Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản tại Công ty Cổ Phần đầu tư và kinh doanh thiết bị công nghiệp Phương Dũng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.89 KB, 72 trang )

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG
o0o
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN TẠI
CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẦU TƯ VÀ KINH DOANH THIẾT BỊ
CÔNG NGHIỆP PHƯƠNG DŨNG
SINH VIÊN THỰC HIỆN
MÃ SINH VIÊN
CHUYÊN NGÀNH
: LÊ PHƯƠNG ANH
: A17844
: TÀI CHÍNH
HÀ NỘI – 2014
BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG
o0o
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN TẠI
CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẦU TƯ VÀ KINH DOANH THIẾT BỊ
CÔNG NGHIỆP PHƯƠNG DŨNG
Giáo viên hướng dẫn
Sinh viên thực hiện
Mã sinh viên
Chuyên ngành
: PGS.TS Lưu Thị Hương
: Phạm Hải Anh
: A17983
: Tài chính


HÀ NỘI – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận này là do tự bản thân thực hiện và không sao chép
các công trình nghiên cứu của người khác để làm sản phẩm của riêng mình. Các thông
tin thứ cấp sử dụng trong khóa luận là có nguồn gốc và được trích dẫn rõ ràng. Tôi xin
chịu hoàn toàn trách nhiệm về tính xác thực và nguyên bản của khóa luận.
Sinh viên
Lê Phương Anh
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành khoá luận này, em đã nhận được sự
hướng dẫn, giúp đỡ quý báu của các thầy cô, các anh chị và các bạn. Với lòng kính
trọng và biết ơn sâu sắc, em xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới: Cô giáo PGS-
TS Lưu Thị Hương, người đã tận tình giúp đỡ em trong suốt thời gian hoàn thành khóa
luận. Đồng thời, em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong bộ môn kinh
tế cùng các cán bộ và nhân viên của phòng tài chính – kế toán của Công ty cổ phần
đầu tư và kinh doanh thiết bị công nghiệp Phương Dũng đã cho em cơ hội làm việc với
công ty để hoàn thành tốt bài khóa luận của em.
Em xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày 17 tháng 05 năm 2014
Sinh viên
Lê Phương Anh
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Thông tin cơ bản về công ty 20
Giám đốc 20
Phó giám đốc 21
Phòng hành chính – kế toán 21
Phòng Kinh doanh 22
Kho hàng 22
PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh qua các năm 2011,2012,1013
Phụ lục 2: Bảng cân đối kế toán qua các năm 2011,2012,2013
DANH MỤC VIẾT TẮT
Ký hiệu viết tắt Tên đầy đủ
TSDH Tài sản dài hạn
TSNH Tài sản ngắn hạn
VCSH Vốn chủ sở hữu
TSCĐ Tài sản cố định
DN Doanh nghiệp
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
Thông tin cơ bản về công ty 20
Thông tin cơ bản về công ty 20
Giám đốc 20
Giám đốc 20
Phó giám đốc 21
Phó giám đốc 21
Phòng hành chính – kế toán 21
Phòng hành chính – kế toán 21
Phòng Kinh doanh 22
Phòng Kinh doanh 22
Kho hàng 22
Kho hàng 22
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để thành lập doanh nghiệp và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh thì tài
sản là điều kiện không thể thiếu, nó phản ánh nguồn lực đầu tư vào hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong điều kiện nền kinh tế mới với xu thế quốc tế
hóa ngày càng cao, sự cạnh tranh trên thị trường ngày càng mạnh mẽ, do vậy doanh
nghiệp để tồn tại và phát triển thì cần nguồn tài sản lớn và sử dụng tài sản tốt. Như
vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản sẽ giúp cho doanh nghiệp nâng cao hiệu

quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng sức cạnh tranh và giúp doanh nghiệp đứng
vững hơn trên thị trường.
Nhận thấy tầm quan trọng trong việc sử dụng và quản lý tài sản cùng với thời
gian thực tập tại Công ty Cổ phần đầu tư và kinh doanh thiết bị công nghiệp Phương
Dũng, em thấy công ty có nhiều hạn chế trong công tác sử dụng và quản lý tài sản, nên
em đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản tại Công ty
Cổ Phần đầu tư và kinh doanh thiết bị công nghiệp Phương Dũng” để làm đề tài
cho khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là thực trạng sử dụng tài sản đối với Công ty Cổ
phần đầu tư và kinh doanh thiết bị công nghiệp Phương Dũng để từ đó đưa ra các đề
xuất nhằm hoàn thiện chất lượng và nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản của công ty.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là nghiên cứu thực trạng sử dụng tài sản tại công ty Cổ
phần đầu tư và kinh doanh thiết bị công nghiệp Phương Dũng.
Phạm vi nghiên cứu là tình hình sử dụng tài sản tại công ty Cổ phần đầu tư và
kinh doanh thiết bị công nghiệp Phương Dũng trong 3 năm 2011, 2012 và 2013.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được dựa trên phương pháp thống kê mô tả, so sánh đối chiếu và kết hợp
dùng số liệu phân tích. Khóa luận đã đánh giá một cách tổng quát về hoạt động và thực
trạng sử dụng tài sản của công ty thông qua các chỉ tiêu kinh tế nhằm tìm ra những
vấn đề có liên quan đến hiệu quả sử dụng tài sản của công ty, từ đó có thể đưa ra các
đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản của DN.
5. Kết cấu khóa luận gồm
Ngoài phần mục lục, danh mục viết tắt, danh mục biểu đồ, bảng biểu, lời mở đầu,
kết luận, danh mục tham khảo thì nội dung chính của khóa luận gồm 3 chương:
- CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI
SẢN TẠI DOANH NGHIỆP
- CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG TÀI SẢN TẠI CÔNG TY CỔ
PHẦN ĐẦU TƯ VÀ KINH DOANH THIẾT BỊ CÔNG NGHIỆP PHƯƠNG

