Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Pháp luật về đương sự trong vụ án dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.93 KB, 14 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Đương sự là một khái niệm pháp lý đặc thù của lĩnh vực tố tụng tài Tòa án, thể
hiện mối quan hệ đặc biệt quan trọng đối với vụ án, bao gồm cả vụ án dân sự, hành
chính, hình sự, lao động, kinh tế… Không có một vụ án nào được xử tại Tòa án mà
không có sự xác định về đương sự. Chính vì lẽ đó, đương sự là một bộ phận không thể
thiếu khi xét xử tại Tòa án.
Trong vụ án dân sự cũng vậy, đương sự được coi là chủ thể quan trọng, nếu thiếu
chủ thể này thì vụ án dân sự không thể phát sinh. Việc ra đời Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2004 là một thành quả quan trọng, đã đánh dấu sự ra đời của hệ thống các chế
định quy định về thủ tục tố tụng dân sự tại Tòa án, trong đó có các quy phạm quy định
rõ ràng về các vấn đề pháp lý của đương sự. Điều này nói lên ý nghĩa quan trọng của
việc xác định thành phần, tư cách đương sự trong vụ án dân sự, góp phần vào việc bảo
vệ quyền và nghĩa vụ dân sự chính đáng của họ và đây cũng là cơ sở quan trọng cho
quá trình giải quyết vụ án dân sự một cách chính xác, khách quan.
NỘI DUNG
I. Pháp luật về đương sự trong vụ án dân sự
1. Khái niệm đương sự trong vụ án dân sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (BLTTDS)
quy định: “Đương sự trong vụ án dân sự là các cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm
nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”.
Từ quy định này, có thể thấy các chủ thể có thể trở thành đương sự trong các vụ
án dân sự khá phong phú, đa dạng. Đương sự trong vụ án dân sự bao gồm: nguyên
đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
1.1. Nguyên đơn
Nguyên đơn trong vụ án dân sự là những đương sự quan trọng của vụ án dân sự.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 56 BLTTDS thì “nguyên đơn trong vụ án dân sự là
người khởi kiện, người được cá nhân, cơ quan tổ chức khác, do bộ luật này quy định
khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp
pháp của người đó bị xâm hại.
Cơ quan tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa
án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước thuộc linh vực mình phụ trách cũng


là đương sự”.
1.2. Bị đơn
Bị đơn là chủ thể không thể thiếu trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án dân sự.
Bị đơn là chủ thể luôn đi kèm với nguyên đơn. Khi xác định được tư cách nguyên đơn
thì cũng xác định được tư cách của bị đơn. Việc tham gia tố tụng của nguyên đơn
mang tính chủ động, còn việc tham gia tố tụng của bị đơn mang tính bị động, do bị bắt
buộc tham gia tố tụng.
Theo khoản 3 Điều 56 BLTTDS: “Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên
đơn khởi kiện hoặc cá nhân, cơ quan tổ chức khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để
yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của
nguyên đơn bị người đó xâm phạm”.
1.3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Đây cũng chính là đương sự của vụ án, vì quyền lợi, nghĩa vụ của họ bị tác động
trực tiếp khi tiến hành việc giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hiểu một cách chung nhất là người tham
gia tố tụng vào vụ án đã phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình. Việc tham gia vào quá trình tố tụng của họ có thể do họ chủ động
hoặc theo yêu cầu của đương sự khác hoặc theo yêu cầu của tòa án. Như vậy, để có
thể xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự, thì các chủ
thể này phải có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án mà Tòa án đang giải quyết,
đồng thời phải được Tòa án đưa họ vào tham gia tố tụng do thấy cần thiết hoặc theo
yêu cầu của chính họ.
Là một loại chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự nên để tham gia vào
quan hệ pháp luật tố tụng dân sự thì đương sự phải có năng lực pháp luật tố tụng dân
sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự.
2. Năng lực hành vi tố tụng dân sự và năng lực pháp luật tố tụng dân sự của
đương sự
2.1. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự
Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của đương sự là khả năng pháp luật quy định
cho cá nhân, cơ quan, tổ chức và các chủ thể khác có các quyền và nghĩa vụ tố tụng

dân sự. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của cá nhân gắn liền với sự tồn tại của cá
nhân đó. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của cơ quan, tổ chức xuất hiện khi được
thành lập và chấm dứt khi không còn tồn tại.
Đặc trưng cơ bản của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là các chủ thể bình đẳng
về quyền và nghĩa vụ. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của tổ chức và năng lực pháp
luật tố tụng dân sự của cá nhân với tư cách là đương sự trong vụ án dân sự là như
nhau, bình đẳng với nhau. Vì vậy, để giải quyết đúng đắn và khách quan pháp luật tố
tụng dân sự quy định: “Mọi cá nhân, tổ chức có năng lực pháp luật tố tụng dân sự như
nhau trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình” (khoản 1
Điều 57 BLTTDS).
2.2. Năng lực hành vi tố tụng dân sự
Năng lực hành vi tố tụng dân sự là khả năng của đương sự, bằng chính hành vi
của mình, xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự. Đối với cá nhân,
năng lực hành vi của cá nhân được xác định dựa trên cơ sở khả năng nhận thức và khả
năng điều khiển hành vi của cá nhân đó và trên cơ sở tính chất, yêu cầu của việc tham
gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Thông thường, cá nhân được xác định có năng
lực pháp luật tố tụng dân sự đầy đủ khi cá nhân đó đủ 18 tuổi trở lên và không bị mất
năng lực hành vi dân sự. (khoản 3 Điều 57 BLTTDS). Còn đối với người dưới 18 tuổi,
người bị mất năng lực hành vi dân sự thì không có năng lực hành vi tố tụng dân sự, và
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người này khi tham gia vào quan hệ tố
tụng tại Tòa án thì người đại diện hợp pháp của họ sẽ thay mặt để thực hiện những
quyền và nghĩa vụ tố tụng.
3. Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong vụ án dân sự
Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự để đảm bảo cho các đương sự có điều
kiện thuận lợi để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án, đồng thời
bảo đảm việc giải quyết vụ án dân sự nhanh chóng, kịp thời , đúng đắn, pháp luật tố
tụng dân sự đã quy định khá cụ thể, chi tiết về quyền và nghĩa vụ chung của đương sự.
Về nguyên tắc, để đảm bảo việc giải quyết đúng đắn vụ án dân sự thì các đương
sự phải bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự. Mặt khác, Tòa án với
tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng và có trách nhiệm tạo điều kiện để

