoài chưa đăng ký lại theo Luật Doanh nghiệp và Luật
Đầu tư;
- Bốn là, doanh nghiệp thuộc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội

chưa đăng ký lại theo Luật Doanh nghiệp;
- Năm là, hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã được thành lập theo Luật
Hợp tác xã;
- Sáu là, cơ sở dịch vụ y tế, giáo dục, khoa học, văn hoá, thể thao và các
cơ sở dịch vụ khác có hoạt động đầu tư sinh lợi;
- Bảy là, hộ kinh doanh, cá nhân Việt Nam;
Quy định mới này đã củng cố niềm tin cho các nhà đầu tư, khơi dậy
mọi tiềm năng kinh tế tạo điều kiện cho tất cả các chủ thể kinh doanh, tạo ra
sự bình đẳng giữa các nhà đầu tư qua đó nâng cao hiệu quả đầu tư.
2.2 Về điều kiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Khóa luận tốt nghiệp
24
Nguyễn Thị Thúy Hoàn – KT29G
Điều kiện ĐTTTRNN chính là thước đo cho chính sách khuyến khích
ĐTTTRNN, cũng đồng thời phản ánh thái độ của nhà nước đối với hoạt
động này. Tại NĐ 22 năm 1999 thái độ của nhà nước thể hiện rõ thông qua
các điều kiện đối với nhà đầu tư để được ĐTRNN như sau:
- Một là, dự án ĐTRNN có tính khả thi;
- Hai là, có năng lực tài chính, đáp ứng yêu cầu ĐTRNN;
- Ba là, thực hiện đầu đủ các nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước.
Thực tiễn đã chứng minh các quy định trên chưa tạo điều kiện cho nhà
ĐTRNN, vì pháp luật không hề giải thích rõ các tiêu chí của một dự án
ĐTTTRNN được coi là có tính khả thi. Nên việc xem xét điều kiện này là
hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các cơ quan có thẩm quyền, rất
dễ dẫn đến tiêu cực. Như vậy với quy định này nhà nước đã can thiệp quá
sâu vào hoạt động đầu tư của nhà đầu tư, tạo cơ hội cho một bộ phận cán bộ
“biến chất” có điều kiện gây phiền phức cho nhà đầu tư. Nhà nước cần cho
nhà đầu tư tự quyết định, tăng tính tự chịu trách nhiệm của nhà đầu tư. Do
đó việc đặt ra điều kiện về “tính khả thi” là hoàn toàn không cần thiết.
DN Việt Nam được tiến hành ĐTTTRNN không chỉ đáp ứng điều

kiện về tính khả thi của dự án, pháp luật còn yêu cầu DN đó có năng lực tài
chính đáp ứng yêu cầu ĐTRNN. Trong khi không hề có văn bản hướng dẫn
cụ thể nào về tiêu chí “năng lực tài chính” của doanh nghiệp thế nào được
coi là đáp ứng được yêu cầu ĐTRNN. Vì vậy, rõ ràng quy định này chưa tạo
được tính thông thoáng cần thiết đối với hoạt động ĐTRNN của nhà nước ta
thời điểm lúc bấy giờ. Sự cân nhắc có phần quá khắt khe và chặt chẽ trước
khi quyết định đồng ý cho một DN Việt Nam tiến hành ĐTTTRNN đã tạo ra
rào cản lớn đối với chính hoạt động này. Một doanh nghiệp mạnh dạn tiến
hành ĐTRNN nhằm mở rộng thị trường tất yếu sẽ phải đối diện với rất nhiều
khó khăn, thử thách ở một môi trường cạnh tranh lớn hơn, tiềm ẩn nhiều rủi
ro hơn thì sự hỗ trợ, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi từ phía nhà
nước là hết sức cần thiết, nhưng những quy định này của pháp luật lại đặt ra
quá nhiều cản trở, gây không ít khó khăn cho họ. Vì các quy định về “tính
khả thi” và “năng lực tài chính đáp ứng yêu cầu ĐTRNN” này đã dẫn tới hệ
quả thời gian cấp phép bị kéo dài do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Khóa luận tốt nghiệp
25

×