DŨNG
- CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
TÀI SẢN TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẦU TƯ VÀ KINH DOANH THIẾT BỊ
CÔNG NGHIỆP PHƯƠNG DŨNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
TÀI SẢN TẠI DOANH NGHIỆP
1.1.TỔNG QUAN VỀ TÀI SẢN CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.1.Tổng quan về doanh nghiệp
1.1.1.1.Khái niệm và phân loại doanh nghiệp
a,Khái niệm
Là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động kinh doanh trên thị
trường nhằm làm tăng giá trị của chủ sở hữu.
Ở Việt Nam, theo luật doanh nghiệp: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên
riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng kí kinh doanh theo quy định
của pháp luật, nhằm mục đích thực hiện các họat động kinh doanh. Kinh doanh là
việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ
sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích
sinh lời.
Các doanh nghiệp ở Việt Nam bao gồm: Doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ
phần,công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, công ty liên doanh, doanh
nghiệp tư nhân
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp bao gồm các chủ thể kinh doanh:
Kinh doanh các thể, Kinh doanh góp vốn, Công ty.
b,Phân loại doanh nghiệp
Kinhdoanh cá thể
Là loại hình thành lập đơn giản nhất, không cần phải có điều lệ chính thức và ít
chịu sự quản lí của Nhà nước. Doanh nghiệp này không phải trả thuế thu nhập doanh
nghiệp, tất cả lợi nhuận bị tính thuế thu nhập cá nhân. Ngoài ra, chủ doanh nghiệp chịu
trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ và các khoản nợ, không có sự tách biệt giữa
tài sản cá nhân và tài sản của doanh nghiệp. Thời gian hoạt động của doanh nghiệp

phụ thuộc vào tuoir thọ của người chủ. Tuy nhiên khả năng thu hút vốn bị hạn chế bởi
khả năng của người chủ.
Kinh doanh góp vốn
Việc thành lập doanh nghiệp này dễ dàng và chi phí thành lập thấp. Theo hình
thức kinh doanh này, các thành viên chính thức có trách nhiệm vô hạn với các khoản
nợ. Mỗi thành viên có trách nhiệm đối với phần tương ứng với phần vốn góp. Nếu như
1
một thành viên khoonh hoàn thành trách nhiệm trả nợ của mình, phần còn lại sẽ do các
thành viên khác trả. Doanh nghiệp tan vỡ khi một trong các thành viên chính thức rút
vốn. Ngoài ra, lãi từ hoạt dộng kinh doanh của các thành viên phải chịu thuế thu nhập
cá nhân. khả năng về vốn của doanh nghiệp này hạn chế.
Công ty
Là loại hình doanh nghiệp mà ở đó có sự kết hợp ba loại lợi ích: lợi ích của các
cổ đông(chủ sở hữu), của hội đồng quản trị và các nhà quản lí. Theo truyền thống, cổ
đông kiểm soát toàn bộ phương hướng, chính sách và hoạt động của công ty. Các nhà
quản lý quản lý hoạt động của công ty thei cách thức mang lại lợi ích tốt nhất cho cổ
đông. Việc tách rời quyền sở hữu khỏi các nhà quản lý mang lại cho công ty các ưu thế
so với kinh doanh các thể và góp vốn:
-Quyền sở hữu có thể dễ dàng chuyển cho cổ đông mới.
-Sự tồn tại của công ty không phụ thuộc vào sự thay đổi số lượng cổ đông.
-Trách nhiệm của cổ đông chỉ giới hạn ở phần vốn mà cổ đông góp vào công ty.
Mỗi loại hình doanh nghiệp có những ưu, nhược điểm riêng mà phù hợp với quy
mô và trình độ phát triển nhất định. Hầu hết, các doanh nghiệp lớn hoạt động với tư
cách là các công ty. Đây là loại hình phát triển nhất của doanh nghiệp.
1.1.1.2.Hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp
Ngày nay có rất nhiều doanh nghiệp ra đời với đủ các loại hình kinh doanh và
cách tổ chức cũng rất linh hoạt, kết hợp nhiều cách quản lý để phù hợp với tình hình
thực tế và đặc thủ của doanh nghiệp
Hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp là
 Tổ chức sản xuất sản phẩm và cung ứng dịch vụ để phục vụ nhu cầu của khách

hàng:
Hoạt động kinh doanh thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi
thương mại của thương nhân làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các thương nhân
với nhau hoặc giữa các thương nhân có liên quan bao gồm việc mua bán hàng hoá,
cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi
nhuận hoặc thực hiện chính sách kinh tế xã hội.
Thương nhân có thể là cá nhân có đủ năng lực hành vi dân sự hay các hộ gia
đình, tổ hợp tác hoặc các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thành lập theo
quy định của pháp luật.
Hoạt động kinh doanh thương mại có chức năng tổ chức và thực hiện việc mua
2
bán trao đổi hàng hoá, cung cấp các dịch vụ nhằm phục vụ sản xuất và đời sống nhân
dân. Hoạt động kinh doanh thương mại là khâu trung gian nối liền giữa sản xuất và
tiêu dùng.
Hoạt động kinh doanh thương mại có những đặc điểm sau:
- Về hoạt động: Hoạt động kinh tế cơ bản là lưu chuyển hàng hoá (Lưu chuyển
hàng hoá là sự tổng hợp các hoạt động thuộc quá trình mua bán trao đổi và dự trữ
hàng hoá ).
- Về hàng hoá: Hàng hoá trong kinh doanh thương mại gồm các loại vật tư,
sản phẩm có hình thái vật chất và phi vật chất mà doanh nghiệp mua về với mục
đích để bán.
- Về phương thức lưu chuyển hàng hoá: Hoạt động kinh doanh thương mại có
2 hình thức lưu chuyển chính là bán buôn, bán lẻ.
- Về tổ chức kinh doanh: có thể theo nhiều mô hình khác nhau như tổ chức
bán buôn, bán lẻ, công ty kinh doanh tổng hợp, công ty môi giới, công ty xúc tiến
thương mại
- Về sự vận động của hàng hoá; sự vận động của hàng hoá không giống nhau, tuỳ
thuộc vào nguồn hàng và ngành hàng (hàng lưu chuyển trong nước, hàng xuất nhập
khẩu ). Do đó chi phí thu mua và thời gian lưu chuyển hàng hoá cũng khác nhau giữa
các loại hàng.