cho đương sự thực hiện được đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình.Pháp luật tố
tụng dân sự hiện hành đã quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ chung của đương sự
trong các lĩnh vực, giai đoạn tố tụng khác nhau tại Điều 58 BLTTDS. Điều 58 quy
định 20 quyền và nghĩa vụ khác nhau của đương sự, có thể chia làm 3 nhóm:
* Các quyền thể hiện quyền tự định đoạt của đương sự:
- Quyền đề nghị Tòa án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Đương sự không những có quyền yêu cầu
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi Toà án đã thụ lý vụ án, mà trong trường hợp
do tình thế khẩn cấp cần phải bảo vệ ngay bằng chứng, ngăn chặn hậu quả nghiêm
trọng có thể xảy ra đương sự có quyền yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện.
- Tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, tham gia hòa giải do Tòa án
tiến hành. Đương sự có thể tự hòa giải hoặc Tòa án giúp đỡ đương sự thỏa thuận tự
nguyện với nhau về việc giải quyết vụ án không trái pháp luật và đạo đức xã hội (Tòa
án hòa giải).
- Tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.
- Kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Tòa án theo quy định của
BLTTDS. Việc đương sự thực hiện quyền kháng cáo là điều kiện để Tòa án cấp phúc
thẩm tiến hành xét xử phúc thẩm góp phần đảm bảo cho các đương sự có đièu kiện
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.
* Các quyền và nghĩa vụ của đương sự trong hoạt động cung cấp chứng cứ,
chứng minh:
- Cung cấp chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Vì bản thân đương sự trong quan hệ phát sinh tranh chấp hơn ai hết là người hiểu rõ
nhất nguyên nhân, điều kiện phát sinh tranh chấp, nội dung vụ án và là người đưa ra
yêu cầu nên họ phải cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh làm rõ tình tiết vụ
án.
- Yêu cầu cá nhân, cơ quan tổ chức đang lưu giữ quản lí chứng cứ cung cấp
chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Tòa án; đề nghị Tòa án xác minh, thu thập
chứng cứ của vụ án mà tự mình không thể thực hiện được.

- Được biết và ghi ché sao chụp tài liệu chứng cứ do các đương sự khác xuất trình
hoặc do Tòa án thu thập để tạo điều kiện thuận lợi cho các đương sự có thể bảo vệ
quyền lợi của mình một cách tốt nhất.
* Ngoài ra, đương sự còn có các quyền và nghĩa vụ khác như:
- Nhận thong báo hợp lệ để thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình;
- Yêu cầu thay đổi những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng theo
quy định pháp luật;
- Tham gia phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa;
- Tôn trọng Tòa án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên tòa;

Có thể thấy, pháp luật tố tụng dân sự hiện hành đã quy định tương đối đầy đủ, chi
tiết các quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự trong vụ án dân sự. Các quy định này đã
khắc phục được những khuyết điểm của văn bản tố tụng dân sự trước đây, tạo cơ sở
pháp lí bảo đảm cho các đương sự có thể thực hiện được đầy đủ các quyền, nghĩa vụ
của mình, đồng thời hạn chế việc các cơ quan tiến hành tố tụng , người tiến hành tố
tụng, người tham gia tố tụng xâm phạm việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của
đương sự.
Ngoài các quyền và nghĩa vụ chung được BLTTDS quy định cho tất cả các
đương sự, xuất phát từ đặc thù của từng loại đương sự mà BLTTDS còn quy định các
quyền và nghĩa vụ riêng tương ứng với từng loại đương sự cụ thể.
+ Quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn:
Nguyên đơn tham gia vào quá trình tố tụng mang tính chủ động, hoạt động của
nguyên đơn có thể làm phát sinh, thay đổi hoặc đình chỉ tố tụng. Do đó, ngoài những
quyền và nghĩa vụ đã được nêu chung ở Điều 58 BLTTDS, nguyên đơn còn có các
quyền và nghĩa vụ riêng được quy định tại Điều 59 BLTTDS trong đó có một số nội
dung đáng chú ý:
- Quyền rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, thay đổi nội dung yêu cầu
khởi kiện, nhưng quyền này bị hạn chế ở chỗ nguyên đơn chỉ được thực hiện quyền
này trước khi xét xử sơ thẩm hay tại phiên toà sơ thẩm. Còn trước khi xử phúc thẩm
hoặc tại phiên toà phúc thẩm, nguyên đơn tự nguyện rút đơn khởi kiện thì phải được

sự đồng ý của bị đơn. Quy định này nhằm tránh tình trạng nguyên đơn bị thua kiện tại

×