 Tiến hành tìm kiếm, nghiên cứu thị trường để có kế hoạch tiêu thụ sản phẩm
và tìm ra được xu hướng và những yêu cầu của người tiêu dung, từ đó có những chiếc
lược kinh doanh hiệu quả:
Trong hoạt động kinh doanh nghiên cứu thị trường nhằm trả lời câu hỏi sản xuất
cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? tức là thị trường đang cần những sản
phẩm gì đặc điểm kinh tế kỹ thuật của nó ra sao? Dung lượng thị trường về loại sản
phẩm đó như thế nào? ai là người tiêu thụ sản phẩm đó?
Nghiên cứu thị trường được tiến hành ở hai cấp độ: nghiên cứu khái quát thị
trường và nghiên cứu chi tiết thị trường, tuy nhiên cũng có thể đi theo trình tự ngược
lại trình tự xuôi hay ngược không cản trở lẫn nhau, mỗi giai đoạn đều có mỗi yêu cầu
nhất định về thông tin đều cần cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với
những doanh nghiệp thương mại quy mô lớn thì theo chiều xuôi, những doanh nghiệp
vừa vầ nhỏ đi theo chiều ngược lại.
Nghiên cứu khái quát thị trường
Nghiên cứu khái quát thị trường thực chất là nghiên cứu ở tầm vĩ mô. Đó là
3
nghiên cứu tổng cung, tổng cầu hàng hoá, chính sách của chính phủ đối với loại hàng
hoá đó. Thông qua nghiên cứu khái quát thị trường doanh nghiệp có thể xác định được
tổng cung, tổng cầu, gía cả và sự vận động của các tham số đó theo thời gian từ đó
doanh nghiệp có những định hướng về việc xâm nhập và thị trường mới hoặc đánh giá
các chiến lược, sách lược của mình tròng thời gian tới đối với thị trường hiện tại.
Nghiên cứu chi tiết thị trường
Nghiên cứu chi tiết thị trường thực chất là nghiên cứu đối tượng mua,bán hàng
hoá mà doanh nghiệp kinh doanh.
Nghiên cứu chi tiết thị trường là nghiên cứu nhu cầu của khách hàng và mặt hàng
mà doanh nghiệp kinh doanh. Đối với hàng tiêu dùng nhu cầu phụ thuộc vào sở thích (
thị hiếu) thu nhập, lứa tuổi, nghề nghiệp, thời gian đối với tư liệu sản xuất phụ thuộc
và công nghệ, định mức sử dụng nguyên vật liệu trong sản xuất và kế hoạch sản xuất
hàng của doanh nghiệp. Quyết định mua hàng không phải là người trực tiếp đi mua mà
chính là yêu cầu kỹ thuật công nghệ sản xuất, mẫu mã sản phẩm

Khi nghiên cứu chỉ tiêu thị trường doanh nghiệp phải xác định được thị phần của
mình, thị phần của các doanh nghiệp khác cùng ngành, so sánh về chất lượng sản
phẩm, giá cả sản phẩm, dịch vụ phục vụ khách hàng của doanh nghiệp so với doanh
nghiệp khác để đổi mới nhằm thu hút khách về doanh nghiệp mình.
 Duy trì, chăm sóc khách hàng , có những nghiên cứu mới để ngày càng hoàn
thiện sản phẩm và dịch vụ cung cấp.
Khách hàng là nguồn sống của bất cứ cửa hàng, doanh nghiệp nào. Chính vì thế,
chăm sóc khách hàng trở thành một trong những yếu tố sống còn và đòi hỏi rất nhiều
đầu tư về công sức và tiền bạc. CSKH không chỉ đơn thuần là bán cho khách hàng
bằng sản phẩm, dịch vụ, nó đòi hỏi bạn phải tạo ra sự hài lòng tuyệt đối cho khách
hàng đối với sản phẩm, dịch vụ của bạn.
Chăm sóc khách hàng đóng vai trò rất lớn trong việc quyết định liệu khách hàng
có quay trở lại cửa hàng vào lần sau để tiếp tục sử dụng sản phẩm, dịch vụ của doanh
nghiệp. Một khách hàng được chăm sóc tốt nghĩa là một khách hàng hoàn toàn hài
lòng về sự tư vấn, sản phẩm, dịch vụ cung cấp và vẫn tiếp tục nhận được sự quan tâm
của cửa hàng ngay cả khi họ chưa có hành vi mua sắm tiếp theo. Nhưng khách hàng
này hoàn toàn có thể trở thành khách hàng thân thiết hoặc trở thành khách hàng thiện
cảm của cửa hàng và họ chính là cầu nối đưa đến cho cửa hàng bạn những khách hàng
tiềm năng thông qua sự giới thiệu của họ. Ngược lại, một khách hàng không được
chăm sóc tốt và họ cảm thấy không hài lòng về bất kỳ một điểm nào về sản phẩm, dịch
vụ hay thái độ phục vụ tại cửa hàng của bạn. Những khách hàng này có nguy cơ trở
4
thành khách hàng phản cảm, họ sẽ là những khách hàng khó chịu và luôn ác cảm với
tòan bộ sản phẩm và dịch vụ của cửa hàng. Mọi cố gắng làm hài lòng khách hàng từ
trước của bạn trở nên vô nghĩa – họ sẽ rời bỏ bạn, trở thành khách hàng thân thiết của
đối thủ, thậm chí còn có thể trở thành một kênh truyền thông tiêu cực – rêu rao về chất
lượng sản phẩm dịch vụ của bạn.
Mục đích của việc chăm sóc khách hàng là nhằm làm thỏa mãn nhu cầu, mong
đợi của khách hàng. Chính vì vậy, vai trò của việc chăm sóc khách hàng là rất quan
trọng trong việc nâng cao lợi thế cạnh tranh của các cửa hàng nói chung và các cửa

hàng bán lẻ nói riêng. Để làm hài lòng khách hàng, bạn cần tập trung vào 3 yếu tố then
chốt sau: Chất lượng sản phẩm, Chất lượng dịch vụ tư vấn, chất lượng dịch vụ hậu
mãi. Cùng một loại hình sản phẩm dịch vụ, chỉ cần bạn tập trung chăm sóc và làm hài
lòng khách hàng, bạn có thể thu hút khách hàng từ đối thủ đến mua hàng tại cửa hàng
của bạn.
 Thường xuyên báo cáo với cơ quan quản lý nhà nước tạo điều kiện cho việc
quản lý được thông suốt.
Quản lý và giám sát việc sử dụng vốn tại các doanh nghiệp là một việc làm cần
thiết nhằm đánh giá đúng thực trạng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, từ đó, có
cơ chế chính sách giúp cơ quan quản lý nhà nước kịp thời phát hiện các yếu kém trong
quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để có cảnh báo và đề ra biện pháp
chấn chỉnh kịp thời.
- Đối với DN: Hội đồng thành viên, Ban Điều hành DN thông qua bộ phận tài
chính kế toán, Ban Kiểm soát nội bộ có trách nhiệm tổ chức việc tự giám sát nội bộ
DN mang tính chất thường xuyên, đột xuất theo ngày, tuần, tháng, quý, năm tùy theo
tính chất hoạt động của DN. Thông qua tự giám sát để có những điều chỉnh, biện pháp
tự chấn chỉnh về quản lý tài chính nói riêng, quản trị DN nói chung để đưa tài chính
DN luôn trong trạng thái an toàn.
- Đối với chủ sở hữu DN: hình thành một quy trình cụ thể để chủ sở hữu có thể
nắm bắt kịp thời các thông tin tài chính của DN do Hội đồng thành viên, Ban Điều
hành DN báo cáo theo tháng, quý, năm. Đồng thời phải gắn trách nhiệm của chủ sở
hữu trong việc phân tích, sử dụng báo cáo tài chính để đưa ra những đánh giá về quản
trị tài chính nói riêng, quản trị DN nói chung từ đó có những kiến nghị, yêu cầu Ban
Điều hành DN, Hội đồng thành viên thực thi để đảm bảo an toàn tài chính.
- Đối với cơ quan quản lý tài chính DN: với trách nhiệm của mình, cơ quan quản
lý tài chính DN phải tổ chức việc kiểm tra, giám sát DN – chủ sở hữu trong việc chấp
hành các quy định, cơ chế, chính sách tài chính DN. Cơ quan quản lý tài chính DN
5
phải thúc đẩy việc công khai minh bạch số liệu tài chính của DN theo các hình thức
khác nhau, nhưng phải có lộ trình để các tập đoàn kinh tế nhà nước, các DN lớn thực

hiện báo cáo minh bạch thông tin như các công ty đại chúng.
Trên cơ sở báo cáo của chủ sở hữu, cơ quan quản lý tài chính DN cần có những
đánh giá, tổng hợp và cảnh bảo về tình hình tài chính của từng ngành, từng DN. Cơ
quan quản lý tài chính DN còn có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư khi
phát hiện nguy cơ rủi ro tài chính của DN lớn; đồng thời tiếp nhận để cơ cấu tài chính
đối với các DN mới
1.1.2.Tài sản của doanh nghiệp
1.1.2.1.Khái niệm và phân loại tài sản của doanh nghiệp
a,Khái niệm
Khái niệm tài sản lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật dân sự năm 1995,
theo đó tại Điều 172 Bộ luật Dân sự năm 1995 quy định “Tài sản bao gồm vật có
thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản”. Tiếp đó, Điều 163 Bộ
luật dân sự 2005 (Bộ luật dân sự hiện hành) quy định: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy
tờ có giá và các quyền tài sản” . Khái niệm tài sản theo Bộ luật dân sự 2005 đã mở
rộng hơn Bộ luật dân sự 1995 về những đối tượng nào được coi là tài sản, theo đó,
không chỉ những “vật có thực” mới được gọi là tài sản mà cả những vật được hình
thành trong tương lai cũng được gọi là tài sản. Tuy nhiên, cũng giống như Bộ luật dân
sự 1995, Bộ luật dân sự 2005 cũng đưa ra khái niệm tài sản theo hình thức liệt kê, điều
này đã không đáp ứng sự phát triển của thực tiễn cuộc sống và gây ra sự tranh cãi về
một số đối tượng như: tài sản ảo trong game online, khoảng không, hệ thống khách
hàng … có được coi là tài sản trong pháp luật dân sự hay không? Chính điều này đòi
hỏi cơ quan lập pháp phải tiến hành sửa đổi quy định về khái niệm tài sản trong Bộ
luật dân sự theo hướng khái quát hơn và đưa ra những tiêu chí để phân biệt đâu là tài
sản, đâu không phải là tài sản.
Đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Sau đây là một số quan
điểm chủ yếu:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, tài sản là đối tượng của quyền sở hữu. Như vậy,
theo quan điểm này muốn hiểu tài sản là gì thì trước tiên chúng ta phải hiểu Quyền sở
hữu là gì. Tuy nhiên, tại Điều 164 Bộ luật dân sự 2005 khái niệm quyền sở hữu cũng
chỉ được dưa ra theo hướng liệt kê, theo đó, ″Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm

hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp
luật″. Do đó, nếu áp dụng khái niệm này thì chúng ta lại bị rơi vào vòng luẩn quẩn
6
định nghĩa tài sản thông qua một khái niệm quyền sở hữu trong khi đó bản thân khái
niệm quyền sở hữu cũng chưa giải quyết được một cách triệt để, thậm chí còn là phái
sinh từ khái niệm tài sản.
Quan điểm thứ hai cho rằng, tài sản là của cải vật chất tồn tại dưới dạng cụ thể,
được con người sử dụng và được nhận biết bằng giác quan tiếp xúc như giường, tủ,
bàn ghế, xe mô tô, tờ tiền…. Như vậy, theo quan điểm này thì chỉ những gì thuộc về
thế giới vật chất, hiện đang tồn tại và chúng ta có thể cầm, lắm … được thì mới được
coi là tài sản. Do đó, quyền tài sản không được coi là tài sản.
Quan điểm thứ ba cho rằng,tài sản bao gồm động sản và bất động sản. Đây
thực chất là một cách phân loại tài sản dựa trên tính chất vật lý không di dời được về
mặt cơ học và nó cũng rơi vào vòng luẩn quẩn như quan điểm thứ nhất khi định nghĩa
tài sản thông qua khái niệm bất động sản và động sản trong khi đó khái niệm bất động
sản và động sản cũng chưa được làm sang tỏ và thậm chí muốn hiểu thế nào là bất
động sản và động sản thì phải hiểu thế nào là động sản trước. Hơn nữa, nếu theo quan
điểm này thì quyền tài sản không biết được xếp vào bất động sản hay động sản?
Quan điểm thứ tư cho rằng, tài sản là những gì định giá được. Quan điểm trên
vẫn còn những điểm chưa hợp lý vì:
Thứ nhất, tài sản là những gì định giá được có thể hiểu là tài sản là những gì trị
giá được bằng tiền và tiền ở đây chỉ được hiểu là nội tệ vì ″ngoại tệ không được coi là
tiền, bởi lẽ ngoại tệ không bao giờ được coi là công cụ thanh toán đa năng – một tính
năng quan trọng nhất của tiền″. Như vậy, tiền sẽ được định giá bằng gì? Và nó có được
coi là tài sản không?
Thứ hai, nếu cứ những gì định giá được thì được gọi là tài sản, vậy tài sản nợ -
nghĩa vụ trả nợ cũng sẽ được xem là tài sản vì nó cũng có thể định giá được (cứ xem
giá của nó là 0 đồng thì giá 0 đồng hoàn toàn khác với không định giá được), trong khi
đó, tài sản thì có thể để lại thừa kế được còn nghĩa vụ trả nợ thì không để lại thừa kế
được, trừ nghĩa vụ trả nợ trong phạm vi di sản do người chết để lại.

Tóm lại, tài sản là một phạm trù được xem xét, đánh giá theo nhiều quan niệm,
với nhiều mục đích khác nhau. Do đó, khó có thể đưa ra một định nghĩa về tài sản thoả
mãn tất cả các yêu cầu, các quan niệm đa dạng. Song hiểu một cách khái quát, tài sản
có thể được định nghĩa như sau:
Tài sản bao gồm tiền và những gì mang lại lợi ích cho con người đồng thời trị
giá được bằng tiền. Theo đó tài sản gồm: tiền – nội tệ và những đối tượng khác, tuy
nhiên những đối tượng đó chỉ được gọi là tài sản nếu đáp ứng được các tiêu chí sau:
7
-Phải mang lại lợi ích nào đó cho con người
-Phải trị giá được được bằng tiền.
b.Phân loại tài sản của doanh nghiệp
Tùy theo yêu cầu quản lý và đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi
loại hình DN mà có thể lựa chọn những căn cứ phân loại tài sản khác nhau. Có các
cách phân loại như: phân theo vai trò và tính chất luân chuyển tài sản khi tham gia vào
quá trình sản xuất, phân theo nguồn hình thành và phân theo thời gian huy động và sử
dụng tài sản. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của bài, chỉ tập trung vào việc phân
loại theo vai trò và tính chất luân chuyển của tài sản trong quá trình sản xuất, phân loại
tài sản theo nguồn hình thành.
Phân theo vai trò và tính chất luân chuyển tài sản khi tham gia vào quá trình
sản xuất
 Tài sản ngắn hạn
Tài sản ngắn hạn là những tài sản mà thời gian sử dụng, thu hồi luân chuyển
trong một năm hoặc một chu kì kinh doanh. Tài sản ngắn hạn bao gồm:
Tiền và các khoản tương đương tiền: Tiền được biểu hiện là tiền mặt, tiền gửi
ngân hàng và tiền đang chuyển. Các khoản tương đương tiền là các khoản đầu tư ngắn
hạn không quá ba tháng, có khả năng chuyển đổi dễ dàng thành tiền và không có nhiều
rủi ro trong chuyển đổi thành tiền.
Tài sản tài chính ngắn hạn: bao gồm các khoản đầu tư chứng khoán có thời hạn
thu hồi dưới một năm hoặc trong một chu kì kinh doanh (như:tín phiếu kho Bạc, Kì
phiếu ngân hàng…) hoặc chứng khoán mua vào bán ra(cổ phiếu, trái phiếu) để kiếm

lời và các loại đầu tư tài chính khác không quá một năm.
Các khoản phải thu ngắn hạn: Là các khoản phải thu ngắn hạn của khách hàng,
phải thu nội bộ ngắn hạn và các khoản phải thu ngắn hạn khác có thời hạn thu hồi hoặc
thanh toán dưới một năm.
Tồn kho: Bao gồm vật tư, hàng hóa, sản phẩm, sản phẩm dở dang.
Tài sản ngắn hạn khác, bao gồm: Chi phí trả trước ngắn hạn, Thuế giá trị gia
tăng được khấu trừ, thuế và các khoản khác phải thu Nhà nước, tài sản ngắn hạn khác.
 Tài sản dài hạn
Tất cả các tài sản khác ngoài tài sản ngắn hạn được xếp vào loại tài sản dài hạn.
Tài sản dài hạn bao gồm các khoản phải thu dài hạn, tài sản cố định, bất động sản đầu
tư, các khaorn tài chính dài hạn và các tài sản dài hạn khác.
Các khoản phải thu dài hạn: là các khoản thu dài hạn của khách hàng, phỉa thu
8
nội bộ dài hạn và các khoản phải thu dài hạn khác có thời hạn thu hồi hoặc thanh toán
trên một năm.
Bất động sản đầu tư: là những bất động sản, quyền sử dụng đất, nhà hoặc một
phần của nhà hoặc cả nàh và đất, cơ sở hạ tầng do người chủ sở hữu hoặc người đi
thuê tài sản theo hợp đồng thuê tài chính nắm giữ nhằm mục đích thu lợi từ việc cho
thuê hoặc chờ tăng giá mà không phải để sử dụng trong sản xuất, cung cấp hàng hóa,
dịch vụ hay cho các mục đích quản lý hoặc bán trong kì hoạt động kinh doanh thông
thường.
Một bất động sản đầu tư được ghi nhận là tài sản phải thỏa mãn đồng thời hai
điều kiện sau:
-Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai.
-Nguyên giá của bất động sản đầu tư phải được xác định một cách đáng tin cậy.
Nguyên giá của bất động sản đầu tư bao gồm bao gồm giá mua và các chi phí
liên quan trực tiếp, như: chi phí dịch vụ tư vấn pháp luật liên quan, thuế trước bạ và
các chi phí giao dịch liên quan khác.
Tài sản cố định: Là những tài sản có giá trị lớn, có thời gian sử dụng dài cho các
hoạt động của doanh nghiệp và phải thỏa mãn đồng thời tất cả các tiêu chuẩn sau:

-Chắc chắn phải thu được lợi ích kinh tế trong tương lai trừ việc sử dụng tài
sản đó.
-Nguyên giá tài sản phải được xác định một cách tin cậy.
-Có thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên.
-Có giá trị từ 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) trở lên.
Trong điều kiện hiện nay, việc đầu tư đổi mới tài sản cố định là một trong các
yếu tố quyết đinh đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, bởi vì:
-Tài sản cố định là yếu tố quyết định năng lực sản xuất - kinh doanh của doanh
nghiệp.
-Nhờ đổi mới tài sản cố định mới có được năng suất cao, chất lượng sản phẩm và
dịch vụ tốt, chi phí tạo ra sản phẩm, dịch vụ thấp tạo điều kiện đẩy mạnh tiêu thụ sản
phẩm,dịch vụ đó làm tăng doanh thu và do đó doanh nghiệp mới có đủ sức cạnh tranh
trên thị trường. Xét trên góc độ này, đầu tư mới tài sản cố định kịp thời, hợp lí trở
thành vấn đề sống còn đối với mỗi doanh nghiệp.
-Xét trên góc độ tài chính doanh nghiệp, sự nhạy cảm trong đầu tư đổi mới tài
sản cố định là một nhân tố quan trọng để giảm chi phí như: Chi phí sửa chữa lớn tài
sản cố định, hạ thấp hao phí năng lượng, giảm chi phí biến đổi để tạo ra sản phẩm và
là biện pháp rất quan trọng để hạn chế hao mòn vô hình trong điều kiện cách mạng
khoa học kĩ thuật phát triển nhanh, mạnh như hiện nay.
Tài sản cố định được phân loại dựa trên các tiêu thức nhất định nhằm phục vụ
cho yêu cầu quản lí của doanh nghiệp.
Phân loại tài sản cố định theo hình thái biểu hiện:
9
Theo phương pháp này, toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp được chia
thành hai loại: tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình.
Tài sản cố định hữu hình: Là những tài sản cố định có hình thái vật chất cụ thể do
doanh nghiệp sử dụng cho hoạt động kinh doanh như: Nhà cửa, vật kiến trúc, máy
móc, thiết bị, phương tiên vận tải, thiết bị truyền dẫn…
Tài sản cố định vô hình: Là những tài sản không có hình thái vật chất nhưng xác
định được giá trị, do doanh nghiệp quản lí và sử dụng trong các hoạt động sản xuất

kinh doanh, cung cấp dịch vụ hoặc cho các đối tượng khác thuê phù hợp với tiêu
chuẩn tài sản cố định vô hình. Thông thường, tài sản cố định vô hình bao gồm: Quyền
sử dụng đất có thời hạn, nhãn hiệu hàng hóa, quyền phát hành, phần mềm máy tính,
bản quyền sáng chế…
Phương pháp phân loại này giúp cho nhà quản lí thấy được cơ cấu đầu tư vào tài
sản cố định theo hình thái biểu hiện, là căn cứ để quyết định đầu tư dài hạn hoặc điều
chỉnh cơ cấu đầu tư cho phù hợp và cso biện pháp quản lí phù hợp với mỗi loại tài sản
cố định.
Tài sản tài chính dài hạn: Là các khoản đầu tư vào việc mua bán các chứng
khoán có thời hạn thu hồi trên một năm hoặc góp vốn liên doanh bằng tiền, bằng hiện
vật, mua cổ phiếu có thời hạn thu hồi vốn trog thời gian trên một năm và các loại đầu
tư khác vượt quá thời hạn trên một năm. Có thế nói tài sản tài chính dài hạn là các
khoản vốn mà doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực kinh doanh, ngoài hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong thời hạn trên một năm nhằm tạo ra nguồn lợi
tức lâu dài cho doanh nghiệp.
Cụ thể, tài sản tài chính dài hạn bao gồm:
-Các chứng khoán dài hạn: Phản ánh giá trị các khoản đầu tư cho việc mua bán
các cổ phiếu và trái phiếu có thời hạn trên một năm và có thể bán ra bất cứ lúc nào với
mục địch kiếm lợi nhuận. Bao gồm:
+Cổ phiếu doanh nghiệp: Là chứng chỉ xác nhận vốn góp của chủ sở hữu vào
doanh nghiệp đang hoạt động hoặc bắt đầu thành lập. Doanh nghiệp mua cổ phần được
hưởng lợi tức cổ phần (cổ tức) căn cứ vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, nhưng đồng thời chủ sở hữu vốn cũng phải chịu rủi ro khi doanh nghiệp đó bị
thua lỗ, giải thể hoặc phá sản theo Điều lệ của doanh nghiệp và luật phá sản của doanh
nghiệp.
Cổ phần của doanh nghiệp có thể là cổ phần thường và cổ phần ưu đãi. Mỗi cổ
đông có thể mua một hoặc nhiều cổ phần.
+Trái phiếu: là chứng chỉ vay nợ có kì hạn và có lãi do Nhà nước hoặc doanh
nghiệp hay các tổ chức, cá nhân phát hành nhằm huy động vốn cho việc đầu tư phát
triển. Có 3 loại trái phiếu:

Trái phiếu Chính phủ: Là chứng chỉ vay nợ của Chính phủ do Bộ Tài chính phát
hành dưới các hình thức: Trái phiếu kho Bạc, trái phiếu công trình, trái phiếu xây dựng
Tổ quốc.
10
Trái phiếu địa phương: Là chứng chỉ vay nợ của các chính quyền Tỉnh, Thành
phố phát hành.
Trái phiếu Công ty: Là chứng chỉ vay nợ do doanh nghiệp phát hành nhằm vay
vốn để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và đổi mới trang thiết bị, công nghệ của
doanh nghiệp.
-Các khoản góp vốn liên doanh: Góp vốn liên doanh là một hoạt động đầu tư tài
chính mà doanh nghiệp đầu tư vốn vào một doanh nghiệp khác để nhận kết quả kinh
doanh và cùng chịu rủi ro( nếu có theo tỉ lệ vốn góp). Vốn góp liên doanh của doanh
nghiệp bao gồm tất cả các loại tài sản, vật tư, tiền vốn thuộc quyền sở hữu của doanh
nghiệp kể cả vốn vay dài hạn dùng vào việc góp vốn kinh doanh.
Tài sản dài hạn khác, bao gồm: Chi phí trả trước dài hạn, tài sản thuế thu nhập
hoàn lại, tài sản dài hạn khác.
Phân theo nguồn hình thành
− Vốn chủ sở hữu: Vốn chủ sở hữu là phần vốn thuộc quyền sở hữu của doanh
nghiệp, doanh nghiệp có đầy đủ các quyền chiếm hữu, chi phối và định đoạt. Số vốn
này không phải là một khoản nợ và doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán. Tuỳ
theo loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau mà vốn chủ sở
hữu có nội dung cụ thể riêng như: vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, vốn do chủ
doanh nghiệp bỏ ra, vốn góp cổ phần Vốn chủ sở hữu được xác định là phần vốn còn
lại trong tài sản của doanh nghiệp sau khi trừ đi toàn bộ nợ phải trả.
− Nợ phải trả: là khoản nợ phát sinh trong quá trình kinh doanh mà doanh
nghiệp có trách nhiệm phải thanh toán cho các tác nhân kinh tế. Đó là số tiền vốn mà
doanh nghiệp đi vay, chiếm dụng của các đơn vị, tổ chức, cá nhân như: vốn vay của
ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính khác, vốn vay thông qua phát hành trái
phiếu, các khoản nợ khách hàng chưa thanh toán.
1.1.2.2. Đặc điểm tài sản của doanh nghiệp

 Tài sản dài hạn: Vì TSDH là khoản vốn ứng trước để mua sắm tài sản cố định
cho nên đặc điểm vận động của tài sản cố định sẽ quyết định đặc điểm vận động của
TSDH. Dựa trên mối liên hệ đó ta có một số đặc điểm khái quát của TSDH như sau:
- Tài sản dài hạn tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh, đặc điểm này là
do tài sản cố định có thể phát huy tác dụng trong nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh. Vì
vậy TSDH (Hình thái biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định) cũng tham gia được vào
nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh tương ứng với tài sản cố định.
- Tài sản dài hạn được luân chuyển từng phần : Khi tham gia vào quá trình sản
xuất , giá trị sử dụng của tài sản cố định giảm dần, cũng trong quá trình đó TSDH cũng
được tách làm hai phần: một phần sẽ gia nhập vào giá thành sản phẩm dưới hình thức
khấu hao tài sản cố định. Phần còn lại TSDH được “cố định” trong nó. Trong các chu
11
kỳ sản xuất tiếp theo phần TSDH tiếp tục được luân chuyển vào giá thành sản phẩm
sản xuất trong kỳ và phần tài sản “cố định” lại dần dần giảm đi tương ứng với quá
trình giảm dần của tài sản cố định. Khi kết thúc sự biến thiên ngược chiều đó cũng là
lúc tài sản cố định hết thời gian sử dụng TSDH cũng hoàn thành một vòng luân
chuyển. Như vậy trong quá trình sản xuất, TSDH được luân chuyển dần từng phần vì
vậy phải sau một thời gian dài TSDH mới hoàn thành được vòng luân chuyển.
 Tài sản ngắn hạn
Đặc điểm của tài sản ngắn hạn là bao gồm nhiều loại, tồn tại ở nhiều khâu và
biến động rất nhanh nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh được tiến hành liên
tục, thuận lợi. Do vậy TSNH luôn được chuyển hoá liên tục qua nhiều hình thái khác
nhau, bắt đầu tư hình thái tiền tệ sang hình thái vật tư, hàng hoá và cuối cùng lại trở lại
hình thái tiền tệ ban đầu của nó.Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn
ra liên tục cho nên TSNH cũng động không ngừng và có tính chất chu kỳ.
Tài sản ngắn hạn luôn luân chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần vận động
và hoàn thành một vòng tuần hoàn sau mỗi chu kỳ sản xuất và không giữ nguyên hình
thái vật chất ban đầu. TSNH vận động nhanh hay chậm phụ thuộc rất nhiều vào việc
xác định nhu cầu thường xuyên, thời gian nằm trong các khâu của quá trình sản xuất
và lưu thông có hợp lý hay không, số lượng vật tư hàng hoá được sử dụng tiết kiệm

hay không.
1.2.HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN CỦA DOANH NGHIỆP
1.2.1.Khái niệm hiệu quả sử dụng tài sản tài sản tại doanh nghiệp
Tài sản là điều kiện cần cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi
doanh nghiệp, nhưng chưa đủ để đạt được mục đích kinh doanh của doanh nghiệp bởi
lẽ trong nền kinh tế thị trường mục đích cao nhất của mọi doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh chính là lợi nhuận. Điều đó đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải khai thác và
sử dụng triệt để mọi nguồn lực sẵn có của mình, trong đó sử dung có hiệu quả tài sản
là yêu cầu bắt buộc đối với mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tài sản được sử dụng nhằm thu được lợi
nhuận trong tương lai. Nói cách khác, mục đích của việc sử dụng tài sản là thu lợi
nhuận, cho nên hiệu quả sản xuất kinh doanh thường được đánh giá dựa trên so sánh
tương đối giữa lợi nhuận và tài sản bỏ ra hay hiệu quả sử dụng tài sản. Như vậy, nâng
cao hiệu quả sử dụng tài sản là phải sử dụng và tìm các biện pháp làm sao cho chi phí
sử dụng tài sản cho hoạt động sản xuất kinh doanh là ít nhất nhưng mang lại hiệu quả
cao nhất.
12
Hiệu quả sử dụng tài sản là phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác, sử
dụng tài sản vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục tiêu sinh
lợi tối đa với chi phí hợp lý .
Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản là mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp. Nâng
cao hiệu quả sử dụng tài sản không những đảm bảo cho doanh nhiệp an toàn về mặt tài
chính, hạn chế rủi do, tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên, mở rộng sản xuất kinh
doanh, tăng lợi nhuận mà còn giúp doanh nghiệp tăng uy tín, nâng cao khả năng cạnh
tranh và vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Có thể nói rằng hiệu quả sử dụng
tài sản thực chất là thước đo trình độ sử dụng nguồn nhân lực, tài chính của doanh
nghiệp, đó là vấn đề cơ bản gắn liền với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp .
Trong quá trình sử dụng tài sản, để đạt hiệu quả cao doanh nghiệp cần phải giải
quyết một số vấn đề sau:
Thứ nhất: Đảm bảo tính tiết kiệm, có nghĩa là tài sản của doanh nghiệp phải

được sử dụng hợp lý, đúng mục đích, tránh lãng phí tài sản hoặc để tài sản không sinh
lời.
Thứ hai: Phải tiến hành đầu tư, phát triển cả chiều sâu và mở rộng quy mô sản
xuất kinh doanh khi cần thiết.
Thứ ba: Doanh nghiệp phải đạt được các mục tiêu đề ra trong kế hoạch SXKD,
hiệu quả sử dụng tài sản là mục tiêu quan trọng nhất doanh nghiệp cần đạt tới.
1.2.2.Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản tại doanh nghiệp
Để đánh giá về hiệu quả sử dụng TSNH và TSDH, ta sử dụng các chỉ tiêu này,
tính toán và so sánh giữa các năm để có thể biết sự tăng hay giảm của hiệu quả sử
dụng tài sản của công ty. Thêm vào đó, ta cũng so sánh với trung bình ngành để xem
DN sử dụng tài sản có hiệu quả không. Các chỉ tiêu cụ thể như sau:
13
Chỉ tiêu đánh giá toàn bộ tài sản
Hiệu suất sử dụng tài sản =
Doanh thu thuần
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản được doanh nghiệp đầu tư đem lại mấy
đồng doanh thu thuần. Hiệu suất sử dụng tài sản càng lớn, trong khi các điều kiện khác
không đổi có nghĩa là hiệu quả quản lý toàn bộ tài sản càng cao, khả năng sử dụng tài
sản hợp lý và có hiệu quả.
Tỷ suất lợi nhuận tài sản =
Lợi nhuận sau thuế và lãi vay
Tổng tài sản
Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lời của đồng
tài sản đem đầu tư. Tỷ lệ này còn gọi là tỷ lệ hoàn vốn đầu tư, cho biết một đồng tài
sản đầu tư mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao thì chứng tỏ hiệu
quả sử dụng tài sản đầu tư là tốt và hiệu quả.
Tỷ suất sinh lời trên vốn
chủ sở hữu
=

Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu và trình độ sử dụng
tài sản của người quản lý. Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn chủ sở hữu tạo ra bao
nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao càng cho biết khả năng sử dụng tài sản
tốt, một đồng VCH bỏ ra tạo ra lợi nhuận cao hơn.
Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng TSDH
Hiệu suất sử dụng TSDH =
Doanh thu thuần
TSDH bình quân trong kì
Trong đó: TSDH bình quân torg kì là bình quân số học của TSDH có ở đầu kì và
cuối kì
Chỉ tiêu này phản ánh một đơn vị TSCDH trong kì tạo ra bao nhiêu đồng doanh
thu. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu suất sử dụng TSCĐ càng cao.
Hiệu suất sử dụng TSCĐ =
Doanh thu thuần
TSCĐ bình quân
14
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng TSCĐ có thể đảm bảo tạo ra bao nhiêu đồng
doanh thu. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu suất sử dụng TSDH càng cao, chất
lượng quản lý và sử dụng tài sản càng tốt.
Hàm lượng TSDH =
TSDH bình quân
Doanh thu thuần
Đây là đại lượng nghịch đảo của chỉ tiêu hiệu suất sử dụng TSDH. Nó phản ánh
để tạo ra một đồng doanh thu thuần thì cần bao nhiêu TSDH. Chỉ tiêu này càng nhỏ thì
càng tốt vì để tạo ra một đồng doanh thu thuần thì cần ít TSDH hơn.
Tỷ suất lợi nhuận TSDH =
Lợi nhuận sau thuế
TSDH bình quân

Chỉ tiêu này cho biết một đồng TSDH tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trong kì.
Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu suất sử dụng TSDH cao, một đồng TSDH có thể
tạo ra hơn một đồng lợi nhuận sau thuế.
Các chỉ tiêu liên quan đến TSNH
+ Vòng quay TSNH trong kì
Vòng quay TSNH trong kì được xác định bằng công thức:
Vòng quay TSNH =
Giá vồn hàng bán
TSNH bình quân trong kì
Chỉ tiêu này cho biết trong một kì TSNH của doanh nghiệp quay được bao nhiêu
vòng, nếu vòng quay càng lớn thì chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng hiệu quả TSNH cao
+ Hiệu suất sử dụng tài sản ngắn hạn
Hiệu suất sử dụng TSNH =
Doanh thu thuần
TSNH bình quân trong kì

Trong đó: TSNH bình quân trong kì là bình quân số học của TSNH có ở đầu kì
và cuối kì.
Chỉ tiêu này cho biết mỗi đơn vị TSNH sử dụng trong kì đem lại bao nhiêu đơn
vị doanh thu thuần. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu suất sử dụng TSNH càng cao.
+ Thời gian luân chuyển TSNH: được xác định bằng công thức
Thời gian luân chuyển TSNH =
360
15

×